ARXEN GUYÔ

ARXEN GUYÔ

Tổng số chương: 1

Người anh dũng thật, nhưng Parixơ và Fêbuxơ - Apôlông sẽ làm cho người phải chết ở cửa Xê (1)

Iiát, Chương XXII, câu 359 - 360

I

Lễ Mi-sa cuối cùng ở nhà thờ Thánh Rôsơ vừa xong, bác coi nhà thờ đi soát quanh để đóng cửa các nhà nguyện vắng vẻ. Bác sắp kéo tấm cửa sắt của một gian điện quý phái - ở đây một số bà sùng đạo bỏ tiền ra để mua cái quyền cầu nguyện Chúa một mình, không chung với các giáo dân khác - bỗng bác nhận thấy một người đàn bà còn ở lại trong đó, đầu gục xuống lưng ghế, hình như đang để hết tâm trí vào sự suy nghĩ."Đây là bà Đơ Piên", bác vừa tự nhủ thầm vừa dừng lại ở cửa vào nhà nguyện. Bà Đơ Piên là một người rất quen thuộc đối với bác.

Vào thời đó, một người đàn bà thuộc giới thượng lưu, trẻ, giàu, đẹp, cúng bánh thánh vào nhà thờ, tặng những khăn trải bàn thờ, cho nhiều của bố thí qua tay cha xứ, mà sùng đạo thì đáng được vị nể, khi chồng người ấy không phải là viên chức của chính phủ, khi bản thân không phải là người nhà của Bà Quận Chúa (2) và trong việc lui tới nhà thờ không được lợi lộc gì khác ngoài sự cứu rỗi linh hồn mình. Bà Đơ Piên là người như thế đấy. Bác coi nhà thờ muốn đi ăn bữa trưa lắm, vì những người vào loại bác thường ăn vào lúc một giờ, nhưng bác không dám quấy rối sự trầm tư thành kính của một người được giáo phận thánh Rôsơ hết sức trọng vọng. Cho nên bác lảng xa, nện vang đôi giày đã mòn đế trên sàn đá, hy vọng sau khi đi vòng quanh nhà thờ, bác sẽ thấy nhà nguyện chẳng còn ai nữa.

Bác đã đi tới phía bên kia điện thờ bỗng một thiếu phụ bước vào nhà thờ, vừa đi loanh quanh trong một gian bên của nhà thờ, vừa tò mò nhìn quanh. Những hậu bộ hương án (3), những điện thờ, những bình đựng nước phép, tất cả những cái đó đối với nàng cũng có vẻ lạ lùng như khi quý bà (4) nhìn thấy cái khám thờ (5) hoặc các bi-ký trong một ngôi đền Hồi giáo ở Lơ-Ke. Nàng trông độ hai mươi nhăm tuổi, nhưng phải ngắm nàng rất kỹ mới khỏi tưởng là nhiều tuổi hơn. Mặc dầu rất sáng, đôi mắt đen của nàng sâu hoắm và có quầng xanh xanh. Nước da trắng bệch và đôi môi tái nhợt biểu lộ sự đau khổ, tuy vậy trong khóe mắt có một vẻ gì vừa táo bạo, vừa tươi tỉnh tương phản với cái bề ngoài ốm yếu ấy. Trong phục sức của nàng, quý bà có thể nhận thấy một sự pha trộn kỳ dị giữa cẩu thả và cầu kỳ. Chiếc mũ mầu hồng, điểm những đóa hoa giả có lẽ thích hợp hơn với một chiếc áo dài trang nhã mặc vào buổi chiều. Một tấm khăn choàng dài bằng lụa Ca-sơ-mia, mà con mắt thông thạo của một phụ nữ thượng lưu có thể đoán ra rằng nàng không phải là người chủ đầu tiên, che phủ một chiếc áo dài bằng vải Ấn Độ giá hai mươi xu một ô-nơ (6) và hơi nhầu. Cuối cùng, có lẽ chỉ có đàn ông mới ca ngợi bàn chân của nàng, vì nó đi trong đôi bí tất tầm thường và đôi giày bằng len mỏng hình như đã bị vệ hè làm cho tang thương từ lâu lắm. Thưa bà, chắc bà nhớ rằng hồi đó người ta chưa phát minh ra nhựa đường.

Người phụ nữ ấy, mà chắc bà đã đoán ra địa vị xã hội, tiến lại gần nhà nguyện, nơi vẫn còn bà Đơ Piên; và sau khi ngắm nghía bà Đơ Piên một lúc với vẻ lo ngại lúng túng, nàng đến bên bà khi thấy bà đứng dậy sắp sửa đi ra.

- Thưa bà, nàng hỏi với một giọng nói dịu dàng và một nụ cười e lệ, bà làm ơn bảo cho em biết em có thể hỏi ai để nhờ cúng một cây sáp?

Ngôn ngữ đó đối với bà Đơ Piên lạ tai quá khiến bà thoạt nghe không hiểu. Bà bảo nàng nhắc lại câu hỏi.

- Vâng, em muốn cúng thánh Rôsơ một cây sáp, nhưng em không biết đưa tiền cho ai.

Lòng mộ đạo của bà Đơ Piên quá sáng suốt nên bà không thông hiểu những sự mê tín như thế của người bình dân. Song bà tôn trọng nó, vì có một cái gì đáng cảm động trong bất kỳ hình thức thờ phượng nào, dù thô kệch đến đâu chăng nữa. Bà tin chắc đây là một vấn đề cầu khẩn hoặc một cái gì tương tự, vả lại tính bà quá thương người nên qua y phục của người đàn bà trẻ tuổi đội mũ hồng kia, bà không thể rút ra những kết luận mà có lẽ độc giả đã không ngần ngại nêu lên; bà chỉ cho nàng bác coi nhà thờ đang tiến lại gần. Thiếu phụ lạ mặt cảm ơn bà và chạy đến bên người đó, bác này có vẻ đoán được ý nàng. Trong khi bà Đơ Piên cầm lấy cuốn kinh của mình và sửa lại tấm voan che mặt, bà thấy người phụ nữ cúng cây sáp rút trong túi ra một ví tiền nhỏ, nhặt trong đống tiền lẻ cất trong ví một đồng năm phơrăng đơn độc, rồi trao nó cho bác coi nhà thờ và thầm thì nói với bác những lời căn dặn dài khiến bác ta vừa nghe vừa mỉm cười.

Cả hai người phụ nữ bước ra khỏi nhà thờ cùng một lúc; nhưng người cúng cây sáp bước rất nhanh, khiến chẳng bao lâu bà Đơ Piên mất hút nàng mặc dầu bà đi cùng hướng. Đến góc phố bà ở, bà lại gặp nàng. Người phụ nữ lạ mặt cố giấu trong chiếc khăn ca-sơ-mia mua lại một ổ bánh mì nặng bốn li-vrơ (7) mua trong một cửa hiệu gần đấy. Gặp lại bà Đơ Piên, nàng cúi đầu, không ngăn được một nụ cười và rảo bước nhanh hơn. Nụ cười của nàng có ý nói:"Bà bảo làm thế nào được? Em nghèo. Xin bà cứ việc cười em. Em biết rõ rằng không ai đội mũ hồng và quàng khăn ca-sơ-mia mà lại đi mua bánh mì". Cái vẻ vừa thẹn thùng không phải cách, vừa nhẫn nhục, vừa tươi tỉnh của nàng không lọt qua con mắt của bà Đơ Piên. Bà không khỏi buồn rầu khi nghĩ đến cái hoàn cảnh mà cô gái kia chắc đang lâm vào:"Đức tin của cô ta, bà nghĩ thầm, đáng khen hơn đức tin của ta. Chắc chắn, việc cô ta cúng một ê-quy (8) là một sự hy sinh lớn hơn rất nhiều so với những cái thừa thãi ta chia cho kẻ nghèo mà chẳng mảy may thiếu thốn". Rồi bà nhớ tới hai đồng xu làm phúc của người đàn bà góa làm vừa ý Chúa hơn những món bố thí huy hoàng của những người giàu."Ta chưa làm điều thiện một cách đầy đủ, bà nghĩ thầm - Ta chưa làm tất cả những gì ta có thể làm được". Bà vừa đi về nhà, vừa tự trách thầm những điều thật ra bà không đáng chịu. Cây sáp, ổ bánh mì nặng bốn li-vrơ, và nhất là việc cúng đồng tiền năm phơ-răng duy nhất, đã ghi sâu vào ký ức của bà Đơ Piên hình ảnh người phụ nữ trẻ tuổi, mà bà coi là một gương sáng về đức tin.

Bà còn gặp nàng khá nhiều lần ở ngoài phố gần nhà thờ, nhưng không bao giờ gặp nàng trong các buổi lễ. Mỗi khi người phụ nữ lạ đó đi qua trước mặt bà Đơ Piên, nàng đều cúi đầu và mỉm cười dịu dàng. Nụ cười rất tự hạ đó vừa ý bà Đơ Piên. Bà muốn có dịp giúp đỡ người con gái tội nghiệp kia, người lúc đầu gợi sự chú ý của bà và bây giờ kích thích lòng thương hại của bà; vì bà đã nhận thấy cái mũ hồng đang bạc mầu dần và cái khăn choàng bằng lụa ca-sơ-mia đã biến mất. Chắc hẳn chiếc khăn choàng đã trở lại với người bán đồ cũ. Hiển nhiên là thánh Rôsơ đã không đền bù lại gấp trăm lần món lễ vật mà người ta đã cúng Ngài.

Một hôm, bà Đơ Piên thấy đưa vào nhà thờ Thánh Rôsơ một cỗ áo quan theo sau có một người đàn ông ăn mặc khá tồi tàn, không có băng tang trên mũ. Anh ta có vẻ như một người gác cổng. Đã hơn một tháng nay, bà không gặp thiếu phụ cúng cây nến, nên bà chợt nẩy ý nghĩ là mình đang chứng kiến đám tang của cô ta. Không có gì chắc chắn hơn, vì lần gặp cuối cùng trông cô ta xanh quá và gầy quá. Bác coi nhà thờ thấy bà hỏi mình bèn lên tiếng hỏi người đi theo cỗ áo quan. Anh này đáp rằng mình gác cổng ở một ngôi nhà phố Lu-y Đại đế; một người thuê nhà ở đấy đâu tên là bà Guyô mới chết không có bà con bạn bè gì cả, chỉ có một người con gái, và chỉ do lòng tốt nên anh ta, người gác cổng, đi đưa đám một người không có dây mơ rễ má gì với mình. Thế là bà Đơ Piên hình dung ngay ra rằng người phụ nữ lạ mặt của bà đã chết trong cảnh khổ cực, để lại một đứa con gái bơ vơ, và bà quyết tâm sẽ bảo một ông cố mà bà thường nhờ làm những việc từ thiện, đi hỏi thăm tin tức.

Hai hôm sau, khi bà vừa ra khỏi nhà thì một chiếc xe bò chắn ngang đường phố làm cho cỗ xe của bà phải dừng lại một lúc. Nhìn qua cửa sổ xe một cách lơ đãng, bà thoáng thấy người con gái mà bà tưởng đã chết đứng nép vào một cái trụ trên vệ hè. Bà nhận ngay ra cô gái, mặc dầu cô ta có vẻ xanh xao gầy còm hơn bao giờ hết, vận tang phục nhưng là y phục nghèo nàn, không có găng tay, không có mũ. Nét mặt của cô ta trông thật kỳ dị. Cô ta không còn nụ cười thường lệ nữa, mà tất cả nét mặt đều cau lại; đôi mắt đen to thì ngơ ngác dữ tợn; cô ta hướng đôi mắt đó về phía bà Đơ Piên, nhưng không nhận ra bà, vì cô ta không nhìn thấy gì hết. Tất cả bộ điệu của cô ta biểu lộ không phải sự đau khổ mà là một quyết định hung dữ. Chiếc xe bò đã tránh ra và cỗ xe của bà Đơ Piên rời xa theo vó ngựa phóng nhanh; nhưng hình ảnh của người con gái với vẻ mặt tuyệt vọng vẫn ám ảnh bà Đơ Piên hàng mấy giờ sau.

Lúc trở về, bà thấy người ta tụ tập rất đông trong phố của bà. Tất cả những mụ gác cửa đều đứng ở cửa nhà mình, và kể cho những mụ hàng xóm một câu chuyện mà những mụ này có vẻ chăm chú nghe lắm. Đám người chen chúc nhiều nhất ở trước một ngôi nhà gần nhà bà Đơ Piên. Mọi con mắt đều ngước nhìn một cửa sổ mở trên tầng gác ba, và trong mỗi đám nhỏ lại có một hay hai cánh tay giơ lên bảo cho mọi người chú ý đến cửa sổ đó, rồi đột nhiên những cánh tay lại trỏ xuống đất làm cho mọi con mắt đều nhìn theo động tác này. Chắc hẳn một biến cố bất thường nào đó vừa xảy ra.

Lúc đi qua gian nhà ngoài, bà Đơ Piên thấy bọn đầy tớ của bà có vẻ kinh hoảng, ai nấy đều hấp tấp chạy đến đón bà để được là người đầu tiên báo cho bà biết cái tin quan trọng trong khu phố. Nhưng bà chưa kịp hỏi câu gì thì chị hầu phòng của bà đã kêu lên:

- Ôi chao! Thưa bà!... Giá mà bà biết...

Và, mở các cửa ra vào một cách lanh lẹn không thể tả được, chị đã cùng bà chủ vào tới nội điện (9), tôi muốn nói phòng trang điểm, là nơi những người khác trong nhà không ai được bước vào.

- Ôi chao! Thưa bà, chị Giôdêfin vừa nói vừa tháo khăn choàng cho bà Đơ Piên, con vừa bị một phen thất kinh hồn vía! Chưa bao giờ con trông thấy cái gì ghê gớm đến thế, nghĩa là con không trông thấy, mặc dầu con chạy đến ngay lập tức... Tuy vậy mà...

- Có việc gì thế? Nói mau lên chị.

- Thưa bà, thế này, cách đây mấy nhà có một chị con gái nghèo khổ đáng thương đã gieo mình qua cửa sổ, cách đây chưa đầy ba phút. Nếu bà về sớm hơn một phút thôi, ắt bà sẽ nghe thấy tiếng rơi.

- Ối chao! Lạy Chúa tôi! Thế người con gái tội nghiệp ấy đã tự tử à?

- Thưa bà, kinh khủng quá. Ngay anh Báptít là người đã ra trận mạc cũng nói rằng anh ấy chưa từng thấy thế bao giờ. Thưa bà, từ tầng gác tư!

- Thế chị ta chết ngay chứ?

- Ồ! Thưa bà, chị ta vẫn còn động đậy; chị ta còn thều thào nói được nữa kia."Tôi muốn gười ta kết liễu đời tôi cho rảnh!" Chị ta nói thế. Nhưng thịt xương chị ta nát nhừ cả. Bà cũng có thể hình dung rõ là chị ta tự giáng cho mình một vố nặng như thế nào.

- Nhưng người con gái khốn khổ đó... người ta đã cứu chữa cho chị ta chưa? Người ta đã cho đi tìm thầy thuốc, linh mục chưa?

- Về chuyện linh mục thì... bà biết rõ hơn con đấy ạ... Nhưng nếu con là linh mục... Một đứa con gái khốn nạn bị bỏ rơi đến nỗi phải tự tử!... Vả lại, hạng người ấy hạnh kiểm chẳng ra gì...

Người ta thấy khá rõ điều đó... Hạng ấy đã ở Nhà hát Ôpêra, theo người ta nói... Tất cả cô ấy đều kết cục chẳng ra sao cả... Cô ta ra cửa sổ, buộc váy lại bằng một dải ruy-băng hồng, và vèo...

- Chính là cô gái nghèo khổ mặc tang phục! Bà Đơ Piên kêu lên, như tự nói với mình.

- Dạ vâng, mẹ cô ta chết cách đây ba bốn ngày. Chắc đầu óc cô ấy đã điên đảo cả rồi... Thêm vào đó, chắc có lẽ nhân tình của cô ấy đã lại bỏ rơi. Rồi thì hạn trả tiền đã đến... Không có tiền, hạng ấy có biết làm ăn gì... Những con người hư hỏng như vậy tất nhiên chả mấy chốc là làm một chuyện chẳng ra gì...

Chị Giôdêfin còn tiếp tục kể lể như thế một lúc mà bà Đơ Piên vẫn không trả lời. Hình như bà đang buồn rầu suy nghĩ về câu chuyện bà vừa được nghe. Đột nhiên, bà hỏi chị Giôdêfin:

- Chẳng biết người con gái khốn khổ ấy có những thứ cần thiết cho tình trạng của mình không?... quần áo?... nệm? Cần phải biết ngay điều đó mới được.

- Con sẽ theo lệnh bà đi hỏi, nếu bà muốn thế ạ, chị hầu phòng thốt lên, rất thích thú được nhìn tận nơi một người đàn bà tự sát.

Rồi, sau khi suy nghĩ, chị nói thêm:

- Nhưng con không biết con có đủ can đảm để nhìn cảnh đó không, một người đàn bà nhảy từ gác tư xuống!... Dạo người ta trích máu cho anh Báptít, con đã ngất đi. Con không thể chịu nổi quang cảnh ấy.

- Thế thì chị bảo Báptít đi, bà Đơ Piên kêu lên; nhưng phải mau mau báo cho tôi biết người con gái bất hạnh ấy hiện nay như thế nào.

May sao bác sĩ K..., thầy thuốc của bà, đến vừa lúc bà ra lệnh đó. Ông ta đến ăn cơm ở nhà bà Đơ Piên, theo lệ thường vào những ngày thứ ba trong tuần là những ngày đi xem Nhà hát Ô-pê-ra Ý.

- Chạy mau lên bác sĩ, bà kêu lên, chẳng để cho ông ta có thì giờ đặt gậy xuống và bỏ áo bông ra. Báptít sẽ dẫn bác sĩ đi cách đây có hai bước chân thôi. Một cô gái nghèo khổ vừa nhảy qua

cửa sổ, và cô ấy hiện không có người cứu chữa.

- Qua cửa sổ ư? Người thầy thuốc nói. Nếu cửa sổ cao thì chắc tôi cũng đến chịu không làm gì được. Lúc này bác sĩ thèm bữa cơm hơn một ca mổ; nhưng bà Đơ Piên nài ép, nên sau khi có lời hứa bữa ăn sẽ hoãn lại, ông thuận đi theo Báptít.

Được mấy phút, một mình Báptít trở về. Anh ta hỏi quần áo, gối v.v.. Đồng thời anh ta đem về lời tiên tri của bác sĩ.

- Không việc gì cả. Cô ta sẽ qua khỏi, nếu không chết về... Tôi không nhớ bác sĩ bảo cô ta chắc chắn sẽ chết về gì, nhưng vần ốt sau cùng.

- Tê-ta-nốt (10)! Bà Đơ Piên kêu lên.

- Thưa bà, đúng đấy ạ; nhưng dù sao cũng rất may là ông bác sĩ đến, vì ở đấy đã có một lão lang băm không có bệnh nhân, chính cái lão chữa bệnh sởi cho con bé nhà bác Bertơlô, lão ta khám bệnh đến lần thứ ba thì con bé chết.

Một giờ sau, bác sĩ lại hiện ra với bộ tóc giả hơi bay phấn chút ít và cái lá sen đẹp bằng vải mịn bị xốc xếch.

- Những kẻ tự tử, ông nói, thường tốt số. Hôm nọ, người ta đưa tới bệnh viện tôi một người đàn bà đã tự bắn một phát súng ngắn vào miệng. Cách ấy dở quá!... Chị ta bị gãy ba cái răng, bị khoét một lỗ bên má trái... Do đó chị ta sẽ xấu thêm chút ít, thế thôi. Còn người con gái này thì nhảy từ gác tư xuống. Cứ người thường mà vô ý ngã từ gác hai xuống cũng phải vỡ sọ... cô gái này chỉ bị gãy một chân... Hai xương sườn bị gãy, nhiều chỗ bị sây sát, thế thôi. Một mái hiên nằm đúng ngay ở đó để giảm bớt sức rơi. Đây là trường hợp tương tự thứ ba mà tôi thấy từ khi trở về Paris... Hai chân chống xuống đất. Xương chầy và xương mác sẽ hàn lại được... Tệ hại hơn hết là món cá chim này bị khô mất cả rồi... Tôi còn lo cho món thịt quay và chúng ta sẽ lỡ mất hồi thứ nhất của vở Ôtelô.

- Thế người con gái bất hạnh đó có nói cho ông biết ai làm cho cô ta đến nỗi phải..

- Ồ! Thưa bà, tôi chẳng bao giờ nghe những chuyện ấy. Tôi chỉ hỏi "Trước lúc đó, cô đã ăn gì chưa?" v.v... vì điều đó quan hệ đến điều trị... Phải rồi! Người ta mà tự tử, chính là vì người ta có một lý do không hay nào đó. Tình nhân bỏ mình này, chủ nhà đuổi mình ra cửa này; người ta thấy nhảy qua cửa sổ để chống đối lại. Nhưng vừa mới lao vào không trung là hối hận ngay.

- Con bé tội nghiệp ấy, nó hối hận chứ, tôi mong thế?

- Tất nhiên, tất nhiên. Cô ta khóc lóc và làm ầm ĩ khiến tôi choáng váng cả người... Thưa bà,

Báptít thật là một người phụ mổ cừ; anh ta làm phần việc của mình giỏi hơn một chú sinh viên phẫu thuật có mặt ở đó, chú chỉ đứng gãi đầu, chẳng biết làm ăn ra sao cả... Buồn cười nhất cho cô ta là nếu cô ta tự tử mà chết được thì cô ta sẽ có lợi vì không phải chết về bệnh phổi; vì cô ta bị lao, tôi xin bảo đảm đúng như thế. Tôi chưa nghe phổi cô ta, nhưng xem khí sắc thì tôi không bao giờ nhầm. Việc gì phải vội thế nhỉ, trong khi cứ để mặc tự nhiên tác động là được!

- Mai bác sĩ sẽ đến thăm cô ta, bác sĩ nhé?

- Tất nhiên tôi sẽ phải đến thăm nếu bà muốn thế. Tôi đã hứa với cô ta là bà sẽ giúp cô ta một chút ít gì đấy. Giản tiện nhất là đưa cô ta đi bệnh viện... Người ta sẽ cấp không cho cô ta một bộ nẹp để nắn xương chậu... Nhưng, vừa nghe nói đến bệnh viện là cô ta hét lên đòi người ta làm cho cô chết hẳn đi cho rảnh; tất cả những mụ lắm điều cũng phụ họa vào. Tuy nhiên, khi người ta không có một đồng xu nhỏ...

- Bác sĩ ạ, tôi sẽ bỏ tiền chi những món lặt vặt cần thiết. Này, cái tiếng bệnh viện ấy chính tôi cũng phải khiếp sợ, giống như những mụ lắm điều mà ông vừa nói. Vả lại, bây giờ cô ta đang ở trong tình trạng kinh khủng như thế mà chở vào bệnh viện, thì ắt là giết cô ta.

- Thành kiến! Hoàn toàn là thành kiến của những bậc thượng lưu! Chẳng có nơi nào tốt bằng bệnh viện. Tôi thì khi nào tôi ốm thật sự, tôi chỉ muốn người ta mang tôi đến bệnh viện. Đó chính là nơi mà tôi muốn xuống con đò của Sarông(11), và tôi sẽ đem thi thể tôi tặng cho bọn sinh viên... lẽ dĩ nhiên là còn ba bốn mươi năm nữa kia. Nghiêm chỉnh mà nói, thưa bà, tôi xin bà suy nghĩ về điều này! Tôi không biết rõ con người được bà che chở có thực đáng để bà chú ý đến không... Tôi thấy cô ta hoàn toàn có vẻ một cô ở Ô-pê-ra. Phải có cặp giò Ô-pê-ra mới có thể nhảy một cái như vậy mà may mắn đến thế...

- Nhưng tôi đã trông thấy cô ta ở nhà thờ... và này bác sĩ ạ... ông cũng rõ cái sở thích của tôi, tôi hay xây dựng cả một câu chuyện chỉ dựa vào một khuôn mặt, một khóe mắt... Ông muốn cười thế nào cũng được, nhưng tôi rất ít khi nhầm. Người con gái đáng thương này mới đây cầu nguyện cho bà mẹ đang ốm... Mẹ cô ta chết... thế là cô loạn cả đầu óc... sự tuyệt vọng, nghèo khổ đã đẩy cô đến hành động khủng khiếp đó.

- Tốt lắm! Vâng, quả thật ở đỉnh sọ cô ta có một cái bướu biểu lộ tính khí hay phấn khích cực độ. Tất cả những điều bà vừa nói với tôi có thể khá đúng sự thật. Bà làm tôi nhớ ở phía trên cái giường khổ hạnh (12) của cô có một cành hoàng dương (13). Cái đó đủ để chứng minh đức tin của cô ta phải không bà?

- Giường khổ hạnh à? Chao ôi! Lạy Chúa! Tội nghiệp cho người con gái!... Nhưng, bác sĩ ạ, ông có nụ cười độc ác mà tôi biết rõ lắm. Tôi không nói cô ta có mộ đạo hay không mộ đạo. Sở dĩ tôi phải quan tâm đến cô gái ấy, chính là vì tôi có một điều ân hận về trường hợp cô ấy...

- Một điều ân hận?... Tôi hiểu rồi. Chắc bà nghĩ rằng đáng lẽ bà phải sai trải nệm ra ngoài phố để đón cô ta tới?

- Phải, một điều ân hận. Tôi đã nhận thấy hoàn cảnh của cô ta; lẽ ra tôi phải cho người đến giúp cô ta; nhưng cha Đuybinhông lại ốm không dậy được, và...

- Thưa bà, chắc bà phải ân hận nhiều, nếu bà nghĩ rằng việc giúp đỡ tất cả những người đến cầu xin, như bà vẫn thường làm, là chưa đủ. Theo ý bà thì còn cần phải đoán ra những kẻ nghèo khổ không dám nói ra nữa. Nhưng thưa bà ta đừng nói đến những chuyện gẫy chân nữa, hay đúng hơn thì tôi xin nói ba câu nữa thôi. Nếu bà định ban sự che chở cao quý của bà cho người bệnh mới của tôi thì đến mai xin bà cho cô ấy một cái giường khá hơn và một người đàn bà chăm nom, còn hôm nay có những mụ lắm mồm cũng đủ rồi. Canh ăn, thuốc uống v.v... và nếu được thế này thì tốt, xin bà phái người đến một người thật vững vàng trong số những cha cố của bà, để răn bảo và phục hồi tinh thần cho cô ta như tôi đã phục hồi cái chân cho cô ta. Cô ta dễ cáu kỉnh lắm; nhiều chuyện rắc rối có thể xảy đến cho chúng ta... Bà sẽ là... vâng, thật thế! Bà sẽ là người thuyết giáo tốt nhất, nhưng bà nên thuyết giáo đúng chỗ hơn... Tôi xin hết lời. Bây giờ là tám rưỡi; tôi van bà, xin bà hãy sửa soạn đi xem nhạc kịch đi. Báptít sẽ mang cà-phê và tờ báo "Tranh luận" đến cho tôi. Suốt ngày hôm nay tôi phải chạy, đến nỗi bây giờ tôi vẫn còn chưa biết thế giới ra làm sao.

Vài ngày trôi qua, và người bệnh đã đỡ được chút ít. Ông bác sĩ chỉ phàn nàn rằng sự khích động thần kinh quá mức chưa thuyên giảm.

- Tôi không tin mấy vào tất cả các cha cố của bà, ông ta nói với bà Đơ Piên. Nếu cảnh tượng khốn khổ của loài người không làm cho bà ghê tởm đến nỗi bà không dám nhìn - và tôi biết rằng bà có can đảm để nhìn - thì bà có thể xoa dịu đầu óc cô bé đáng thương ấy hơn một cha cố nhà thờ Rôsơ, và hơn cả một liều Tơ-ri-đát (14).

Bà Đơ Piên không thích gì hơn và đề nghị cho bà đi theo bác sĩ ngay tức khắc. Cả hai đến nhà người bệnh.

Trong một gian phòng kê ba chiếc ghế dựa nhồi rơm và một cái bàn nhỏ, người bệnh đang nằm dài trên một chiếc giường tốt của bà Đơ Piên cho đem đến. Khăn trải giường mịn, nệm dày, một chồng gối rộng, chứng tỏ có sự săn sóc từ thiện mà ta dễ dàng đoán ra là của ai. Người con gái xanh xao kinh khủng, con mắt sáng rực, đang để một cánh tay ra khỏi giường, và phần cánh tay thò ra ngoài chiếc áo bệnh nhân trông tái nhợt, sây sát, khiến người ta có thể đoán phần thân thể còn lại ở trong tình trạng như thế nào. Trông thấy bà Đơ Piên, cô ta nhấc đầu lên và nói với một nụ cười dịu dàng buồn bã:

- Thưa bà, em biết chắc chính bà là người đã rủ lòng thương đến em. Người ta đã nói tên bà cho em biết, và em tin chắc rằng bà chính là vị phu nhân mà em gặp ở gần nhà thờ Thánh Rôsơ. Hình như tôi đã nói rằng bà Đơ Piên có phần nào tự phụ có tài xét người qua nét mặt. Bà rất sung sướng phát hiện ra rằng người con gái được bà che chở cũng có cái tài như thế, và sự phát hiện ấy càng làm cho bà quan tâm đến cô ta.

- Em ở đây khổ lắm nhỉ, tội nghiệp cho em quá! bà vừa nói vừa đưa mắt nhìn quanh cách bày biện nghèo nàn của gian phòng. Tại sao người ta chưa đem rèm cửa đến cho em?... Em phải hỏi Báptít những thứ lặt vặt mà em có thể cần đến.

- Thưa bà, bà tốt quá... Em thiếu cái gì nào? Không thiếu gì cả... thế là được rồi... Dễ chịu hơn một chút hay khó chịu hơn một chút, thì có sao đâu?

Và quay đầu đi chỗ khác, cô thút thít khóc.

- Tội nghiệp em, em đau đớn lắm phải không? Bà Đơ Piên vừa hỏi vừa ngồi xuống bên

giường.

- Dạ không, em không đau lắm... Duy chỉ có lúc nào em cũng nghe trong tai tiếng gió ù ù khi em rơi, với tiếng răng rắc khi em ngã xuống mặt đường.

- Em thân yêu ạ, lúc đó em thật là điên; bây giờ em thấy hối hận, phải không?

- Vâng... nhưng trong lúc khổ sở, thì người ta có còn đâu là đầu óc nữa.

- Tôi rất tiếc không biết tình thế của em sớm hơn. Nhưng em ạ, trong bất cứ trường hợp nào trên đời, ta cũng không nên tuyệt vọng.

- Thưa bà, bà chỉ biết nói cho thích thôi, ông bác sĩ đang viết đơn thuốc bên một chiếc bàn con nói. Bà không biết rằng mất một chàng thanh niên đẹp trai có ria mép là như thế nào cả.

Nhưng mà, trời đất ơi! Muốn chạy theo chàng ta thì không được nhảy qua cửa sổ.

- Thôi đi, bác sĩ! Bà Đơ Piên nói, chắc cô bé tội nghiệp này có những lý do khác khiến...

- A! Em cũng không biết là vì cái gì, người ốm kêu lên! Hàng trăm lý do chứ không phải một đâu. Trước hết là khi mẹ em mất đi, em đau đớn quá. Rồi thì em cảm thấy bơ vơ... Không có ai

săn sóc đến em cả! Sau cùng là một người mà em nghĩ tới nhiều hơn tới bất cứ ai... Thế mà, thưa bà người đó quên đến cả tên của em! Vâng, em tên là Arxen Guyô, G, U, Y, Ô, có chữ Y, người đó lại viết I trong thư gửi cho em.

- Đấy, tôi đã bảo mà, một anh chàng bội bạc! Chỉ toàn là thấy thế. Thôi! Thôi! Cô em ơi, hãy quên con người ấy đi. Một anh chàng không có trí nhớ thì không đáng để mình nghĩ tới đâu.

Bác sĩ rút đồng hồ bỏ túi của mình ra.

- Bốn giờ rồi kia à? ông vừa nói vừa đứng dậy; chậm giờ khám bệnh của tôi mất rồi. Thưa bà, tôi có lỗi với bà vô cùng, nhưng tôi phải tạm biệt bà; tôi không có thời giờ đưa bà về nhà. Thôi, chào cô bé nhé, cô hãy bình tĩnh lại, không sao đâu. Cô sẽ khiêu vũ được bằng cái chân ấy chẳng kém gì cái chân bên kia đâu. Còn bác, bác coi người ốm ạ, bác hãy cầm đơn thuốc này đến hiệu thuốc và làm như hôm qua nhé.

Người thầy thuốc và người coi bệnh nhân đã đi khỏi; bà Đơ Piên ở lại một mình với người bệnh, hơi hốt hoảng vì thấy có vấn đề tình ái trong câu chuyện mà thoạt tiên bà đã sắp đặt khác hẳn trong trí tưởng tượng của bà.

- Tội nghiệp em, thế ra người ta đã lừa dối em! Bà lại cất tiếng sau một lúc im lặng.

- Em ấy ạ? Sao lại gọi là lừa dối một đứa con gái khốn nạn như em?.. Chỉ có là anh ấy không thích em nữa... Anh ấy có lý, em không hợp ý anh ấy nữa. Bao giờ anh ấy cũng tốt và quảng đại.

Em có viết thư để nói cho anh ấy biết em lâm vào hoàn cảnh như thế nào, và để hỏi xem anh ấy có muốn em quay lại với anh ấy không... Anh ấy bèn viết cho em... những điều làm em rất khổ tâm... Hôm nọ, lúc về nhà, em đánh rơi cái gương của anh ấy cho em, thứ gương Vơnidơ, gương vỡ... Em tự nghĩ: đây là đòn cuối cùng!... Đây là điềm không còn gì nữa... Em không còn gì của anh ấy nữa. Em đã đưa các đồ nữ trang lên hiệu cầm đồ rồi... Thế rồi em nghĩ nếu em tự hủy hoại thân em đi, anh ấy sẽ buồn phiền, thế là em sẽ báo được thù... Cửa sổ lúc đó đang mở, và em đã lao mình qua.

- Nhưng thật khốn khổ khốn nạn cho em quá! Cái lý do hão huyền bao nhiêu thì cái việc làm có tội bấy nhiêu.

- Đúng lắm ạ; nhưng bà bảo làm thế nào? Khi sầu não thì còn suy nghĩ gì. Đối với những người sung sướng, thật dễ nói:"Chị nên biết điều".

- Tôi biết thế; hoạn nạn thường khuyên người ta điều dở. Tuy nhiên, ngay giữa những cuộc thử thách đau đớn nhất, cũng có những điều người ta nhất thiết không được quên. Tôi đã thấy em làm một việc kính tin ở nhà thờ Thánh Rôsơ cách đây ít lâu. Em có hạnh phúc biết tin đạo. Em ạ, lẽ ra tôn giáo phải ngăn em lại lúc em sắp sa vào tuyệt vọng. Đời của em, em nhận được của Chúa. Nó không phải của em... Nhưng tôi trách em lúc này thật không phải, em thân thương ạ. Em ăn năn, em đau khổ, Chúa sẽ thương xót em.

Arxen cúi đầu và mấy giọt nước mắt đọng trên mí mắt.

- Chao ôi! Thưa bà, cô nói với một tiếng thở dài não nuột, em đâu có được là một người khá như bà tưởng... Bà tưởng em là người kính tin... em không có lòng tin được mấy đâu... em không được chỉ bảo, và nếu bà thấy em vào nhà thờ cúng cây sáp... chính vì em không còn biết xoay xở ra sao.

- Em ạ! Đó là một tư tưởng tốt đấy. Trong cơn hoạn nạn, bao giờ ta cũng phải tìm đến Chúa.

- Em nghe nói... rằng nếu em cúng một cây sáp vào nhà thờ Thánh Rôsơ, nhưng thôi, thưa bà, em không thể nói với bà cái đó. Một phu nhân như bà không thể biết con người có thể làm gì khi không còn xu nào.

- Chính can đảm là điều chủ yếu ta phải cầu xin Chúa.

- Nói tóm lại, thưa bà, em không muốn tỏ ra mình khá trong khi mình không còn được như thế, và chính là lấy cắp của bà nếu em lợi dụng lòng từ thiện của bà đối với em trong khi bà chưa biết em... Em là một đứa con gái khốn nạn... nhưng trong đời này, làm thể nào để có thể sống được thì người ta làm thôi... Để chấm dứt câu chuyện đó, thưa bà, thế là em cúng cây sáp, vì mẹ em nói rằng nếu cúng một cây sáp ở nhà thờ Thánh Rôsơ thì thế nào trong tuần cũng tìm được một người để ăn ở với họ... Nhưng em đã xấu đi, trông em như cái xác ướp... không ai thích em nữa... Vậy thì chỉ còn có nước chết... Thế này cũng đã là làm được một nửa rồi!

Tất cả những điều ấy được nói lên rất nhanh, bằng một giọng đứt đoạn vì tiếng nức nở, một giọng nói của người mê hoảng làm cho bà Đơ Piên còn hãi sợ hơn là ghê tởm. Bất giác, bà kéo ghế xa giường người bệnh. Có lẽ bà còn rời khỏi gian phòng kia nữa, nếu như lòng nhân đạo, mạnh hơn sự ghê tởm, bên người đàn bà sa đọa này, không nổi lên trách cứ bà sao nỡ bỏ người đó một mình bơ vơ vào lúc tuyệt vọng ghê gớm nhất. Im lặng một lúc rồi bà Đơ Piên, hai mắt nhìn xuống, khẽ thì thầm:

- Mẹ em! Khốn khổ khốn nạn cho em! Em dám nói gì thế?

- Ồ! mẹ em cũng như tất cả mọi người mẹ... tất cả mọi người mẹ của bọn em... Mẹ em trước kia nuôi mẹ của mẹ... em cũng nuôi mẹ em... May mà em không có con. Thưa bà, em biết rõ là em làm cho bà sợ hãi... Nhưng bà bảo biết làm thế nào? Bà được giáo dục tốt, bà chưa bao giờ phải cơ cực. Khi con người ta giàu thì dễ lương thiện. Em đây, nếu có phương tiện em cũng đã là người lương thiện rồi. Em đã có bao nhiêu là tình nhân... trước sau em chỉ yêu có một người.

Anh ta bỏ rơi em. Nếu em giàu, hai người đã lấy nhau rồi và đã sinh con đẻ cái lương thiện như ai. À thưa bà, em thấy thế nào cứ nói thế với bà, hết sức thành thật, mặc dầu em thấy rõ bà nghĩ gì về em, và bà nghĩ như thế là phải... Nhưng bà là người đàn bà lương thiện duy nhất được nghe kể cuộc đời của em, và trông bà tốt quá! tốt quá!... Đến nỗi hồi nãy em nghĩ thầm: ngay khi nào bà ấy biết mình, bà ấy sẽ vẫn thương mình. Em sắp chết rồi, em chỉ xin bà một điều... là sau khi em chết, xin bà xin cho em một lễ tại nhà thờ mà em đã được gặp bà lần đầu tiên. Đôi lời cầu nguyện, thế thôi, và em sẽ cảm ơn bà vô cùng...

- Không, em sẽ không chết đâu! bà Đơ Piên rất cảm động, kêu lên. Chúa sẽ thương xót em, kẻ có tội đáng thương ạ. Em sẽ ăn năn về những sự phóng đãng của mình, và Chúa sẽ tha thứ cho em. Nếu những lời cầu nguyện của tôi có thể giúp phần nào cho việc cứu rỗi phần hồn của em, thì thế nào tôi cũng sẽ làm. Những kẻ nuôi dạy em có tội lỗi hơn em. Duy có điều là em phải can đảm lên và hy vọng. Nhất là em phải cố bình tĩnh hơn, em bé tội nghiệp ạ. Cần phải chữa phần xác cho khỏi, phần hồn cũng không lành mạnh đâu, nhưng tôi, tôi bảo đảm là nó sẽ khỏi.

Bà vừa nói vừa đứng dậy, và vân vê trong mấy ngón tay một mảnh giấy gói vài đồng lu-y (15).

- Này, bà nói, nếu em có thích cái gì...

Và bà luồn xuống dưới gối cô gái món quà nhỏ của mình.

- Đừng thế, bà ạ! Arxen vùng kêu lên và đẩy gói giấy ra, em không muốn xin bà gì cả ngoài điều bà đã hứa với em. Xin vĩnh biệt bà. Chúng ta sẽ không bao giờ gặp nhau nữa. Xin bà cho đưa em vào bệnh viện, để em chết quách đi mà không phiền lụy đến ai. Không bao giờ bà có thể làm cho em trở thành một con người ra gì đâu. Một bà lớn như bà chắc sẽ cầu nguyện cho em; thế là em vui lòng rồi. Xin vĩnh biệt!

Bộ nẹp buộc cô gái vào giường còn để cho cô xoay mình được chừng nào thì cô cố xoay mình chừng nấy, và cô rúc đầu vào gối để khỏi nhìn thấy gì nữa.

- Arxen, em hãy lắng nghe tôi, bà Đơ Piên nói giọng nghiêm trang, tôi có những ý định về em. Tôi muốn làm cho em trở thành một người phụ nữ lương thiện. Thấy em ăn năn, tôi tin chắc là có thể được. Tôi sẽ đến thăm em luôn, tôi sẽ săn sóc em. Một ngày kia, em sẽ biết tự quý trọng mình nhờ có tôi. Và bà cầm lấy bàn tay cô gái, nhè nhẹ nắm lại.

- Bà làm em cảm động quá! Cô gái đáng thương thốt lên, bà đã siết tay em!

Và bà Đơ Piên chưa kịp rút bàn tay mình về thì cô đã nắm lấy nó hôn lấy hôn để, nước mắt của cô chảy đầm đìa lên nó.

- Em hãy bình tĩnh lại, bình tĩnh lại, em thân mến ạ, bà Đơ Piên nói, em đừng nói thêm với tôi điều gì nữa. Bây giờ tôi biết tất cả rồi, và tôi hiểu em hơn cả em tự hiểu em. Chính tôi sẽ là người thầy thuốc cho đầu óc của em... cho cái đầu óc ốm yếu của em. Em phải vâng lời tôi, tôi đòi hỏi như thế, y như vâng lời ông bác sĩ của em. Tôi sẽ bảo một cha cố bạn thân của tôi đến đây, em phải nghe lời ông ấy nói. Tôi sẽ chọn cho em những quyển sách hay, em hãy đọc những quyển sách đó. Thỉnh thoảng chúng ta sẽ chuyện trò với nhau. Khi nào em khỏe, lúc đó chúng ta sẽ bàn tính đến tương lai của em.

Người đàn bà coi người ốm trở về, tay cầm một chai nhỏ mang từ hiệu thuốc. Arxen vẫn còn khóc. Bà Đơ Piên lại bắt tay cô gái một lần nữa, đặt gói tiền lên cái bàn con rồi bước ra, có lẽ còn quyết tâm giúp đỡ cô gái sám hối kia hơn cả lúc bà chưa nghe thấy lời xưng tội lạ kỳ của cô ta.

- Thưa quý bà, tại sao bao giờ ta cũng yêu những kẻ xấu nhỉ? Từ đứa con phóng đãng cho đến con chó Kim cương (16) của quý bà, nó cắn tất cả mọi người và là con vật hung ác nhất trần đời, nó càng không đáng được chú ý chừng nào thì lại càng được chú ý chừng nấy. Tự phụ? thưa quý bà, tình cảm đó chính là sự tự phụ! là cái thú thắng được khó khăn! Người cha của đứa con phóng đãng đã thắng được con quỷ và giành lại cái mồi của nó; quý bà đã đại thắng được cái bản chất xấu xa của con Kim cương nhờ cứ cho nó ăn kẹo mãi. Bà Đơ Piên tự hào đã thắng được nết hư hỏng của một cô gái giang hồ, nhờ tài hùng biện của mình phá vỡ được những bức rào mà hai mươi năm cám dỗ đã dựng lên xung quanh một tâm hồn đáng thương bị ruồng bỏ.

Thêm vào đó, ta có nên nói không nhỉ? Có lẽ xen vào sự kiêu hãnh về thắng lợi này, vào cái thú làm được một việc thiện còn có cái tính tò mò của khá nhiều phụ nữ đức hạnh muốn biết một người đàn bà thuộc loại khác ra sao. Khi một ca kỹ bước vào một phòng khách, tôi đã nhận thấy những khóe mắt lạ lùng hướng về phía cô ta. Quan sát cô ta kỹ nhất, không phải là những người đàn ông. Thưa quý bà, ngay như quý bà, tối hôm nọ, ở Hý Viện Pháp(17) quý bà đã chẳng giơ mãi ống nhòm nhìn thật kỹ cái cô nữ diễn viên rạp Tạp-mục(18) ngồi trong phòng lô mà người ta chỉ cho quý bà là gì? Sao người ta lại có thể là người Ba-Tư nhỉ (19). Biết bao lần người ta tự đặt cho mình những câu hỏi như thế!

Vậy thì thưa quý bà, bà Đơ Piên nghĩ nhiều đến cô Arxen Guyô và tự nhủ thầm:"Ta sẽ cứu vớt người con gái đó".

Bà phái một linh mục đến khuyến khích cô ta sám hối. Sám hối không phải là chuyện khó khăn gì đối với cô Arxen đáng thương kia, vì trừ đôi lúc thật vui, suốt đời cô chỉ toàn là những nỗi khổ cực. Quý bà hãy nói với một người đau khổ:" Đó là lỗi của anh", người đó sẽ thấy đúng quá đi mất; và nếu đồng thời quý bà làm nhẹ bớt sự trách móc bằng đôi lời an ủi, thì người đó sẽ cảm ơn quý bà vô cùng và hứa với quý bà làm đủ mọi thứ từ nay về sau. Một người Hy Lạp đã nói ở một chỗ nào đó, hay đúng hơn là Amyô (20) đã mượn lời người đó để nói rằng: Cái ngày một con người tự do lâm vào vòng xiềng xích cũng là ngày đoạt mất nửa phần đức tính đầu tiên của chàng.

Diễn đạt cách ngôn đó bằng văn xuôi tầm thường nghĩa là hoạn nạn làm cho chúng ta trở nên hiền lành và dễ bảo như những con cừu. Linh mục nói với bà Đơ Piên rằng cô Guyô rất ngu dốt nhưng bản chất không xấu và ông có nhiều hy vọng cứu rỗi linh hồn nàng. Thực tế, Arxen nghe ông nói một cách chăm chú và kính cẩn. Nàng đọc hoặc nhờ đọc những cuốn sách mà người ta bảo đọc; nàng tuân theo lời bà Đơ Piên cũng đúng sát như tuân theo những đơn thuốc của ông bác sĩ. Nhưng điều làm cho nàng hoàn toàn thu được cảm tình của ông linh mục phúc đức kia, và làm cho nữ ân nhân của nàng tưởng là dấu hiệu dứt khoát về sự khỏi bệnh tinh thần của nàng, đó là việc nàng sử dụng một phần món tiền nhỏ trao vào tay nàng. Nàng đã xin một lễ trọng thể ở nhà thờ Thánh Rôsơ cho linh hồn Pamêla Guyô, người mẹ vừa quá cố. Chắc chắn không có linh hồn nào lại cần những lời cầu nguyện của nhà thờ hơn linh hồn đó.

II

Một buổi sáng, bà Đơ Piên đang trang điểm thì một anh đầy tớ đến gõ nhẹ cửa phòng riêng và trao cho chị Giôdêfin tấm danh thiếp của một chàng thanh niên vừa đem tới.

- Mác đến Pari à! Bà Đơ Piên liếc nhìn tấm danh thiếp thốt kêu lên, mau đi chị, chị chạy ra bảo ông Đơ Xalinhi chờ tôi ở phòng khách.

Một lát sau, trong phòng khách nghe có tiếng cười rúc rích và những tiếng kêu bị bịt lại, rồi chị Giôdêfi trở vào, mặt đỏ bừng với chiếc mũ vải lệch xuống hẳn một bên tai.

- Cái gì thế hử chị? bà Đơ Piên hỏi.

- Thưa bà, có gì đâu ạ; chỉ có là ông Đơ Xalinhi bảo con béo ra.

Quả vậy, Đơ Xalinhi có thể ngạc nhiên thấy chị Giôdêfi béo ra, vì chàng đi xa đã hơn hai năm nay. Trước kia, Mác là một người được chị Giôdêfi ưa thích và là một người rất chú ý đến bà chủ của chị ta. Chàng là cháu của một người bạn thân của bà Đơ Piên, nên hồi xưa người ta luôn luôn thấy chàng đi theo thím của chàng đến nhà bà. Vả lại trong các nơi chàng hay lui tới, hầu như chỉ có nơi này là đứng đắn. Mác Đơ Xalinhi vốn nổi tiếng là một con người khá hư hỏng, cờ bạc, hay gây sự đánh nhau, nói tóm lại là đứa con khá nhất của xã hội thượng lưu.

Chàng làm cho thím chàng là bà Ôbrê đến thất vọng vì chàng, tuy nhiên bà Ôbrê rất yêu quý cháu. Đã nhiều lần bà định kéo chàng ra khỏi cái cuộc đời mà chàng quen sống, nhưng lần nào những thói xấu của chàng cũng thắng những lời khuyên nhủ khôn ngoan của bà. Mác hơn bà Đơ Piên chừng hai tuổi, hai người quen nhau từ khi còn bé và trước khi bà Đơ Piên lập gia đình, Mác hình như rất để ý đến bà:"Em thân yêu của tôi ạ, bà Ôbrê nói, nếu em muốn thì chị tin chắc em có thể kiềm chế được cái tính nết ấy. Bà Đơ Piên - hồi đó tên là cô Elidơ Đơ Ghixca – có lẽ cũng thấy mình có đủ can đảm để thử làm công việc đó, vì một người vui tính, ngộ nghĩnh, hay hay như Mác trong cuộc sống ở một lâu đài, một người khiêu vũ không biết mệt như Mác chắc chắn phải thành một người chồng tốt; nhưng cha mẹ cô Elidơ lại nhìn xa hơn. Ngay cả bà Ôbrê cũng không dám bảo đảm quá cho cháu mình; người ta phát hiện ra rằng chàng mắc nợ và có một cô nhân ngãi; rồi xảy đến một vụ quyết đấu lừng lẫy do một vũ nữ ở rạp Dimuadơ (21) là nguyên nhân không lấy gì làm hiền lành lắm. Cuộc hôn nhân, mà bà Ôbrê trước nay không bao giờ dám nghĩ tới một cách thật nghiêm túc, bị tuyên bố là không thể nào thành được. Chính lúc đó xuất hiện ông Đơ Piên, một nhà quý phái oai nghiêm có đức hạnh, ngoài ra lại giàu có và con nhà thế tộc. Tôi cũng không biết nói gì nhiều về ông ta, ngoài việc ông ta có tiếng là một người phong nhã và xứng đáng với danh tiếng đó. Ông ta ít nói, nhưng hễ mở miệng là đều để phát biểu một đại chân lý nào đó không ai có thể chối cãi được. Về những nghi vấn, ông bắt chước "thái độ im lặng khôn ngoan của Congra(22)", tuy ông ta không làm cho những cuộc hội họp có mặt ông tăng được nhiều phần thú vị, nhưng không có nơi nào ông đến mà người không thấy là chỗ của ông, ở đâu người ta cũng khá yêu ông vì người vợ của ông, nhưng khi ông vắng mặt - thường mỗi năm ông về ấp của mình chín tháng, và nhất là vào lúc bắt đầu câu chuyện của tôi - thì không ai nhận thấy điều đó cả. Ngay vợ ông hầu như cũng không nhận ra điều đó.

Sau khi làm nốt việc trang điểm năm phút là xong, bà Đơ Piên bước ra khỏi phòng, trong lòng hơi xúc động, vì Mác Đơ Xalinhi tới nhắc cho bà nhớ lại rằng người được bà yêu mến nhất vừa mới qua đời; tôi nghĩ rằng đó là kỷ niệm duy nhất hiện ra trong ký ức của bà, và kỷ niệm đó sâu sắc đến nỗi gạt bỏ được những dự đoán buồn cười mà một người nào khác kém suy nghĩ ắt có thể đặt ra về cái mũ vải xốc xếch của chị Giôdêfi. Đến gần phòng khách, bà hơi khó chịu khi nghe thấy một giọng trầm tốt vui vẻ hát theo tiếng đàn dương cầm bài chèo thuyền xứ Naplơ:

Addio, Teresa.

Teresa, addio!

Al mio Ritorno,

Ti Sposero.(23)

Bà mở cửa ra và giơ tay cho người đang hát, buộc chàng ta phải ngừng lại.

- Kìa Mác tội nghiệp của tôi, được gặp lại anh tôi mừng quá!

Mác vội vã đứng lên, và vừa nắm bàn tay bà, chàng vừa nhìn bà với vẻ hốt hoảng, không tìm được lời nào để nói.

- Tôi rất tiếc, bà Đơ Piên nói tiếp, không đi Rômơ được, khi nghe tin bà thím anh bị bệnh, tôi biết anh đã săn sóc trông nom bà thím như thế nào và tôi rất cám ơn anh đã gửi cho tôi vật kỷ niệm cuối cùng của bà. Nét mặt của Mác, vốn vui vẻ nếu tôi không muốn nói là tươi cười, bỗng nhiên trở thành ủ ê.

- Thím tôi thường nhắc đến chị luôn, chàng nói, và cho đến tận lúc lâm chung. Chị đã nhận được chiếc nhẫn của thím tôi, như tôi trông thấy đây, và cuốn sách thím tôi còn đọc lúc buổi sáng...

- Vâng, anh Mác ạ, tôi cảm ơn anh. Khi anh gửi cho tôi tặng vật đau buồn này, anh có báo tin anh sắp từ giã Rômơ, nhưng anh không cho tôi biết địa chỉ của anh; nên tôi không biết gửi thư cho anh về đâu. Tội nghiệp bà bạn chí thân của tôi! Chết xa đất nước quá! May mà có anh chạy đến ngay... Anh làm ra vẻ con người không ra gì nhưng thực ra anh tốt hơn thế nhiều, Mác ạ… tôi biết rõ anh lắm!

- Thím tôi có nói với tôi trong khi lâm bệnh rằng:

"Khi nào thím đã qua đời, thì chỉ còn có bà Đơ Piên để quở mắng cháu... (đến đây Mác không thể nén cười nụ). Cháu phải gắng đừng để bà Đơ Piên phải quở mắng cháu nhiều quá". Đấy chị xem, chị làm nhiệm vụ của chị không được tốt.

- Tôi hy vọng rằng bây giờ tôi có một nhiệm vụ hoàn toàn nhàn hạ. Nghe nói anh đã tu tỉnh lại, đứng đắn lại, đã trở nên hoàn toàn biết điều phải không anh?

- Chị không nhầm đâu chị ạ, tôi đã hứa với bà thím tội nghiệp của tôi là tôi sẽ trở thành người khá, và...

- Anh sẽ giữ lời hứa, tôi tin chắc như thế?

- Tôi sẽ xin cố gắng. Trong lúc đi xa, cái đó dễ hơn ở Pari, tuy nhiên... Đây này, chị ạ, tôi mới ở đây có vài giờ đồng hồ, vậy mà tôi đã chống lại được nhiều sự cám dỗ. Trong lúc đi đến nhà chị, tôi gặp một thằng bạn cũ rủ tôi đi với một lũ hư hỏng - nhưng tôi đã từ chối.

- Anh làm thế là tốt.

- Vâng, nhưng không biết có nên nói điều này với chị không nhỉ? Chính vì tôi hy vọng rằng chị

sẽ mời cơm tôi.

- Khổ chưa! Tôi đi ăn cơm khách. Nhưng đến mai...

- Nếu như thế thì tôi không dám bảo đảm cho tôi nữa, chị phải chịu trách nhiệm về bữa ăn tôi sắp dự.

- Này, anh Mác này: điều quan trọng là phải bắt đầu cho tốt. Anh đừng có đi ăn với bọn thanh niên chưa vợ ấy. Tôi, tôi ăn ở nhà bà Đarxơnây, chiều nay mời anh đến đấy, và chúng ta sẽ nói

chuyện.

- Vâng, nhưng bà Đarxơnây là người hơi tẻ quá; bà ta sẽ hỏi tôi hàng trăm câu chuyện. Tôi sẽ không thể nói được một tiếng nào với chị; tôi sẽ thốt ra những điều bất nhã; với lại, bà ta có một cô con gái cao gầy giơ xương, hình như cô ta chưa chồng...

- Đó là một người rất đáng yêu... còn về vấn đề bất nhã, thì anh nói về bà ta như thế, chính là một điều bất nhã đó.

- Tôi sai lầm, quả vậy, nhưng...vừa mới tới hôm nay, nếu tôi đến thì chả hóa ra vội vã quá hay sao?

- Thôi được, anh làm thế nào mặc ý; nhưng anh Mác ạ, anh thấy không, - với tính cách là người bạn chí thân của thím anh, tôi có quyền nói thẳng thắn với anh - anh phải tránh những nơi quen biết ngày trước. Thời gian ắt hẳn đã tự nhiên cắt đứt nhiều mối quan hệ không ra gì cho anh, anh đừng có nối lại những mối quan hệ đó; chừng nào anh không bị lôi kéo, thì tôi dám tin ở anh. Vào tuổi anh... vào tuổi chúng ta, ta phải biết điều mới được. Nhưng thôi ta hãy xếp những lời khuyên bảo, thuyết giáo đó lại một chút, xin anh cho tôi nghe anh đã làm gì từ khi chúng ta không gặp nhau nữa. Tôi chỉ biết rằng anh sang Đức, rồi sang Ý, thế thôi. Anh có gửi thư cho tôi hai lần, không hơn, anh hãy nhớ lại mà xem. Hai bức thư trong hai năm trời, anh hẳn cũng thấy như thế thì tôi biết được mấy tí về anh.

- Trời ơi! thưa chị, tôi thật có tội quá... nhưng tôi rất là... phải nói như thế... rất là lười nhác!...

Tôi đã bắt đầu viết hàng hai mươi lá thư cho chị, nhưng tôi biết viết gì khiến chị lưu ý được?...

Tôi, tôi không biết viết thư... Nếu mỗi lần tôi nghĩ đến chị mà tôi lại viết thư cho chị, thì tất cả giấy của nước Ý ắt cũng không đủ.

- Vậy thế anh đã làm gì? Thì giờ của anh, anh bận dùng làm việc gì? Thế là tôi đã biết được rằng không phải bận việc viết thư.

- Bận việc gì à?... Chị cũng biết rằng chẳng may tôi không bận việc gì cả. Tôi xem nhiều, tôi chạy nhiều. Tôi có những dự định về hội họa, nhưng sau khi được xem quá nhiều bức danh họa, tôi chừa tiệt được lòng ham mê khổ sở đó của tôi. À!... rồi cái lão Nibi đã gần biến tôi thành một người chơi đồ cổ. Vâng, nghe lời lão thuyết phục, tôi đã thuê người làm một việc khai quật, tìm thấy một cái điếu vỡ và bao nhiêu là mảnh chai mảnh bát cũ... Rồi ở Naplơ, tôi đã học hát, nhưng tôi cũng chẳng nhờ thế mà giỏi hơn... Tôi...

- Tôi không thích thứ âm nhạc của anh mấy, mặc dầu anh có giọng tốt và hát hay. Thứ đó làm cho anh tiếp xúc với những hạng người mà anh quá thích lui tới.

- Tôi hiểu ý chị; nhưng ở Naplơ, hồi tôi sang đó, chẳng có gì là nguy hiểm cả. Cô đào nhất cân nặng một trăm năm mươi kilô, còn cô đào thứ nhì thì miệng như cái cửa lò và mũi như cái tháp xứ Libăng. Tóm lại, hai năm trôi qua mà tôi cũng không thể nói được tôi ra làm sao. Tôi không làm gì cả, không học được gì cả, nhưng tôi đã sống hai năm mà cũng không nhận thấy nữa.

- Tôi muốn được biết là anh bận một công việc gì, tôi muốn được thấy anh ham thích say sưa một cái gì có ích. Tôi rất sợ sự nhàn tản đối với anh.

- Xin nói thật với chị, những chuyến đi đã đem lại kết quả tốt cho tôi là tuy không làm gì cả, nhưng tôi cũng không phải hoàn toàn nhàn tản. Khi người ta được trông thấy nhiều cái đẹp, thì người ta không buồn chán, mà tôi thì khi tôi buồn chán, tôi rất dễ làm những điều bậy bạ. Thật sự, tôi đã trở thành khá đứng đắn, và tôi còn quên cả một số phương pháp mau chóng vốn có để tiêu tiền. Bà thím tội nghiệp của tôi đã trả các món nợ cho tôi, và tôi không vay nợ nữa, tôi không muốn làm như thế nữa. Tôi có khả năng để sống một mình, và vì tôi không có ý định làm ra vẻ giàu có hơn sự thực, tôi sẽ không làm những việc ngông cuồng nữa. Chị mỉm cười ư? Có phải chị không tin sự tu tỉnh của tôi chăng? Có phải chị cần có những chứng cớ chăng? Xin chị hãy nghe tôi nêu ra một nét đẹp đẽ này. Hôm nay, Fa-manh, người bạn đã mời tôi đi ăn, muốn bán con ngựa của anh ta cho tôi. Năm nghìn quan. Một con ngựa tuyệt đẹp! Thoạt đầu tôi muốn mua ngay con ngựa, nhưng rồi tôi thầm nghĩ rằng mình đâu phải giàu có đến mức có thể bỏ ra năm nghìn quan làm một việc chơi ngông, vì thế tôi vẫn sẽ đi bộ.

- Thế thì hay quá, anh Mác ạ! Nhưng anh có biết rằng muốn tiếp tục đi theo con đường đúng đắn đó một cách trôi chảy thì phải làm gì không? Anh phải lấy vợ mới được.

- Chao ơi! Lấy vợ à...

- Sao không?...

- Nhưng ai mà muốn lấy tôi? Một người không có quyền khó tính như tôi, mà lại muốn có một người vợ!... Ồ! Không còn ai mà tôi có thể hợp được nữa...

Bà Đơ Piên hơi đỏ mặt, nhưng Mác vẫn nói tiếp không nhận thấy điều đó:

- Một người đàn bà ưng lấy tôi... Nhưng thưa chị, chị biết không, có lẽ gần như là một lý do khiến tôi không thể ưng người đó?

- Sao lại thế? Anh điên cuồng thật!

- Ôtelô (24) chẳng đã nói ở một đoạn nào đó, tôi chắc là để tự thanh minh về những điều anh ta nghi ngờ Đexđêmôna:"Người đàn bà này ắt phải có đầu óc dị kỳ và những thị hiếu hư hỏng nên mới chọn một anh chàng da đen như ta!". Đến lượt tôi, chẳng lẽ tôi lại không thể nói thế này ư: Người đàn bà nào mà ưng tôi, ắt phải có một đầu óc kỳ quái?

- Anh Mác ạ, anh đã là một người khá hư hỏng rồi, nên tôi nghĩ anh chẳng cần làm ra vẻ hư hỏng hơn thực tế làm gì. Anh chớ có nói như thế về bản thân mình, vì sẽ có những kẻ tin lời anh nói. Còn tôi, thì tôi tin chắc rằng nếu một ngày kia... phải, anh yêu tha thiết một người đàn bà nào được anh hết sức trọng nể... lúc đó người ấy sẽ thấy anh là một người...

Bà Đơ Piên cảm thấy khó nói hết câu, còn Mác thì chăm chú nhìn bà một cách hết sức tò mò và không hề giúp bà tìm cách kết thúc một đoạn phát biểu bắt đầu khá vụng về.

Mãi sau chàng mới nói tiếp:

- Có phải chị định nói rằng nếu tôi yêu thực sự một người nào, thì người đó sẽ yêu tôi vì khi đó tôi đáng được như thế chăng?

- Vâng, khi đó anh sẽ xứng đáng được yêu lại.

- Nếu chỉ cần yêu để được yêu thì... thưa chị, điều chị nói không lấy gì làm đúng lắm... Chà! Chị cứ tìm cho tôi một người đàn bà can đảm, và tôi xin lập gia đình ngay. Nếu như người ấy không quá xấu, thì tôi cũng không đến nỗi quá già khiến trái tim tôi nguội lạnh... Còn những mặt khác thì chị không phải chịu trách nhiệm.

- Thế bây giờ, anh ở đâu tới? Bà Đơ Piên ngắt lời với vẻ nghiêm trang.

Mác kể về những chuyến đi của chàng một cách rất vắn tắt, nhưng đủ để chứng minh rằng chàng không giống những nhà du lịch mà người Hy Lạp bảo là: Xách va-li đi lại rồi xách va-li về.

Những nhận xét ngắn ngủi của chàng biểu thị một đầu óc sáng suốt, không vơ lấy những ý kiến sẵn có, mặc dầu thực ra chàng có trình độ học vấn cao hơn cái vẻ chàng muốn làm. Chẳng bao lâu chàng cáo từ vì nhận thấy bà Đơ Piên quay đầu về phía chiếc đồng hồ treo, và chàng hứa với vẻ hơi lúng túng rằng đến chiều chàng sẽ tới nhà bà Đarxơnây.

Tuy thế chàng không đến đó, làm cho bà Đơ Piên hơi bực. Bù lại, sáng hôm sau chàng đến nhà bà để xin lỗi, lấy cớ đi đường mệt nên phải ở nhà; nhưng chàng cúi nhìn xuống và nói với giọng ngập ngừng đến nỗi người không cần có tài xét đoán nét mặt như bà Đơ Piên cũng có thể nhận biết rằng chàng có một điều gì thất bại. Khi nghe chàng thanh minh xong một cách khó nhọc, bà Đơ Piên không đáp, chỉ giơ ngón tay đe dọa.

- Chị không tin tôi hay sao? Chàng nói.

- Phải. May mà anh chưa biết nói dối. Hôm qua anh không lại nhà bà Đarxơnây không phải là để nghỉ ngơi. Không phải anh đã nằm ở nhà.

- Vâng, thế thì chị nói đúng, Mác cố mỉm cười đáp. Tại đã đi ăn tiệm Rôsê Đơ Căngcalơ (25) với bọn vô lại ấy, rồi tôi đi uống trà ở nhà thằng Famanh; chúng không chịu buông tha tôi và rồi tôi đã đi đánh bạc.

- Rồi thì anh đã thua, dĩ nhiên quá đi rồi phải không?

- Không, tôi được.

- Càng không tốt. Giá anh thua thì hơn, nhất là nếu cái đó có thể làm cho anh chừa tiệt một thói quen vừa rồ dại vừa đáng ghét.

Bà cúi xuống tấm khăn đang thêu và bắt đầu làm việc ra bộ chăm chú hơi quá đáng.

- Ở nhà bà Đarxơnây có đông khách không? Mác rụt rè hỏi.

- Không, có ít thôi.

- Không có những cô đến tuổi lấy chồng à?

- Không.

- Thưa chị, vậy mà tôi trông cậy ở chị. Chị biết chị đã hứa với tôi điều gì chứ?

- Chúng ta có khối thời giờ để nghĩ đến điều đó.

Trong giọng nói của bà Đơ Piên có cái gì khô khan và miễn cưỡng, khác giọng nói bình thường của bà.

Sau một lúc im lặng, Mác nói tiếp với vẻ tự hạ:

- Chị giận tôi phải không chị? Tại sao chị không quở mắng tôi thật dữ


Sách tương tự