Bên Dòng Sông Ba Láng

Bên Dòng Sông Ba Láng

Tổng số chương: 1

Năm đó, tôi vừa tròn 9 tuổi. Không may, tôi bị lên ban khỉ. Người cứ gầy tóp xọp thấy phát sợ, tay chân khẳng khiu, đôi mắt cứ lờ đờ như người nghiện hút, mái tóc rụng gần hết, chỉ còn trơ lại cái sọ khỉ với vài sợi loe hoe, phất phơ trên cái mỏ ác làm cảnh cho vui.

Vào mùa hè, trời nắng chang chang, khí hậu oi bức với cái nắng nung người. Ngồi trong nhà, mọi người phải phe phẩy cái quạt mo cau liền tay mà mồ hôi, mồ kê cứ tuôn ra nhễ nhại. Còn tôi, lúc nào cũng bị quấn kỹ trong cái mềm bông như một đòn bánh tét. Các cánh cửa sổ buồng lúc nào cũng bị đóng bít bùng, ban ngày chí những ban đêm vì sợ tôi bị trúng gió độc, khiến tôi lúc nào cũng cảm thấy như bị ngộp thở vì thiếu dưỡng khí; thỉnh thoảng, tôi vừa hất tung cái mềm được chừng vài phút, rồi bất ngờ, mẹ lại vào buồng thăm chừng là tôi bị quấn mền lại như cũ, làm tôi nóng muốn phát điên lên được. Đang nằm thiêm thiếp nửa tỉnh, nửa mê trong buồng, tôi nghe ba má tôi gây gổ nhau ngoài phòng khách. Ba tôi nói giọng khá to:

– Mùa nầy nóng như đổ lửa, tui ở trần trùng trục còn chịu không thấu, mồ hôi tuôn ra chèm nhẹp. Còn bà, trị bịnh cho thằng Phúc cái kiểu gì mà lúc nào tui cũng thấy bà lấy khăn mềm trùm nó kín mít. Cửa sổ buồng đóng lại bít bùng, làm sao nó thở cho được chớ! Ba tôi giọng bực bội, tiếp: Còn nữa, cả tuần nay, tôi chỉ thấy bà cho nó uống toàn sửa bò làm sao thằng nhỏ chịu cho nổi. Tui thấy bịnh ban của nó càng ngày càng nặng thêm, chớ không thấy bớt chút nào cả!”

Má tôi cũng lớn tiếng, nói:

– Ông biết gì mà nói chớ! Tui cho nó uống sửa là có lý do của tui chớ bộ!

– Lý do gì? Cữ kiêng, cũng cữ vừa vừa thôi chớ! Cả tuần nay, thằng nhỏ không có một hột cơm, hột cháo gì trong bụng ráo trọi, sức đâu mà nó chịu đựng cho nổi, rồi ba tôi dịu giọng, tiếp: Sức trẻ con có hạng, tui sợ nó không chết vì bịnh đau ban khỉ mà chết vì kiệt sức đó, bà biết không hả?

– Ông nầy nói nghe ngộ thiệt đó à nghen! Tui làm theo lời ông thầy Xì, chủ tiệm thuốc Bắc “Vạn Thọ Đường” ở ngoài chợ Vĩnh Long đó, ông à! Nếu không tin, ông ra đó hỏi ổng coi!

– Ông thầy Xì dặn làm sao? Bà nói thử cho tui nghe coi có lọt lỗ tai không nè.

– Ông ta nói: bịnh “ban đen” cần phải cữ ăn tối đa, nhứt là cơm. Vì hột cơm cứng, nhai không kỹ có thể làm lủng đường ruột là hết thuốc chữa đó ông à!

– Thôi, cữ ăn cơm nghe cũng tạm được đi! Ba tôi lại bực tức, nói tiếp: Còn cháo thì sao? Cũng cữ ăn cháo luôn, phải không bà?

– Đâu có phải vậy nà, má tôi xuống giọng, nói: Tui cho nó cữ ăn cháo luôn, cho chắc ăn mà!

– Bà kiêng cữ quá mức cho chắc ăn, thằng Phúc phải chết chắc thôi!

– Ông nầy ăn nói tầm bậy quá mạng! Lỡ có người khuất mặt giáng qua đây, lỡ họ nghe được thì lộng giả thành chơn đó nghen ông! Cuối cùng, má tôi giận lẫy, tiếp: Bây giờ ông có giỏi, ở nhà lo cho thằng Phúc đi! Tui đón xe lôi ra bến bắc Mỹ Thuận, gặp mấy đứa bạn hàng để đòi nợ. Gần cả tháng nay, chẳng đứa nào trả tiền cả. Buôn bán thế nầy cũng có ngày cụt vốn. Thiệt bực mình mà!

Ba tôi dặn:

– Lúc trở về, nhớ ghé vô chợ mua con cá lóc thiệt bự để nấu cháo cá lóc cho thằng Phúc ăn mau lấy lại sức nghen bà!

Không nghe tiếng mẹ tôi trả lời, chỉ nghe tiếng đôi guốc dong sơn mài, nện lốc cốc trên nền gạch tàu, đi ra phía trước cửa. Bỗng má tôi dừng lại, nói vọng vào trong nhà: Còn chút xíu là tôi quên! Khoảng vài giờ nữa, vợ chồng anh Ba Thời ở bên Chợ Lách, chở trái cây qua giao cho vợ chồng mình đó nghen! Ba tôi trả lời: Yên chí đi! Chuyện nầy để ở nhà tui lo được rồi.

Chờ má tôi lên xe lôi xong, ba tôi bước vô buồng, mở tung các cửa sổ cho gió mát từ ngoài sông Long Hồ tràn vào, rồi lẩm bẩm một mình:

– Trời nóng thấy mẹ hà, mà bả cứ đóng các cửa sổ bít bùng cả ngày lẫn đêm làm sao thằng nhỏ chịu cho thấu nè trời! Ba tôi đến bên giường đở tôi ngồi dậy, nói: Đi ra ngoài sàn nước để ba lấy khăn ấm lau mình cho con.

Tôi làm bộ hoảng sợ, nói:

– Con không dám ra khỏi buồng đâu! Má thấy là đánh con mềm mình đó, ba ơi!

Ba tôi trấn an, nói:

– Má mầy ra bến bắc Mỹ Thuận rồi, cầu chiều tối mới về nhà. Má mầy có rầy, tao chịu hết trách nhiệm cho.

Và tôi chỉ chờ có thế, lật đật phóng xuống giường, theo ba tôi ra ngoài sàn nước. Gió mát từ sông Long Hồ lồng lộng thổi vào nghe mát rượi. Tôi khoan khoái làm vài động tác hít thở là cảm thấy tỉnh táo ngay. Ba tôi vừa cởi quần áo cho tôi, vừa gọi vọng vào trong nhà bếp:

– Hiền à! Bưng tháo nước ấm ra ngoài sàn nước cho dượng Tư, lẹ lên cháu!

Chị Hiền là con dì Ba – chị ruột của má tôi – quê ở Lấp Vò thuộc tỉnh Sa Đéc, chị ở trọ nhà tôi đi học, đồng thời giúp ba má tôi những chuyện lặt vặt trong nhà hoặc trông chừng nhà cửa khi cả nhà đi vắng. Nghe tiếng ba tôi gọi, chị khệ nệ bưng thao nước ấm ra ngoài sàn nước, đặt xuống bên cạnh tôi. Chị cười, nói:

– Dượng Tư để con lau mình cho nó!

– Thôi được, con vô buồng lấy bộ đồ bà ba của nó để trong tủ có ngăn kéo, rồi đem ra đây cho dượng Tư.

Ba tôi tháo khăn rằn quấn ngang bụng, nhúng vào thao nước ấm, vắt thật ráo nước để kì hờm cho tôi. Cái thao nước ấm phải thay ba lần nước mới làm trôi sạch lớp hờm đóng trên người. Chị Hiền thay đồ cho tôi xong, nồi cháo trắng đang bắt trên cái cà ràng ở trong bếp, đã chín nhuyễn nhừ. Ba tôi nói:

– Con dẫn thằng Út vô bếp, rồi múc cháo ra chén để cho nó ăn với đường cát trắng, chỉ cho nó ăn một chén thôi! Đừng cho nó ăn no nghen con!

Chị Hiền nhìn ba tôi lấm lét, nói:

– Con không dám cho em nó ăn đâu! Dượng Tư cho nó ăn dùm con đi!

Ba tôi ngạc nhiên, hỏi:

– Sao lạ vậy, con?

Chị Hiền thưa:

– Dì Tư hăm con mẻ răng: “Tao mà thấy mầy cho thằng Phúc ăn bất cứ cái gì mà không hỏi qua tao là mầy tới số đó nghe”!”

Ba tôi nghe chị Hiền nói, cũng phải phì cười:

– Coi bộ hai đứa bây cũng ngán bả quá hả?

Tôi cũng nhìn ba tôi cười khúc khích, nói:

– Đâu phải chỉ có tụi con ngán má, ba cũng ngán má quá chớ bộ!

Ba tôi nhìn hai đứa tôi, cảnh cáo:

– Chuyện tao có ngán má mầy hay không là chỉ có người trong nhà biết. Tụi bây mà bép xép với bà con lối xóm là thác với tao đó, nghe rõ chưa!

Nói thì nói vậy, chớ bà con trong cái xóm Thiềng Đức nầy, có ai mà không biết chuyện ba nể nang má tôi hết biết. Rành sáu câu là chú Ba Xị, bạn nhậu của ba tôi mấy năm về trước.

Cách đây vài năm. Ba tôi kết bạn nhậu với chú Ba Xị, một kiện tướng trong làng nhậu ở xóm Bánh Phòng, giáp ranh với xóm Thiềng Đức. Đêm nào cũng như đêm nấy, cả hai người đưa nhau ra ngoài chợ Vĩnh Long đánh chén với bạn bè đến khuya lơ, khuya lắc mới thấy chú Ba Xị đưa ba tôi về nhà. Má tôi giận lắm, khuyên ba tôi bỏ rượu, lo làm ăn nuôi con mà ông già tôi đâu có thèm nghe.

Thế rồi một đêm nọ. Tôi thấy má đang ngồi bên ngọn đèn dầu, miệng nhai trầu bỏm bẻm, canh cửa chờ cha tôi về. Gương mặt mẹ hầm hầm, còn đôi mắt đằng đằng sát khí; hình như, má tôi quyết ăn thua đủ với ba tôi lần nầy. Thỉnh thoảng, bà đập tay xuống mặt bàn một cái rầm làm tôi cũng điếng hồn. Tôi có linh tính trong nhà sắp xảy ra chuyện chẳng lành, nên tôi không dám đi ngủ sớm và lẻn ra sau sàn nước, núp bên lu nước mưa, chờ ba tôi về.

Gần 11 giờ đêm, vừa thấy ba tôi xuất hiện bên kia cầu Thiềng Đức, tôi vội vàng ôm cây cột nhà tuột xuống cây cầu ván, đi lên bờ, chạy lúp xúp mươi phút là đến cuối đường Trần Minh Tại. Tôi phóng lên cầu chận ba tôi lại để báo cáo tình hình ở nhà cho ba tôi biết, đề phòng má tôi tập kích bất ngờ. Tôi nói:

– Má đang thức chờ ba ở nhà! Con thấy mặt má hầm hầm trông dễ sợ lắm đó! Cẩn thận à nghen, ba!

Ba tôi nghe nói, cười ngất, giọng nhừa nhựa, nói:

– Má mầy chờ tao về để đưa tiền cho tao đi nhậu tiếp đó! Ba tôi bá cổ chú Ba Xị, hỏi: Tui nói như vậy, có đúng không anh Ba Xị?

Chú Ba giọng lè nhè, nực nồng mùi rượu, nói:

– Không biết thời đại nầy là thời đại gì mà mấy bà cứ kêu gào nam nữ bình quyền. Tui nói thiệt với anh Tư nghen, chú Ba xị cầm xị rượu đế đưa lên miệng tu một hơi cho đến khi cạn láng, rồi qăng cái chai xuống sông nghe một cái tủm, nói: Bao giờ tui thấy bầy dê cái của chị Tám Vồ ở trong cái xóm Thiềng Đức nầy, do một con dê cái làm đầu đàn thì tui mới cho con vợ tui cái quyền bình đẳng. Mình có cấm mấy bả ăn trầu đâu mà mấy bả cấm mình nhậu chớ, phải không anh Tư?

Ba tôi vỗ đùi một cái đét, nói:

– Anh Ba nói chí phải! Đàn bà tè không qua khỏi ngọn cỏ mà đòi lên mặt dạy khôn mình đâu có được, phải không anh Ba?

Chú Ba Xị cười sằng sặc, khen:

– Anh Tư nói chí phải! Phải! Phải!…

Thấy cha không quan tâm đến lời tôi nói. Tôi bèn chạy một hơi về nhà theo lối cũ trở vô nhà. Vì căn nhà của gia đình chia ra làm hai phần bằng nhau: phần nằm trên bờ là nhà ngói tường gạch, còn phần nhà sàn cất trên mặt sông, mái lợp tôn, vách ván dùng làm vựa trái cây, từ đó phân phối cho các bạn hàng ở bến phà Mỹ Thuận; cho nên, tuột xuống thì dễ, còn leo lên khó trần thân vì mấy cái cọc tràm đóng rêu xanh trơn như thoa mở. Tôi đang hì hục ôm cái cọc tràm cố leo lên nhà, bỗng nghe tiếng má tôi hét:

– Phúc à, coi chừng té xuống sông bây giờ đó! Đi vô nhà bằng cửa trước đi!

Tôi riu ríu trở lên bờ, mở cửa trước vô nhà thì thấy má tôi ngồi chễm chệ trên bộ ghế trường kỷ, chờ khẩu cung:

– Phúc! Mầy đi kiếm ông gìa tía mầy đó hả?

Tôi chối leo lẻo:

– Đâu có phải vậy má! Con trốn ra ngoài đường chơi đá lon với bọn thằng Tèo. Còn ba đi nhậu với chú Ba Xị ở ngoài chợ, con biết đâu mà kiếm chớ!

Má tôi ra lệnh:

– Thôi, khuya rồi! Đi ngủ đi!

Khi bước vô buồng, tôi đứng dựa bên cái cửa sổ, nhìn ra ngoài đường, thấy chú Ba Xị đang dìu ba tôi vừa về đến nhà. Ba tôi lấy tay đập cửa rầm rầm, hét:

– Má thằng Phúc đâu rồi? Mau ra mở cửa cho tui vô coi nà!

Chú Ba Xị còn hối:

– Lẹ lên đi, chị Tư ơi! Anh Tư cho “chó ăn chè” dài dài ngoài đường rồi đây nè!

Mẹ nghe ba tôi gọi, liền vội vàng chạy ra cửa, nắm tay ba tôi lôi tuột vào trong nhà. Bà dùng chân đá vào cánh cửa đóng lại cái rầm, không thèm mời chú Ba vô nhà chơi như thường lệ. Liền theo đó, tôi nghe tiếng mẹ tôi hỏi:

– Ông còn đủ sức nhậu với tui nữa không vậy, ba thằng Phúc?

– Dư sức qua cầu mà bà! Thêm vài ba xị đế nữa cũng chưa ăn thua gì, bỗng ba tôi ngạc nhiên, hỏi: Mà tui nhậu với ai vậy, má thằng Phúc?

– Nhậu với tui chớ với ai! Má tôi thách: Sao, còn sức dám nhậu tiếp không?

Ba tôi ngạc nhiên, trợn mắt, nói:

– Trời đất quỉ thần ơi! Bà biết nhậu hồi nào vậy hả? Dạo nầy, coi bộ bà lộng hành quá rồi nghen!

Má tôi làm bộ than thở, nói:

– Đêm nào chí những đêm nấy, ông đi nhậu với bạn bè mút chỉ tới khua lơ, khuya lắc mới mò về nhà. Tui ở nhà một mình buồn quá, cũng tập nhậu một mình lai rai, riết rồi thành ghiền lúc nào cũng không hay!

Ba tôi không bằng lòng, nói:

– Ai cho phép bà nhậu vậy hả, má thằng Phúc? Đàn bà mà cũng bày đặt nhậu nhẹt, còn ra cái thể thống gì nữa chớ?

– Ông nói vậy mà nghe được à, má tôi cười, tiếp: Ông thử nhìn trong gương coi! Trong 12 con giáp, ông trông không giống con giáp nào cả, tóc tai bù xù, quần ống thấp ống cao, còn cái áo bốc mùi hèm chua lòm! Thấy phát ớn!

Ba tôi gạt phăng:

– Thôi, bà đừng có nói nhiều lời nữa! Còn món gì nhậu được, đem hết ra đây cho tui nhậu tiếp coi nà!

Má tôi không trả lời, lặng lẽ đi ra sau bếp. Một lát sau, bà trở ra với cái mâm nhôm trên tay, có sắp sẵn chén đũa, một dĩa lươn xào lá cách, khói bốc lên nghi ngút thơm phức và một chai rượu đế với hai cái ly xây chừng. Ba tôi nói như ra lệnh:

– Nè, một cái ly rượu thôi đủ rồi nghe! Tui cấm bà nhậu với tui đó! Bà nghe rõ chưa vậy hả?

Nghe ba tôi nói, gương mặt má tôi đổi sắc. Bà có vẻ hầm lắm, nhưng cố nuốt giận làm vui, tươi cười nói:

– Được rồi, không dám ngồi nhậu ngang hàng với ông đâu, ông ơi!

Trông ba má tôi có vẻ hòa thuận, ngồi ăn uống bên nhau thật vui, tôi cũng an tâm phần nào, chui vô mùng đánh một giấc cho tới sáng bét. Vừa đẩy cánh cửa buồng bước ra ngoài, ra đằng sau sàn nước súc miệng, rửa mặt. Bỗng nghe tiếng ba tôi gọi giật ngược:

– Phúc lại đây, mở trói cho ba coi!

Tôi ngạc nhiên, thấy ba tôi bị ai trói nằm dài trên cái ghế bố như đòn bánh tét. Tôi hoảng quá, gọi mẹ:

– Má ơi! Ai trói trói ba vậy, má?

Vừa lúc đó, má tôi vừa dưới bếp đi lên, nói:

– Ừa, tao trói ông già mầy đó, được không?

Ba tôi xuống nước nhỏ, năn nỉ:

– Thôi được rồi, tui hứa với má thằng Phúc, lần nầy tui bỏ rượu vĩnh viễn. Bà mở trói cho tui đi chớ!

– Cái gì? Mở trói cho ông để tối đi nhậu nữa hả? Má tôi cười đắc thắng, nói: Hồi sáng nầy, tui đã viết một cái thơ rồi đón tàu đò chạy chuyến tài nhứt, nhờ mang qua bên cù lao Tân Phong, mời tía qua đây để ông hứa với tía. Ông hứa với tui nhiều lần rồi mà ông có giữ lời đâu, toàn là hứa cuội!

Quê nội tôi ở miệt cù lao Tân Phong thuộc xã Đồng Phú, nơi con sông Tiền từ hướng phà Mỹ Thuận chảy xuống tách ra làm hai nhánh ôm lấy cù lao Tân Phong. Một nhánh đổ ra biển Đông bằng cửa Cổ Chiên, còn nhánh kia đổ ra biển bằng cửa Cung Hầu. So với cù lao Bảo và cù lao Minh thì cù lao Tân Phong là một vùng đất mới nổi được phù sa sông Cửu Long bồi đấp từ hơn một thế kỹ nay, đã trở thành một vùng đất lý tưởng để lập vườn, trồng cây ăn trái rất trù phú. Nơi đây là quê hương của loài ốc gạo, đặc sản nổi tiếng của tỉnh Vĩnh Long. Mùa ốc gạo bắt đầu từ tháng 3 đến tháng 6 âm lịch. Nhưng vào tháng 5 là ốc gạo rộ nhất, no tròn mập đầy vỏ. Mỗi năm, cứ vào mùa hè là ông nội tôi qua Long Hồ đón tôi về cù lao Tân Phong ở với ông bà nội cả tháng mới về. Tôi khoái nhất là được đi theo mấy cô đi bắt ốc gạo, vui hết biết! Dân đi xúc ốc gạo phải canh con nước ròng, bất kể ban đêm hay ban ngày mà thú vị nhất là đi xúc ốc gạo vào những đêm trăng sáng. Họ đi bằng ghe tam bản hoặc xuồng ba lá, cắm sào dọc theo cù lao, thắp đèn bão sáng rực. Thường thì bắt ốc gạo bằng cách dùng rổ, đường kính khoảng 4 tấc. Họ lặn xuống nước dùng tay cào đất cát đầy rổ, rồi trồi lên mặt nước đưa cho người ngồi trên ghe đãy sạch đất cát, còn lại trong rổ chừng khoảng 20 con ốc gạo. Và động tác nầy cứ liên tục cho đến khi nghe tiếng chim bìm bịp kêu, báo hiệu con nước bắt đầu lớn là họ dừng tay. Một chuyến đi như vậy thu hoạch được từ 10 đến 20 kí là thường. Những người già ở nhà lo đan giỏ tre đựng ốc gạo, để giao cho bạn hàng chở ra bến phà Mỹ Thuận, bán cho khách bộ hành xuôi ngược trên tuyến đường từ miền Tây về Sài Gòn và ngược lại. Sau mỗi mùa ốc gạo qua là có vài cặp trai gái nhờ mò … ốc gạo mà nên duyên chồng vợ, như cô Duyên là em họ của ba tôi, kết hôn cùng chú Hai Thâu, quê ở bến đò Đình Khao (Bắc Cổ Chiên).

Khoảng 12 giờ trưa, tôi nghe có tiếng tàu đò cập vào cây cầu ván dưới sông là mẹ tôi dẫn tôi ra đằng sau sàn nước đón ông nội tôi. Hôm đó, ông tôi mặc áo dài đen, khăn đóng, chân mang giày bata màu trắng, một tay xách nửa thùng thiếc ốc gạo, còn tay kia cầm cây baton bằng gỗ mun lên nước bóng láng. Vừa bước lên nhà, ông nội hỏi má tôi ngay:

– Ba thằng Phúc đâu rồi, con?

Má tôi thưa:

– Dạ, con trói ảnh ở nhà trên, chờ tía qua dạy ảnh dùm con. Lúc nầy ảnh nhậu xả láng, nhậu bất kể quân thần, không chịu lo làm ăn gì ráo trọi!

Ông nội có vẻ giận lắm, nói:

– Được đa, để tía lên hỏi tội nó!

Lên đến nhà trên, đích thân ông nội cởi trói cho ba tôi, rồi nói:

– Sao, lần nầy tía qua, con không giỏi chạy trốn nữa đi! Con đã hơn 40 tuổi đầu rồi mà không lo hiệp lực với vợ, lo làm ăn nuôi con. Tối ngày lo đi nhậu nhẹt bê tha như vậy hả? rồi ông nội nổi trận lôi đình, hét: Quốc có quốc pháp, gia có gia uy. Con biết tội rượu chè bị phạt đòn mấy cây baton nầy không vậy, con?

Ba tôi ú ớ, nói:

– Hồi nào đến giờ tía chỉ cấm con cờ bạc, hút xách, đàng điếm. Chớ tía đâu có cấm con nhậu nhẹt, làm sao con biết chớ!

Ông nội tôi cười, nói:

– Như vậy là tía quên cấm con uống rượu, phải vậy không con?

– Dạ, phải đó tía!

– Vậy, bây giờ tía cấm con uống rượu có còn kịp không con?

– Dạ được! Ba tôi xuống nước nhỏ, nói: Con thề với tía từ nay không uống rượu nữa!

– Ai làm chứng lời thề của con? Ông nội tôi hỏi.

– Dạ, má thằng Phúc!

Mẹ nghe ba tôi nói cũng bật cười chọc quê, nói:

– Tui hổng dám làm chứng lời thề ẩu của ông nữa đâu, ông ơi!

– Con vợ mầy nói phải đó! Ông nội suy nghĩ lúc, rồi phán: Phải để cho bà con lối xóm làm chứng nữa chớ!

Ông nội tôi quay sang má tôi nói:

– Con đi lấy một tấm ván, ván gì cũng được và một cục than đem lại đây cho tía!

Một lát sau, má tôi đem đến một tấm ván thông và một cục than đúng theo yêu cầu của ông nội tôi. Ông liền cầm cục than phê ngay mấy chữ trên tấm ván đó như sau: “Con xin thề với tía từ nay trở đi không uống rượu nữa.” rồi đưa tấm ván cho ba tôi, nói:

– Con cầm tấm bảng nầy ra đi ra ngoài đầu cầu Thiềng Đức với tía!

Ba tôi ngạc nhiên, hỏi:

– Ra đầu cầu Thiềng Đức mầm chi vậy, tía?

Ông nội tôi cười, nói:

– Ậy, ra đến đằng đó thì biết chớ gì!

Ba tôi cầm tấm bảng riu ríu đi theo ông nội ra đầu cầu Thiềng Đức. Vừa đến nơi, ông tôi ra lệnh cho ba tôi quì xuống mặt đường, hai tay cầm tấm bảng đưa thẳng ra phía trước, rồi phán rằng:

– Tía phạt quỳ con ở đây để cho mọi người trong xóm làm chứng lời thề của con. Nếu sau nầy, tía có theo ông theo bà mà con còn tái phạm thì đừng có nhìn mặt họ nữa, nghe chưa!

Ba tôi vui vẻ thọ án phạt, quỳ gối suốt hai tiếng đồng hồ tại đầu cầu Thiềng Đức trước con mắt thán phục của bà con trong xóm. Ai cũng khen ngợi cha tôi là đứa con hiếu thảo, tuyệt đối vâng lời cha dạy mà không thấy ai chê cười cả. Quả thật, từ đó về sau, ba tôi bỏ hẳn rượu, một giọt cũng không nhấp môi.

Sau khi húp xong chén cháo nóng với một muỗng đường cát trắng là tôi lả mồ hôi, cảm thấy khỏe hẵn người thì có tiếng chú Ba Thời ới từ dưới bến sông, gọi vọng lên:

– Chú Thím Tư nó, có ở trên nhà không vậy cà?

Ba tôi nghe chú Ba Thời gọi, lật đật chạy ra sau sàn nước, hỏi:

– Bữa nay, anh chở trái cây gì cho vợ chồng tui vậy, anh Ba?

– Xoài hòn 200 trái, cam mật 300 trái, mãng cầu xiêm 100 trái, chôm chôm tróc 2 cần xé, 35 trái mít tố nữ, bưỡi năm roi 30 trái và vú sửa lò rèn 3 cần xé.

Ba tôi nói:

– Để tui phụ với anh Ba đem lên vựa!

Và phải mất gần một tiếng đồng hồ, hai người mới đem hết số trái cây đó từ dưới ghe tam bản lên trên vựa. Xong rồi, ba tôi mời bác Ba Thời lên nhà trên uống nước trà.

Bác Ba Thời cười, nói:

– Đàn ông ai mà uống rượu, chú Tư! Tui có đem theo một chai rượu nếp than Song Hiệp cất ở dưới ghe để tui xuống dưới ghe lấy lên, rồi nướng vài con khô sặc rằn nhậu lai rai chơi ghe chú Tư!

– Thôi, uống nước trà được rồi, anh Ba ơi! Ba tôi cười buồn, lấy tay chỉ lên tấm bảng đóng trên vách dưới bàn thờ ông bà nội rồi nói: Hồi tía tôi còn sanh tiền, tui có hứa với tía bỏ rượu. Tuy ông già đã quy tiên rồi, mình cũng phải giữ lời để làm gương cho con cái: Quốc có quốc pháp, gia có gia uy mà, anh Ba!”

Thấy tôi đang phụ với chị Hiền lo lau bàn, bác Ba Thời kêu tôi lại đứng lại gần để bác xem tướng. Bác ngắm nghía tôi hồi lâu, rồi bảo:

– Phúc! Tụt quần ra cho bác xem luôn bộ phận dưới rún coi con có bị phá tướng không?

Thấy tôi đứng ngần ngừ chưa chịu tụt quần. Ba tôi giục:

– Tụt quần ra đi con để bác Ba mầy xem tướng toàn phần, coi sau nầy mầy có làm quan, làm tướng gì với người ta không?

Cực chẳng đã tôi phải vâng lời ông già, tôi miễn cưỡng làm theo lời bác Ba Thời bảo. Bác liếc sơ bộ phận dưới rún, rồi lắc đầu nói với ba tôi:

– Tướng thằng Phúc thuộc loại “ngũ trường”: đầu dài, mặt dài, thân dài, tay dài, chân dài cũng thuộc loại quí tướng, nhưng chưa phải thượng thừa.

Ba tôi có vẻ mừng rỡ, hỏi:

– Vậy, tướng “ngũ trường” thế nào mới gọi là thượng thừa hả, anh Ba?

Bác Ba Thời chỉ bộ phận dưới rún của tôi, giải thích:

– Tiếc quá! Bộ phận nầy hơi ngắn đó nghe, nếu dài thêm 5 phân nữa thôi thì sẽ biến thành tướng “lục trường” cho dầu sau nầy ra đời có bị thất thế, thằng Phúc cứ nằm chổng cẳng ở nhà chờ thời cũng có đàn bà nuôi cơm ngày ba bữa không lo gì … đói!

Ba tôi nghe nói, cười ngất:

– Thằng Phúc mới có 9 tuổi, nó chưa “mở mắt” làm sao biết ngắn hay dài chớ, anh Ba!

Bác Ba Thời cười giòn, nói:

– Mà thôi, tướng “ngũ trường” cũng thuộc loại quí tướng rồi. Theo sách “Ma Y Thần Tướng” thì tướng thằng Phúc được xếp vào hạng “Sĩ” trên “Nông, Công, Thương”

ba bậc cũng đủ nở mày, nở mặt với thiên hạ rồi đó, chú Tư à!

Vào tuổi đó, mặc dù chưa hiểu biết gì nhiều; nhưng khi nghe bác Ba đánh giá cao cái tướng “ngũ trường” của mình thuộc diện “Sĩ” là tôi khoái trong bụng rồi. Vì vậy, ngay khi còn ở trường trung học là tôi sớm đi tìm đường công danh. Bất cứ nghề gì có dính líu đến chữ “Sĩ” là tôi nhắm mắt lao vào thử thời vận như nghề: ca kịch sĩ, võ sĩ … may ra có chút tiếng tăm với đời.

– Thôi, kéo quần lên đi con, bác Ba Thời quay sang nói với ba tôi: Ngày hôm qua, má tụi nhỏ xúc được mươi ký ốc gạo ở cuối cù lao Minh, bả dặn tôi đem 3 kí qua biếu chú thím ăn lấy thảo. Tiếc quá, chú đã cai rượu; nếu không, đem luộc hết mớ ốc gạo nầy làm mồi nhậu cũng được lắm đó!

– Nói thiệt với anh Ba, tôi cũng thèm ốc gạo luộc chấm với nước mắm chanh ớt! Mấy hôm trước, vợ tôi mua vài kí ở bến bắc Mỹ Thuận, hết phân nửa là ốc chết.

Ba tôi gọi chị Hiền đang rửa chén ở ngoài sàn nước:

– Cháu Hiền à, vô đây cho dượng Tư biểu!

Chị Hiền nghe ba tôi gọi, lật đật chạy vào, thưa:

– Dượng Tư gọi con có chuyện gì?

– Con đi bắt nồi nước sôi, luộc hết mớ ốc nầy dùm dượng Tư.

– Con thấy dì Tư hấp ốc gạo cách thủy ngon hơn luộc nhiều. Để con đi hấp cho dượng Tư và bác Ba thưởng thức nghe!

– Sao cũng được mà, tùy ý con đi!

Thấy mọi người bận rộn trò chuyện vui vẻ, tôi bèn lẻn qua nhà dì Tám Vồ, cách nhà tôi trên trăm thước ở bên kia đường Trần Minh Tại để đi cầu. Dì Tám nuôi cá vồ để bán, ao cá lớn gần bằng cái sân quần vợt, có đặt ống nước bằng thân cây cao đụt rỗng ruột, bịt lưới sắt hai đầu để nước chảy ra cái mương lớn, ăn thông ra sông Long Hồ nên nước lúc nào cũng trong sạch quanh năm. Giữa ao cá là một nhà cầu công cộng lộ thiên dành cho bà con trong xóm. Nhà cầu gồm có 8 ngăn, chia ra làm đôi: 4 ngăn trước dành cho phái nữ, còn 4 ngăn sau dành cho phái nam. Chung quanh ao cá vồ, dì trồng toàn cây so đũa là một loại cây dễ trồng, lớn nhanh và mạnh. Cây so đũa rất thẳng, thường dùng làm kèo, đòn tay rất tốt. Lá dùng để nuôi bầy dê của dì để lấy sửa, bỏ mối cho mấy tiệm giải khát ở ngoài chợ, còn bông so đũa thì bán cho bà con trong xóm dùng để nấu canh chua tôm rất ngon.

Tôi đang nhìn đàn cá vồ tranh mồi, quẫy đuôi nhào lộn dưới ao, làm nước bắn tung tóe. Bỗng tôi nghe có tiếng bà dì nào đó, ngồi ở ngăn phía trước, lên tiếng:

– Dữ ác hôn! Gần cả tháng nay tao mới thấy cái bản mặt mầy à nghen! Không biết bà mụ ác ôn nào cạo râu tóc của mầy trụi lủi, thấy mà phát ghét!

Nghe dì ta hỏi, tôi bèn mau mắn lên tiếng đính chính:

– Đâu có bà mụ nào cạo đầu con đâu! Tại con bị đau ban khỉ nên tóc rụng tự nhiên thôi mà!

– Ủa, thằng nào vậy kìa! Tao đâu có nói động đến cái bản mặt mầy đâu mà mầy lên tiếng chớ!

Tôi cũng ngạc nhiên, hỏi:

– Dì không nói động tới cái bản mặt của con; vậy dì nói với cái bản măït của ai? Tại đây, chỉ có con với dì thôi mà! Không lẽ dì nói chuyện với ma?

– Tao nói chuyện với ai kệ cha tao, thằng quỉ!

Khi không bị dì ta mắng oan mạng, tôi muốn cự lại thì nghe bà ta hỏi:

– Trong xóm nầy, đứa nào bị đau ban khỉ vậy cà? Có phải thằng Phúc, con anh chị Tư đó phải không?

– Dạ phải, con là thằng Phúc đây dì à! Tôi nói: Nghe tiếng dì quen quen, có phải dì là dì Tư Ngưu ở xóm trên không? Tôi trả lời.

– Tao đây chớ ai mậy!

– Nghe má con nói, dì mới sanh được một bé gái rồi, phải không dì Tư?

Dì Tư Ngưu nói đùa:

– Phải, má mầy định kết làm sui gia với tao rồi đó nghen! Mầy bị đau ban khỉ sao không đi cầu ở nhà, ra đây làm gì? Rủi ro bị trúng gió độc thì sao hả, Phúc?

Dì Tư Ngưu là bạn thân cùng quê với má tôi ở Cái Sơn Bé là một làng nhỏ cách chợ Vĩnh Long chừng 3 cây số. Từ giốc cầu Thiềng Đức đi ngang qua làng nầy thì gặp một ngã ba, rẽ bên trái sẽ dẫn đến bến bắc Cổ Chiên, còn nếu đi thẳng đến làng Cái Sơn Lớn rồi đến làng An Hương, Mỹ An…sở dĩ, dân trong xóm Thiềng Đức đặt cho dì cái tên Ngưu là vì dì khỏe như trâu. Vợ chồng dì sống về nghề bốc vác lúa gạo cho các chành lúa. Vác một bao gạo chỉ xanh ở trên lưng, dì đi nhẹ nhàng như đi chợ.

Biết thế nào cũng bị dì mét lại với má, tôi bèn xuống nước nhỏ:

– Thôi, con đi về nhà trước nghe! Dì đừng có nói lại với má con là dì gặp con đi cầu cá vồ ngoài nầy nghe!

Tôi yên chí trở về nhà. Thấy chị Hiền đang coi chừng cái xửng đang hấp ốc gạo, còn ba tôi đang ngồi nói chuyện với bác Ba Thời, tôi bèn lẵng lặng ra ngoài sàn nước. Thấy mấy cần xé vú sửa “lò rèn” vàng hực trong vựa trái cây, lớp da màu vàng hột gà, mỏng láng như da mặt của một cô gái tới tuổi dậy thì, trông vô cùng hấp dẫn, tôi bèn lấy một trái bự nhất cuộn trong vạt áo rồi lặng lẽ trở vô buồng, lấy tay vò bóp trái vú sửa thật mềm và rút cái cuốn ra thật dễ dàng. Một dòng sửa trắng trào ra, tôi vội vàng kê miệng vào vừa nút vừa nhồi trái vú sửa cho lớp cơm bên trong trào ra, mùi sửa thơm như sửa bò, lớp cơm bên trong có hương vị vô cùng độc đáo ngon ngọt như mật. Ăn xong trái một trái chưa đả, tôi vẫn còn muốn tòm tèm thêm vài trái nữa.

Ăn xong trái vú sửa lò rèn, tôi yên chí đánh một giấc cho tới khi trời chạng vạng. Tiếng gây gổ ồn ào ngoài phòng khách đã đánh thức tôi dậy. Thì ra, ngay khi má vừa bước vô nhà là ba má tôi lại to tiếng với nhau vì tôi. Mẹ có vẻ giận dữ, nói:

– Ông ở nhà coi chừng thằng Phúc như thế nào mà ngay khi về tới đầu xóm, gặp chị Tư Ngưu nói với tui là gặp thằng Phúc tại nhà cầu cá vồ của chị Tám vậy hả?” Má tôi quay sang bảo chị Hiền: Hiền, đi vô trong buồng lôi đầu thằng Phúc ra đây cho dì coi!

Biết trước tránh không khỏi trận lôi đình của mẹ, tôi tự giác mở cửa buồng, riu ríu bước ra ngoài trình diện, nói:

– Thưa má mới về.

– Ai cho phép mầy đi cầu cá vồ vậy hả, Phúc? Má tôi quát: Có phải ông già tía mầy không?

– Dạ, con lẻn trốn đi ra ngoài đó!

– Phúc, bộ ở nhà không có chỗ cho mầy đi cầu sao hả, thằng quỉ nhỏ?

Tôi mỉm cười, thưa:

– Dạ, đi cầu ở ao cá vồ mát mẻ hơn ở nhà nhiều má à!

– Vậy sao? Bộ nhà cầu trong nhà mình nóng lắm sao con? Má tôi lắc đầu, nói: Thôi được, mầy muốn mát mẻ, má cho mầy mát mẻ suốt mấy tháng hè nầy!

Tôi hôm đó, ba má tôi bàn tính với nhau. Má tôi nói:

– Ông Tư à, hay là vợ chồng mình đưa thằng Phúc về dưới miệt Ba Láng ở với anh chị Ba thử coi. Ông nói cũng có lý, về dưới miệt vườn cho nó đổi gió đồng ruộng thử coi; vả lại, anh Ba là thầy thuốc Nam biết cách chăm sóc cho nó. Tui nghĩ, thằng Phúc sẽ chóng bình phục hơn là ở thành phố vừa nóng nực vừa ồn ào. Ông nghĩ chừng nào mình đưa thằng Phúc về dưới được?

Ba tôi yên lặng, suy nghĩ một chút rồi nói:

– Bà nói cũng có lý lắm! Lâu quá, vợ chồng mình bận lo làm ăn, không có về dưới thăm anh chị Ba.”

Thế là sáng hôm sau, tôi được ba má gói ghém một ít quần áo rồi dẫn tôi ra ngã ba Vĩnh Long để đón xe đò đi Cần Thơ. Trong lúc chờ đợi, bỗng ba tôi sực nhớ cần phải mua một ít quà biếu cho gia đình bác Ba. Ba tôi nói:

– Bà với thằng Phúc đi theo tui vô tiệm thuốc Bắc của ông thầy Xì, tui mua vài lít rượu thuốc làm quà cho anh Ba. Còn bà chọn quà cho chị Ba dùm tui nghen!

– Ừa, ông nói phải đó! Má tôi nói: Mua gì thì mua lẹ lên! Chuyến xe đò Nhơn Hòa tài nhất từ Sài gòn về Cần Thơ, sắp sửa chạy ngang qua đây rồi đó!

Khi ba má tôi tạt vô tiệm thuốc thuốc Bắc, ông thầy Xì cũng vừa đẩy cánh cửa sắt qua một bên để mở cửa tiệm. Vừa thấy mặt ba tôi, ông thầy Xì mừng lắm, nói:

– Lâu quá ông chời li, mới thấy vợ chồng nị lến thăm ngộ! Sao, dạo nầy vợ chồng làm ăn có phát tài không?

Ba tôi cười, nói:

– Làm ăn thì cũng tạm được, lình xình như lục bình trôi sông vậy mà.

– Mấy nị li lâu mà sớm quá dzậy? Lịnh li “Thầy Gòn” coi Hồ Quảng hả?

– Đâu có đi Sài gòn. Vợ chồng ngộ đưa thằng Phúc về Ba Láng ở chơi với anh chị Ba của ngộ, cho thằng Phúc đổi gió đồng ruộng vậy mà.

– Vợ chồng nị cần mua gì lem về Ba Láng, biếu ông anh của nị dzậy?

Ba tôi kéo tay ông thầy Xì ra đứng trước nhà, nói:

– Nị làm ơn cho ngộ một lít rượu thuốc đặc biệt, loại dành đàn ông uống mà đàn bà khen hay đó! Anh Ba ngộ thích rượu thuốc của nị lắm!

– Lược rồi, chuyện ló dễ thôi mà! Ông thầy Xì cười vui vẻ, nói: Mấy nị ngồi nhẩm xà. Chờ ngộ li lấy rượu thuốc cho anh Ba nị.

Vài phút sau, ông thầy Xì mang ra một hủ rượu thuốc bằng sành và mấy con cá mặn đưa cho ba tôi, nói:

– Lây là hủ rượu thuốc “Cửu chiến bất bại” của vua Càn Long bên Tàu, ngâm với sâm Cao Ly thượng hảo hạng, hạ thổ lúng 100 ngày. Ngộ mới lào nó lên cách lây 2 ngày. Còn lây là mấy con “hàm dzủy” của ngộ gởi tặng cho anh chị Ba của nị làm món “hàm dzủy chí dục tản” hẩu xực ló!”

Ông thầy Xì quay sang vò đầu tôi, nói:

-Nị cũng có phần nữa ló! Lương Hiếu hầm canh gà ác “bát thảo”, nó lịnh trưa nay mang vô nhà cho nị xực để mau lại sức. Nó lang hâm lại nồi canh mang ra cho nị bây giờ.

Ông thầy Xì người gốc Quảng Đông chỉ có mụn con gái duy nhứt với người vợ sau, sanh trưởng ở bên Tàu. Vì không có con trai nên ông xem tôi như con nuôi. Lương Hiếu lớn hơn tôi độ 1, 2 tuổi gì đó và chúng tôi quen thân nhau dưới mái trường tiểu học của tỉnh Vĩnh Long. Ông ngoại nàng là người gốc tỉnh Sơn Đông, đại danh là Tiêu Võ sư, một trong những cao thủ thượng thừa của Thiếu Lâm Bắc Phái Sơn Đông.

Nghe nói, hơn hai mươi năm về trước. Hai cha con ông từ tỉnh Sơn Đông bên Tàu trôi dạt về Chợ Lớn kiếm sống bằng nghề mãi võ để bán thuốc cao đơn hoàn tán. Một hôm, hai cha con ông quá giang xe hàng từ Chợ Lớn về Vĩnh Long biễu diễn võ thuật vừa bán thuốc; tình cờ, ông thầy Xì đi khám bịnh cho một thân chủ về ngang qua đó, nghe tiếng phèng la, chiêng trống vang lên inh ỏi ở gốc chợ và đám đông đang bu quanh, vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt, ông tò mò ghé lại coi. Ông thầy Xì thấy cha con ông đang biễu diễn tuyệt kỹ công phu “Đàm thoái thập nhị lộ quyền” danh trấn giang hồ từ Hoa Bắc xuống Thượng Hải. Lúc đó, ông thầy Xì mới góa vợ gần hai năm. Ông thấy Tiêu thị tài sắc vẹn toàn bèn đem lòng mến yêu, rước cả hai cha con ông về giúp việc cho tiệm thuốc Bắc của mình. Sau đó xin hỏi cưới luôn con gái của Tiêu Võ Sư làm vợ và sau khi bà hạ sinh ra Lương Hiếu, ông ngoại nàng đột ngột trở về Sơn Đông.

Lương Hiếu trông yểu điệu thục nữ, thân hình mảnh khảnh, tha thướt như cành liểu trước gió, nhưng nam tính nhiều hơn nữ tính. Vì không có con trai để duy trì dòng máu võ thuật của dòng họ Tiêu, nàng được mẹ truyền nghề lúc mới lên 5 tuổi. Lương Hiếu đam mê học võ hơn học văn. Sau hơn 7 năm học võ thuật chuyên cần với mẹ, nàng tiến bộ vượt bực, tinh thông “Đàm thoái thập nhị lộ quyền” và nhuần nhuyễn “Thiếu Lâm-Tung Sơn lục thập tứ cước”. Với trình độ siêu việt đó, Lương Hiếu còn tự sáng tạo nhiều quyền cước, biễu diễn thật đẹp mắt. Chúng tôi thỏa thuận với nhau. Tôi dạy nàng toán, làm văn. Nàng dạy tôi võ thuật, tuy học lóm, nhưng cũng học được vài chiêu để tự vệ, cường thân.

Một lát sau, Lương Hiếu mang cho tôi một thẩu canh gà ác tiềm với thuốc Bắc để trong cái giỏ xách, cho tôi ăn mau lấy lại sức khỏe. Lương Hiếu hỏi:

– Nị li lâu dzậy?

– Ngộ về làng Ba Láng chơi, hết hè mới về.

– Sao lâu quá dzậy? Nàng nói: Bao giờ nị dzìa nhớ lến thăm ngộ nghe!

Tôi gật đầu. Nhận hàng xong, ba má tôi đứng dậy trả tiền, cám ơn ông thầy Xì rồi vội vã dẫn tôi chạy băng qua đường, đứng tại ngã ba đón xe đò. Vừa lúc đó, chiếc xe đò Nhơn Hòa chạy trờ tới thả khách xuống Vĩnh Long, đồng thời rước thêm ít khách về Cần Thơ. Chờ cho khách xuống xe xong, ba tôi bế tôi lên xe, còn má tôi thì lo phụ giúp xách đồ đạt. Sau khi rước thêm được thêm một mớ khách, ngời lơ xe vỗ vào thành xe ầm ầm mấy cái rồi nói lớn:

– Tới luôn bác tài!

Chiếc xe đò từ từ chuyển bánh hướng về bến phà Hậu Giang. Đây là lần đầu tiên, tôi được ngồi xe đò đi một chuyến xa nhà như vậy. Khoảng một giờ, xe chạy đến bến phà. Chúng tôi xuống xe, thả bộ xuống phà qua bên kia bờ sông Hậu. Vì con nước ròng chảy xiết ra biển và chở quá tải nên phải mất gần một tiếng đồng hồ, chiếc phà mới vượt qua con sông Hậu và cập được bến bắc bên Cần Thơ. Chúng tôi lại phải đi bộ lên bờ, đón xe lôi vô bến xe lô Hàng Bả Đậu nằm trên đường Nguyễn An Ninh, chạy dài từ cổng bệnh viện Cần Thơ đến rạp cải lương Minh Châu và cách nhà lồng chợ Chợ Cần Thơ khoảng 200 thước. Ba má dắt tôi thả bộ dưới bóng râm của cây hàng bả đậu tìm bến xe lô đi Phụng Hiệp. May quá, một chiếc xe 12 chỗ ngồi sắp rời bến. Trước khi lên xe, ba tôi dặn chú lơ xe:

– Khi nào xe chạy qua khỏi cầu sắt Cái Răng độ 3 cây số thì chú cho tôi xuống xe ở đó nghe!

– Chú muốn xuống Ba Láng hả?

– Đúng rồi đó! Ba tôi nói.

– À, chú đi mấy người?

– Vợ chồng tôi và thằng con trai.

– Chú Hai cho tôi xin 10 đồng!

Nhận tiền xong, chú lơ mời mọi người lên xe ngay, chuẩn bị rời bến. Khoảng nửa tiếng sau, xe vượt qua cây sắt Cái Răng gồm ba nhịp, nối liền hai đầu Quốc lộ 4 là một trong những cây cầu dài nhứt của vùng đồng bằng sông Cửu Long lúc bấy giờ, cách trung tâm thị xã Cần Thơ 6 km về hướng Nam. Có hai ngã đường vào làng Ba Láng: nếu dùng đường bộ thì đón xe lô đi Phụng Hiệp. Còn muốn dùng đường thủy thì xuống xe tại quận Cái Răng tức quận Châu Thành, rồi đi bộ xuống bến đò tại “chợ chồm hổm”, nằm dưới chân cầu cầu sắt Cái Răng để đón đò dọc hoặc đò máy xuôi theo dòng sông Cần Thơ. Khi tàu đò rời cầu Cái Răng độ 3 km thì dòng sông Cần Thơ có một nhánh rẽ chảy về hướng Nam. Đó là sông Ba Láng đưa chúng ta về miệt Ba Láng, Vàm Sáng, Phong Điền…

Ngồi tên xe, gió đồng thổi hiu hiu, tôi ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay cho đến khi nghe tiếng chú lơ xe hét: “Tốp! Tốp! Cho khách xuống Ba Láng bác tài ơi!” làm tôi giật mình thức dậy. Ba tôi bồng tôi xuống xe, còn mẹ tôi phụ xách hành lý. Tôi nói với ba:

– Ba thả con xuống đi! Con đi bộ được mà!

Trước mặt tôi là hương lộ trải đất đá, rộng chừng 4 thước nằm bên phải Quốc Lộ 4, con đường nầy chạy thẳng tấp, xuyên qua cánh đồng, nối liền QL 4 với làng Ba Láng cách đó khoảng 3 km. Ba tôi đón xe lôi đạp trên chạy trên Quốc Lộ để đưa cả gia đình về nhà bác Ba nằm bên nầy dòng sông.

Cánh đồng lúa bạt ngàn dọc theo hai bên hương lộ vào mùa luá chín, nặng trĩu hạt. Vài cánh cò trắng bay lã lơi trong hương lúa êm dịu tỏa ra khắp trong không gian tỉnh mịch, chói chang ánh nắng mùa hè. Những cây so đũa thẳng tắp được trồng dọc theo bên hương lộ đang mùa trổ hoa màu trắng ngần như bông bưởi. Ngồi trên xe lôi, tôi đã nhìn những con đê ngoằn ngoèo, uốn mình chia cắt những ruộng lúa ra làm nhiều mảnh, nối liền hương lộ với với những xóm nhà xa xa được bao quanh bởi những rặng cau, dừa xanh ngắt.

Dân làng trong làng rất hiền hòa, cần cù làm ăn; chớ không phải “Ba Láng” là chơi xả láng, nhậu nhẹt xả láng và cờ bạc xả láng như lời đồn của thiên hạ đâu nghen! Phần đông về nhề nông, rẫy bái hoặc chăn nuôi gia súc như trâu, bò, heo, gà, vịt…Dân trong làng cất nhà dọc theo hai bên bờ sông và chia ra từng xóm nhỏ không cách xa ruộng đồng mấy; hình như, nhà nào cũng như nhà nấy, lợp ngói cũng như lợp lá, chung quanh nhà đều xẻ mương lên líp, trồng đủ loại cây ăn trái: cam, quít, ổi xá lị, xoài, mận, chôm chôm tróc, vú sửa…cuối mé vườn nơi giáp ranh giữa đất vườn và ruộng, họ trồng chanh và tre hoặc tầm vong, vừa làm hàng rào thiên nhiên, vừa có chanh và măng tre ăn quanh năm. Sau nhà, họ thường đào một cái ao lớn nhỏ tùy theo điều kiện chăn nuôi, có đặt ống bọng bằng cây dừa hoặc cau đục rổng ruột ăn thông ra dòng sông Ba Láng và một cái sàn nước để rửa chén bát. Dưới ao thả cá mè vinh, cá he vàng, cá chài…Cạnh con đường đất dọc theo hai bên bờ sông, họ trồng dừa xiêm, dừa lửa hoặc xoài để chống đất lở và luôn có bóng mát cho trẻ con tắm giặt.

Trên đường về gần đến làng, chiếc xe lôi đưa gia đình chúng tôi chạy ngang qua một ngôi trường tiểu học gồm có năm lớp, tuy lợp lá nhưng rất khang trang nằm lặng lẽ dưới tàng cây phượng vĩ đang trổ hoa đỏ thắm. Cuối con đường là bờ sông Ba Láng. Nhà bác Ba tôi ở bên trái con đường và cách ngôi trường làng trên 1 cây số. Bác Ba tôi dạy học ở đấy.

Lúc chúng tôi vừa bước xuống xe lôi, ba tôi trả tiền cho người phu xe xong. Cũng vừa đúng lúc đó, một chiếc ghe tam bản cập sát cây cầu ván để bác tôi bước lên bờ, trên tay còn ẵm theo chú heo con vừa dứt sửa mẹ, mồm kêu eng éc đang vùng vẫy quyết liệt. Bất ngờ gặp nhau tại bờ sông, bác tôi mừng lắm, nói:

– Dữ ác hôn! Cả năm rồi mới gặp lại chú thím đó nghen. Anh chị Ba tưởng chú thím làm ăn phát tài, rồi trốn biệt luôn đó chớ!” bác cúi xuống vò đầu tôi, cười nói. “Tóc tai của thằng Phúc sao trụi lủi vậy nè? Con làm chú ở chùa nào vậy, Phúc?

Ba tôi đở lời, nói:

– Nó bị đau ban khỉ nên tóc rụng trụi lủi đó!

Má tôi cũng cười, nói:

– Mùa nầy ở trên tỉnh nóng nực thấy mồ! Vợ chồng em đưa thằng Phúc xuống đây ở với anh chị cho nó đổi gió đồng nội và nhờ thầy Ba thuốc Nam trị bịnh ban khỉ cho nó dùm vợ chồng em! À, còn chị Ba đâu rồi anh?

– Bả đang ở bên nhà chú thím Tám Đông bên kia sông, để anh Ba gọi bả về!

Nói rồi, bác Ba tôi lấy hai bàn tay bụm lại làm loa, hướng qua bên kia bờ sông, gọi lớn:

– Má thằng Hoàng ơi! Về nhà có khách ở Long Hồ xuống thăm nè!

Nghe gọi, bác Ba gái từ trong nhà đon đả đi ra bờ sông, hỏi vọng qua bên nầy:

– Ai ở Long Hồ xuống thăm vợ chồng mình vậy cà?

– Vợ chồng chú thím Tư chớ ai vô đây!

– Ừa, chờ chút! Tui về liền!

– Bảo thằng Tây Đen bơi xuồng đưa bà về! Tui có chút quà cho thím Đông đây nè!

Một lát sau, tôi thấy thằng bé đen thui, trạc tuổi tôi bơi chiếc xuồng ba lá đưa bác gái qua sông. Nó cắm sào cây tre xuống nước, rồi theo bác gái lên bờ. Bác gái gặp má mừng lắm. Trong lúc ngươi lớn líu lo tâm sự, nó nhìn tôi chăm chăm rồi hỏi bác Ba tôi:

– Thằng nầy là ai vậy, bác Ba?

– À, bác quên giới thiệu cho hai đứa bây làm bạn với nhau, bác Ba vui cười, giới thiệu: Đây là thằng Phúc cháu trai của bác ở Vĩnh Long; còn đây là cháu Tây, con của chú thím Tám Đông, nhà ở bên kia sông là anh em kết nghĩa với bác Ba đó!

Và kể từ hôm đó, thằng Tây Đen nhanh chóng trở thành bạn thân miệt vườn của tôi. Bác Ba đưa con heo sửa cho thằng Tây, dặn:

– Đem con heo nhỏ nầy về đưa cho tía má con! Nói là quà của của bác Ba nghe chưa!

Bác gái thấy vậy hỏi:

– Heo của ai cho ông vậy?

– Của chị Sáu Hộ ở xóm dưới đó mà! Mấy tháng trước, con nọc nhà mình nhảy con nái của chỉ, nó mới sanh được một lứa 10 con. Chị Sáu Hộ cho mình một con gọi là để đền ơn. Tui cho thím Tám con nầy để gầy giống!

– Cũng cái con mẹ Sáu Hộ đó nữa à! Bác gái cười gằn, rồi quay qua dặn thằng Tây: Bữa nay, có bà con ở Vĩnh Long xuống chơi, bác làm một bữa cơm gia đình. Hai bác mời hết ba má qua đây dùng cơm trưa. Dặn má con đừng có nấu cơm nghe chưa!

Thằng Tây chào mọi người, rồi ẵm con heo con xuống xuồng bơi qua sông. Bác Ba nói:

– Thôi, mời chú thím Tư lên nhà uống nước trà nói chuyện. Còn má thằng Hoàng muốn làm cơm đãi khách món gì thì tùy ý nghe!

Má tôi cũng đứng dậy, nói:

– Hai ông ngồi nói chuyện. Tui xuống bếp phụ với chị Ba.

– Nói chuyện gì cũng được, trừ chuyện “mèo mỡ gà đồng” là phạm gia quy đó nghe! Bác Ba gái cảnh cáo.

– Còn ông nói chuyện gì cũng được, trừ chuyện nhậu nhẹt là phạm gia pháp đó nghe! Má tôi nhắc khéo ba tôi.

Chờ bác gái và má tôi đi ra đằng sau bếp rồi, bác trai nói nhỏ với ba tôi:

– Đàn ông lâu ngày gặp nhau mà không nói chuyện đàn bà, nhậu nhẹt thì biết nói chuyện gì nữa nè trời!

– Thì mình nói chuyện làm ăn, dạy dỗ con cái cho nên người cũng được chớ có sao đâu, anh Ba! Nói gì thì nói, ba tôi khều nhẹ bác trai, nói nhỏ: Tôi có mua vài rượu thuốc thượng hảo hạng của ông thầy Xì, mang về cho anh dùng. Anh chỉ nghe nội cái tên thuốc cũng đủ rùng mình rồi!

Bác trai khoái chí, cười híp cả mắt, hỏi:

– Rượu thuốc loại gì mà ghê quá vậy, chú Tư?”

– Cửu chiến bất bại!

– Khiếp vậy à! Nè, nghe tui dặn. Bả có hỏi rượu thuốc trị bịnh gì thì chú là đại là thuốc trị “phong thấp” thôi nghe cha!”

Lúc đó, bác Ba tôi ngoài ngũ tuần nhưng rất tháo vác, ngoài nghề gõ đầu trẻ ra, bác tôi còn kiêm theo thêm nhiều nghề “tay trái” lắm như tự tay chăm sóc 10 công đất vườn chung quanh nhà trồng toàn cam mật lấy giống từ làng Nhơn Ái vùng Phong Điền, ngọt như đường phèn và quít lấy giống từ làng Long Tuyền, ngon ngọt nhứt xứ Cần Thơ. Ngoài ra, bác trai vừa là thầy thuốc Nam kiêm nghề coi tướng số và nghề cuối cùng là nghề nuôi “heo nọc” để che mắt bác gái. Cứ vào mùa bãi trừng là bác trai dẫn con heo nọc giống ngoại quốc đi “nhảy nọc” khắp làng trên xóm dưới. Còn chú Tám Đông, người anh em kết nghĩa với bác trai, ngoài nghề chính là làm ruộng, trồng rẫy còn kiêm nghề thú y, chăm sóc gia súc cho dân làng.

Bữa cơm hợp mặt của ba gia đình và có một người khách đặc biệt là hàng xóm với gia đình bác trai là chú Sáu đan rổ nên có biệt danh là “Sáu Rổ” nhà ở bên kia con đường. Bữa cơm toàn những món ăn đặc biệt của vùng Ba Láng như rùa rang muối chấm với nước mắm me, cá lóc úp thùng thiếc nướng lửa rơm, cuốn với bánh tráng rau sống, chấm mắm nêm. Và có một món tôi thích nhất là chim cu đất rô ti nước dừa, toàn là những món nhậu độc chiêu. Bác trai, chú Tám và chú Sáu Rổ nhậu say bí tỉ. Còn ba tôi, nhất định giữ vững lời thề với ông nội tôi, cứ một mực uống nước trà làm chuẩn. Còn tôi chỉ được ăn canh gà ác tiềm với thuốc Bắc của Lương Hiếu nấu cho tôi ăn để mau phục hồi sức khỏe.

Xong bữa cơm trưa cũng gần đến xế chiều. Ba má tôi sửa soạn ra về. Thằng Tây chèo chiếc ghe tam bản đưa ba má tôi ra chợ Cái Răng, đón xe đò trở về Vĩnh Long. Còn tôi ở lại với gia đình bác Ba cho đến hết mùa hè.

Tối đến, chỗ nằm ngủ của tôi là bộ ván gõ mun đã lên nước đen bóng kê sát vách ván bằng gỗ dầu, dưới cánh cửa sổ của gian nhà trước dùng làm nơi tiếp khách. Bác gái tôi thường ngồi ở đó ăn trầu và tiếp chuyện với mấy bà lối xóm đến thăm.

Đêm đầu tiên thật khó ngủ vì lạ chỗ và vì phần nhớ nhà. Đêm mùa hè ở thôn quê trôi qua thật chậm, khí hậu tuy có mát hơn thành thị nhưng vẫn còn oi bức. Tôi ngồi bật dậy, mở toang cánh cửa sổ cho gió mát lùa vào và cho đến khi cái đồng hồ đờn treo trên vách thong thả buông tiếng gõ ngân nga 11 tiếng, tôi mệt mõi ngủ thiếp đi lúc nào cũng không hay, cho đến khi tiếng gà trong làng dọc theo hai bên bờ sông gáy rộn rã, tôi mới giật mình thức giấc.

Tôi chống tay ngồi dậy, nhìn ánh trăng ảm đạm, mờ nhạt len vào khung cửa sổ. Sương mù trắng đục bao phủ khắp nơi trong khu vườn, dầy đặc đến độ tôi không thấy cây cối gì cả, chỉ nghe tiếng mấy tàu cau cạnh bờ mương bên hông nhà bị gió lay xào xạc, giũ những giọt sương đêm rơi lộp độp trên mái lá và tiếng kêu chim chiếp của một con chim non nào đó chợt thức giấc, cựa mình trong tổ.

Một lúc sau, con nọc và bầy heo bắt đầu kêu ầm ỹ trong chuồng đòi ăn là tôi thấy bác gái đã thức dậy, đốt cây đèn bão ra ngồi ngoài sàn nước, xắt chuối cây để nấu cháo heo…Tôi cũng rời chỗ nằm, đi ra ngoài sàn nước, ngồi bên cạnh bác gái, phụ hốt chuối cây đã xắt lát bỏ vào cái chảo đụn. Trời hơi lành lạnh, bác gái lấy cái áo len choàng lên mình tôi cho ấm.

Khi trời bắt đầu rạng đông, con trăng thượng tuần chưa lặng hẳn, còn hiện lờ mờ ở chân mây là ánh mặt trời đã hừng lên ở hướng đông. Sương mù từ từ loãng dần, tôi có có nhìn thấy trên cây mít tố nữ trồng bên cạnh chuồng heo, một đôi chim chìa vôi rời tổ, cất tiếng hót líu lo, bay lượn khắp nơi trong khu vườn; chốc chốc, lại bay về tổ, giũ đôi cánh ướt đẵm sương mai.

Bình minh, ánh thái dương tưng bừng rực sáng một gốc trời báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Màn sương tan biến dần, bây giờ tôi có thể nhìn thấy rõ hơn cây dương liễu mọc ở cuối bờ ao xa xa, bầy chim sẻ đã dậy ổ kêu ríu rít.

Dưới ao, bầy cá mè vinh, cá he vàng nổi đều lên mặt nước ăn mống. Một đóa sen hồng vừa mới nở đêm qua, lẻ loi nhô lên mặt nước; có lẽ, hương thơm đầy quyến rũ làm ngây ngất một chú chàng hiu đang ngồi chống đôi tay dài khẳng khiu trên một lá sen tròn, trầm ngâm suy tư. Bất ngờ, nghe tiếng cá quẫy đuôi gần bờ ao, nó hoảng hốt phóng mình xuống ao, đánh bõm một tiếng. Mặt nước bị giao động, tạo thành những vòng xoáy từ từ lan rộng ra, tôi có cảm tưởng mặt nước in bóng đám mây hồng bay vắt ngang qua bầu trời, đang trôi nổi bồng bềnh trên mặt nước ao.

Kể ra, bác trai hành nghề lương y mát tay thật. Chỉ một tuần sau là tôi khỏe hẳn người. Ăn uống bình thường không cần cữ kiêng gì cả. Sáng nào thằng Tây cũng bơi xuồng qua chơi với tôi; mặc dầu, nó chỉ lớn hơn tôi vài ba tuổi, nhưng nó thật khỏe, leo trèo, chạy nhảy nhanh như sóc, bơi lội như rái cá miệt U Minh.

Qua đến tuần lễ thứ hai là hai đứa tôi đi vào chương trình học tập: sáng học võ với chú Sáu Đan Rổ, chiều luyện toán với bác Ba. Nhờ chú Sáu chỉ thêm võ thuật mà sau nay có một thời tôi say mê quyền thuật. Chỉ có những buổi chiều nào bác Ba bận dẫn con nọc đi làm việc thì hai đứa tôi mới được thông thả, rong chơi ngoài đồng như săn chim trời, thả diều, đi hớt cá lia thia, gác cu bên cây xoài tượng đằng sau vườn nhà nó, cắm câu, đặt trúm lươn ngoài đồng. Trời đổ cơn mưa chiều thì đêm đến lén đốt đuốc đi soi ếch. Tôi học thằng Tây đủ nghề cả cả nghề đi ăn trộm gà.

Càng ở lâu, tôi càng thương hai bác như cha mẹ ruột. Nhứt là bác gái chăm sóc tôi từng miếng ăn giấc ngủ cũng giống như anh Hoàng – con trai duy nhất của hai bác – đang đi học ở Sài Gòn nên ít khi có dịp về quê làng Ba Láng thăm gia đình. Tôi chỉ sợ khi thấy bác gái nổi trận lôi đình, bác múa cây mác dùng để xắt chuối cây nghe vù vù như Triệu Tử Long, rượt bác trai chạy vắt giò lên cổ… Có một lần, chú Tám Đông chơi bác trai một vố sợ điếng hồn, rồi hai người giận nhau cả tuần lễ.

Chuyện là như vầy:

Một buổi trưa hè, tôi và thằng Tây Đen đang làm toán tập, còn bác trai nằm trên võng ngâm thơ “Lục Vân Tiên”. Bên kia sông, chú Tám Đông đang ngồi chồm hỗm dưới gốc mậm trên bờ sông, bên cạnh cây cầu ván, ngó mông lung qua bên kia bờ sông. Vừa vấn xong điếu thuốc rê đưa lên môi, rồi châm diêm quẹt đốt, phì phà một vài hơi rồi ngả lưng bên gốc mận lim dim đôi mắt, lắng nghe tiếng gió thổi rì rào trên rặng bần xanh dưới mé sông. Chú Tám nhướng đôi mắt nhìn lên tàng cây mận xanh um rậm lá, say sưa nhìn những chùm mận non, vỏ còn xanh xao đong đưa trước gió, bỗng thấy một con sâu đo màu xam xám, nhỏ bằng đầu đũa ăn rời khỏi chùm mận non, đang giẫy giụa dưới sợi dây tơ mong manh như mạn nhện, cố rút mình trở lên tổ; nhưng đã muộn, một con chim sâu mỏ màu nâu nhạt, nhỏ hơn chim sẻ một chút, từ đâu bay sà xuống, móc đôi chân bám vào nhánh cây gần đấy, thòng đầu ngược xuống đất, đảo đôi mắt liến thoắng, nhìn con mồi một cách thích thú, bất ngờ nó buông mình bay vụt tới như mũi tên đớp con mồi, rồi bay vút lên bầu trời xanh bao la mùa hạ. Nó bay liệng một vòng trước khi mất hút bên kia bờ sông. Chú Tám nhìn theo chậc lưỡi, thở dài: “Năm nay, không khéo lại gặp nạn sâu đo nữa rồi”!”

Tiếng võng kẽo kẹt và tiếng hát ru con ầu ơ trầm bổng của chị Chín Dậu hàng xóm, văng vẳng vang lên từ dưới bóng mát của cây vú sửa trước sân căn nhà lá, thấp lè tè của vợ chồng chị:

” Ầu ơ…ơ…Gió đưa bụi chuối sau hè buội

Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ…ầu ơ…ơ…””

Nghe tiếng ru của chị Chín Dậu, chú Tám bật cười khan, rồi lẩm bẩm một mình: Nhà nghèo rớt mòng tơi, thằng cha Chín Dậu phải đi làm nghề biển, có khi cả tháng mới về nhà, chớ thằng chả có theo con mẹ nào đâu mà ở nhà cứ ghen bóng ghen gió hoài, giống y chang chị Ba!

Tiếng ru con buồn buồn của chị Chín Dậu hòa lẫn tiếng ve sầu rộn rã, tiếng chim cu đồng gù cúc cù cu, tiếng chim hót lảnh lót từ những rặng dừa, rặng tre già dọc con đường làng hoặc trên một cánh đồng lúa chín nào đó vọng về, tấu thành khúc nhạc đồng quê êm đềm như ru chú Tám Đông vào giấc ngủ trưa hè.

Chú Tám đang thiêm thiếp giấc nồng thì có một người đàn bà gốc Hoa, dáng người mập mạp, nói trọ trẹ được một ít tiếng Việt, đánh thức chú dậy để hỏi đường. Bà ta hỏi:

– Chú Hai ơi!


Sách tương tự