Chuyện Thời Thế

Chuyện Thời Thế

Tổng số chương: 1

Đầu ngã ba làng. Tụi trẻ trâu có đến gần chục đứa cứ hếch lên ngó nghiêng. Chúng thấy lạ. Trời cực nóng. Mới sáng, nắng đã hun như hun chuột. Thằng nào, thằng ấy trần trùng trục.

Hai xỏ quần đùi thốc lên tận bẹn mà mồ hôi vẫn nhễ nhoại. Rôm vẫn cắn rôm rốp từng bãi. Có lúc, phải ngoéo tay sau lưng nảy ngứa rần rật. Thế mà, đường làng vẫn rộn ràng. Lúc mấy cụ ông. Lúc lại mấy cụ bà. Các cụ ông mặc bộ quần áo ra đình màu cứt ngựa, trên đầu quấn một ụ khăn to. Các cụ bà kéo lê bộ áo dài vẫn mặc lên chùa. Các cụ vừa đi, vừa nói chuyện, vừa đợi nhau, vừa ngẫng lại để rướn lưng. Sau mới biết, đám các cụ đi khai tượng ở nhà cụ Tọ.

Cụ Tọ năm nay tuổi cũng đã bát niên. Dáng người cụ nhỏ thó, nhanh nhẹn. Cụ vẫn giữ nếp xưa như một bản sách cổ mộc quý hiếm. Cụ vẫn đi chân đất. Vẫn ra bể vục nước mưa uống. Vẫn phe phẩy cái quạt mo cau. Cụ bảo chả bao giờ tao mất một đồng, một cắc nào để mua giày dép. Tuy già nhưng cụ vẫn minh mẫn, nhớ rạch ròi từng chi tiết. Cụ hay kể những câu chuyện như các cụ già trong làng vẫn kể. Những câu chuyện “ngày xửa, ngày xưa” hao hao cổ tích nhưng thay vào cái mốc thời gian ấy là “thời tây, thời ta, thời còn ma các cụ”. Kể, để cụ căn truyền lại cho con cháu thuyết nhân quả, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, ác giả ác báo… Rồi cụ vận vào một cách nhỡn tiền. Cụ bảo, mấy đời nhà cụ chỉ biết sống thiện lương, chỉ biết trần lưng cho đất, bán mặt cho giời, cày sâu cuốc bẫm, không gian, tham, ác bá nên mới giữ được hồng phúc cho đời con cháu bây giờ. Quả thật, phải phúc cao, đức dày, nhà cụ mới hậu sinh khả úy. Bố chân đất mắt toét, con xế hộp siêu đẳng. Bố cả đời, đầu làng, cuối xóm, con trâu đi trước, cuốc, cày theo sau. Con mới tí tuổi đã trong nước, ngoài nước, tứ xứ giang hồ. Chỉ tính dinh cơ ở quê, dinh cơ đất vàng phố cổ thủ đô, lão Tráng con trai cụ đã nhất nhì cả cái vùng này.

Lão Tráng năm nay đã ở ngưỡng “tri thiên mệnh”. Lão thuộc loại khôn rách giời rơi xuống. Đầu chứa toàn sỏi đen. Hồi trẻ, lão chạy được suất đi lao động bên Đức mấy năm. Khi về, có tí vốn trong tay, lão đi lùng mua những mỏm đất rìa nghĩa trang, những ruộng muống, bãi rác ở ngoại vi thành phố. Mua xong, lão dựng túp lều rồi lấn dần ba bề bốn bên. Cơi cơi vài năm, đất đẻ thừa cơ số, lão mới chạy sổ đỏ rồi xây nhà lên bán. Cơ nghiệp phất lên từ đấy. Lão Tráng được biệt danh là “Tráng Tọ”. Việc khó đến nước đập đầu vào đá nhưng vào tay “Tráng Tọ” lại nghênh ngang như kiến múa sừng. Dựa vào các mối quan hệ, lão còn chạy ghế, buôn quyền, bán chức cho các quan. Bản thân lão không biết lính tráng ngày nào song hàng tháng vẫn lĩnh trọn một cục lương đại tá. Tuy nhiên, không phải ai cũng nể phục lão. Cái thói ganh ghét, hạ bệ của thiên hạ cứ hay dòm vào những chỗ xung yếu của lão. Vì thế, họ hay tò mò, tọc mạch về cái lý lịch của nhà lão. Họ đồ rằng, lão không phải con ông cháu cha nhưng dựa được ghế “cụ” to nên mới có được những thế cờ “tiên nhân chỉ lộ” siêu phàm đến thế. Họ cũng hay cớm chuyện để tra ra vố gốc cây tiền cây bạc của lão. Song “kiến trộm trứng, rận vượt cạn” còn không qua nổi mắt lão nữa là mấy trò ơ, a tập vần của trẻ con. Lão hay cười khề khề rồi cắt roẹt một câu chắc củ: “Thời thế, thế thời! Mưu sự tại nhân. Thành sự tại Thiên!”. Xong, lão đứng phắt dậy. Lão biết rõ những kẻ ấy luôn giấu xà beng, nhăm nhăm hở cơ để đào gốc rễ tông tích, họ hàng hang hốc lý lịch nhà lão.

Lý lịch năm đời nhà lão được kể như sau: Cụ tổ, tên nôm là cụ Trần Công Tấu. Tính từ cụ Tấu xuống, lão Tráng là đời thứ năm. Ngót nghét đã già trăm năm. Hiện, cụ không còn vết tích gì. Mộ cụ cũng mất. Ngày giỗ cũng mập mờ. Nghe truyền lại, cụ gốc người đàng trong. Người thì bảo, cụ đang làm quan to nhưng gặp lúc triều đình loạn nên từ chức quan về đây ở ẩn. Người lại nói, chả quan quách gì, chỉ là dân thường, tay bị tay gậy trôi dạt về đây. Xưa nơi này đồng rộng, cống to, cò bay sải cánh, con người hiền lành thật thà nên cụ xin ngụ cư rồi đến các đời con cháu sau này. Thời thế, thế thời. Nay quan, mai dân. Nay võng lọng xênh xang. Mai sa cơ, lỡ vận cũng nên. Của cải, tiền bạc là thứ phù vân. Duy có danh thơm là lưu hậu thế. Danh thơm, sáng cả làng, sang cả họ, trải khắp giang san. Điều này thì cụ tổ không làm được. Đời sau, cụ Trạng cũng vô danh. Cụ Trạng rồi đến cụ Sớ. Cụ Sớ rồi đến cụ Tọ. Mấy đời đều lận đận cái nghèo đeo bám. Lão Tráng vẫn hằn lên trong ký ức hồi còn nhỏ. Lần ấy, lão bị bố đánh vì tội hoang của. Tội cơm rơi xuống đất không nhặt lên. Mắt trước, mắt sau, thằng bé xoay gót rí nát nhẻm. Không ngờ, bố Tọ vẫn lia mắt bắt trúng quả tang. Chưa kịp gì, thằng bé đã bị bố bắt giơ cái chân lên rồi lấy luôn chiếc đũa cả quật đến tím chân. Đánh. Chửi. Rồi cụ đay đi đay lại: “Nhà tao ba đời làm thuê. Quanh năm cắm đất mặt nhọn. Cháo cám còn không có ăn. Phải nghèo kiết xác, chết đói rã họng mới chừa cái thói coi trời bằng vung. Cơm gạo là ngọc thực. Một đớn cơm cũng phải quý!”.

Căn cơ đến cằn kiệt mà vẫn bần hàn. Giảm tô cải cách vẫn trong diện bần nông. Nhưng cũng được vẻ vang ngẩng đầu vài bữa vì được vào đội đấu tố, được chia hôi vài thứ của địa chủ, cường hào ác bá. Qua thời ấy rồi lại lụn. Lại mặt tro, mày trấu. Vặt mồm không đủ bỏ mũi. Đến đời lão Tráng, thời thế thay đổi. Lão Tráng cũng thuộc loại mẫn thời, cán thế nên mới được mở mày, mở mặt. Song, xét cho cùng, mặt người, khuôn số. Khôn, dại tại trời. Trời có mắt. Trời cắt đặt. Vì thế, trời căn cho lão Tráng sướng đến nỗi không còn thiếu một thứ gì. Nhà cửa, con cái, tiền bạc, công danh, phú quý… Cái gì cũng có tất tần tật. Tuy nhiên, một thứ duy nhất như cái mẻ kho của Thạch Sùng, lão lại không có. Cái thứ “mẻ kho” ấy làm cho lão đến truyền kiếp cũng không dám ngẩng cao đầu mà vênh vang với thiên hạ. Nó rày rọt lão như một căn bệnh không có thuốc chữa. Sống ngày nào, rệt bệnh ngày đấy. Bệnh ngày, bệnh đêm. Nhắm mắt thấy bệnh. Mở mắt ra cũng thấy bệnh. Bệnh đau mà nhục. Nhục mà đau. Lý ra, lão được đứng võng vọt cao như ngọn cờ thiên hạ. Nhưng nỗi đau ấy, nỗi nhục ấy cứ như cái dây thòng lọng luôn giật cổ lão xuống.

Nó bảo: – “Nhìn lại đi! Tự thướng đi! Săn đuôi, bám đít! Giàu sang, danh giá gì? Ông to, bà lớn gì? Dù thời thế, thế thời thay đổi, tróc gốc nhà lão vẫn hạng BẦN NÔNG”. Có đêm, lão nằm mơ ú ớ, cổ, vai đau cứng lại, muốn vùng dậy nhưng lại bị chẹt xuống. Hóa ra, lão bị một cái ách trâu bằng gỗ lim, bản mặt khắc chữ BẦN NÔNG to tướng tròng lên cổ. Đau đớn, khổ nhục, lão đành ngậm đắng, nuốt cay. Có hở miệng nói ra, khác gì vạch áo cho người xem lưng. Lão cay nhất thằng cha Huyếnh. Thằng cha có mỗi trên răng, dưới cắt tút nhưng lúc nào cũng dương dương tự đắc: “Nhà tao ba đời địa chủ, phú nông, giàu nứt đố, đổ vách. Đời tao cũng thế. Đéo thấy nghèo bao giờ. Thế mới là đời!… Đ.M! Lũ chúng mày, Chẳng qua, thời thế, thế thời, cóc ếch rệch ngôi cao. Phỗng đít còn hay nổ! Ồm ộp lắm, có ngày cứt phọt lên đầu, chết vì thối!”.

Lão Tráng còn biết, thời ấy, nhà có hai con ủn trong chuồng đã được hạng phú nông. Một đàn gà túc tích dăm bảy con cũng thuộc trung nông. Khốn nỗi, nhà hắn không có nổi mấy thứ ấy. Không cần tra từ điển, con cháu lão cũng hiểu rõ thành phần “bần nông” là thành phần bần cùng bần kiệt, là nhục, là mạt hạng thế nào. Vì thế, mục đích sống duy nhất của lão chỉ là tẩy trắng cái lý lịch bần nông. Chưa tẩy được, cũng phải lấp dần, ém nó xuống. Chuyện thời thế đâu tính ngày một, ngày hai. Cách lão đã làm là đứng vai trò Mạnh Thường Quân trong các kỳ cuộc cờ, đèn, kèn, trống từ tỉnh, huyện, xuống đến xã, thôn. Vì thế, lão mới được bầu tín nhiệm. Lão nắm trọng trách đến mười mấy cái trưởng ban, hội trưởng. Lão đã luyện viết chính tả để sắm cái chữ ký “đại phát” cuộn như rồng bay và sắm cái triện vuông đỏ chót để đóng cho oai. Đi đâu cũng oách thế lắm. Phát biểu hùng hồn như có gang có thép. Nhưng khi đặt đít xuống, lão lại thấy hai chữ BẦN NÔNG như căng băng zôn thẳng trên đầu làm lão muốn đứt hơi. Lão khuyến khích con cháu vượt biên bằng con đường du học rồi định cư, làm quốc tịch mới, bỏ hẳn lý lịch bần nông, bỏ cả nguyên quán quê cha đất tổ này đi. Bản thân lão cũng chẳng mặn mà gì với mảnh đất cha ông cụ kỵ. Cái biệt thự tây rõ sang trọng, ai đi qua cũng phải dừng lại ôi a thán phục nhưng lại cắm móng trên cái nền bần nông mấy đời. Cụ khốt nông tri điền nhà lão vẫn ngang ngạnh, cổ hủ. Cụ vẫn buộc chặt mấy cái liềm, cái lưỡi cuốc cất ở góc nhà. Góc vườn, vẫn có chĩnh tương đội nón quanh năm.

Có lúc, lão Tráng thấy hoảng. Tương lai, chỉ khi, nhà nước này cải cách chế độ, xét lại thành phần lý lịch, nhà lão mới có cơ thay đổi. Cả cái lý lịch nhà lão Hạng nữa. Con cháu không ngóc đầu lên được vì dính phốt chính trị. Từ thời ông nội đi lính cho Pháp mà mấy đời con cháu vẫn treo tội. Nhưng thôi, đèn nhà ai, nhà ấy rạng. Lão phải tự cải cách. Nếu không cải cách, năm đời, chứ đến mười đời con cháu nhà lão vẫn mang lý lịch bần nông. Trắng rễ thành phố nhưng vẫn nguyên quán làng Vi, thôn Tựu. Tuy nhiên, chỉ có đời lão là bị quàng vào cái hệ lụy ngặt nghèo, vai cùm, chân ách, tàn dư của phong kiến cổ hủ này. Còn thế hệ thằng con trai lão nó bảo không quan tâm, không liên quan. Nó chỉ quan tâm, tiền có bao nhiêu trong tài khoản, những ai nằm trong diện thừa kế. Lão cũng giận. Chúng chưa thấm nhục được nỗi hèn danh dự. Lão biết, phải tự tay xoay sở chứ không trông hòng được ai. Nhà nước chưa cải cách, lão phải tự cải cách. Nhà nước chưa thay đổi, lão phải tự thay đổi. Đấy trọng trách nặng nề lão phải làm cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Thật may, thời thế đã thay đổi. Mấy năm nay, xã hội giàu lên, thiên hạ thi nhau đúc tượng vàng thờ phụng tổ tiên. Lão cũng nghĩ ngay đến việc đúc tượng cụ Tổ. Cụ đúng là khôn thiêng. Khi quyết định, đầu lão như mọc thêm đinh nên đã nghĩ ra quyết sách mang tầm nhìn chiến lược.

Việc bố con cụ Tọ dựng tượng cụ Tổ đã được coi như một sự kiện lớn của làng. Bởi từ trước đến nay, thiên hạ nhiều kẻ giàu thì giàu thật, nhưng chưa có ai biết cách phô phang cái giàu ấy một cách thời thượng đến thế. Chưa có ai đặt cục tiền to lên để thờ một cách sang trọng phú quý đến thế. Cũng chưa có ai biết lợi dụng quảng cáo truyền thông một cách sâu sắc, triệt để, toàn diện đến thế. Nhà Đài sẽ truyền hình trực tiếp buổi lễ khai tượng cùng một số tư liệu lịch sử, truyền thống, một số cảnh quan đặc sắc của làng thành một chương trình rồi đưa lên phủ sóng toàn tỉnh. Vì thế, nhất là các cụ già, cả đời cổ cày, vai bừa, quang cảnh con trâu, mảnh ruộng là quá vãng, giờ đến lúc gần về chầu Diêm Vương mới có cơ hội lên truyền hình, cái danh “cao niên lão trượng” giờ mới được tôn cao, trọng vọng. Nhiều cụ phấn khởi ra mặt, đi đâu cũng khoe, rồi lo lắng, băn khoăn đến mất ăn mất ngủ, lục tục dậy từ sớm để chuẩn bị.

Không chỉ có các cụ, mà cả làng cũng khí thế hẳn lên. Nhiều thành phần không mời cũng í ới rủ nhau đến. Đến để xem, để thỏa chí tò mò, để thò ra cái bản mặt cho ống kính chụp rụp, cho hãnh diện được loát hình lên ti vi toàn tỉnh. Không những người hàng tỉnh, còn người hàng quốc gia biết đến mặt mình cũng nên? Tuy nhiên, họ xem xong rồi về chứ không cỗ bàn gì. Mỗi đám trẻ trâu là không hổ danh tên tuổi. Quần thủng đít, áo ba lỗ, mặt mũi như Bao Công vẫn xông thẳng. Đến để xem. Đến để oánh chén. Vì thế, hôm nay làng hầu như đủ mặt. Đông như hội. Mới đến đầu ngõ, tiếng đàn, ca, sáo, nhị làn điệu chầu văn hầu giá Cô, giá Cậu đã véo von tưng bừng. Cảm tưởng mỗi bước chân Cô, chân Cậu đi đến đâu, mặt đất, bầu trời bỗng hóa thiên đường đến đấy. Gieo hoa, hoa nở. Gọi chim, chim hót. Gọi quả, quả thơm. Gọi mây, mây bay. Gọi suối, suối chảy… Tất cả như bừng dậy, reo vui giữa khoảng trời vi vút, giữa những tán cau vua xòe ô, đan quạt dẫn dụ như đi vào một khu sinh thái tâm linh diễm lệ. Đi mãi, đi mãi… vui tươi, mê mẩn, đến cổng nhà mới chợt sững lại. Một cảnh tượng vô cùng đặc biệt đã được bày biện ngay giữa sân nhà.

Cả làng này ai cũng biết cái sự giầu của nhà cụ Tọ, nhà ông Tráng. Nhưng ít ai được diễm phúc vào tận trong nhà để chiêm ngưỡng cái gia sản, cái sân vườn có giàn đèn cảm ứng huyền ảo, có máy tạo khói phun sương, cảnh sơn thủy hữu tình thơ mộng như tiên cảnh. Nhân dịp này họ mới được đến để thưởng ngoạn. Song hôm nay họ lại bị choáng ngợp trong một khung cảnh hoành tráng của thế giới tâm linh. Nổi bật giữa trung tâm là bức tượng nửa người được đặt cao trên chiếc bàn, phủ kín bằng tấm vải màu tía rực rỡ. Xung quanh bày biện ngát ngút các lẵng hoa tươi. Phía dưới bức tượng trưng bày đủ các loại hàng mã. Sững sững hàng hoạt voi ngựa, quân lính, khanh tướng, người hầu đến sân vườn biệt phủ cùng các tiện nghi hiện đại như ô tô, xe máy, ti vi, tủ lạnh, các đồ ăn thức đựng như nồi xoong, bát đĩa, quần áo, tiền vàng… Nghe nói, ông Tráng đặt nghệ nhân tận Đông Hồ bên Bắc Ninh làm trước đến nửa năm. Nhìn vào đàn lễ đã thấy uy nghi thần thánh. Tuy mơ hồ về bức tượng. Song, cứ thấy đỏ là chín. Ai cũng tiến sát bức tượng để vái lễ với vẻ rất thành kính. Có người còn quỳ sụp khấn khứa như lễ Phật trên chùa.

Cụ Tọ ở trong nhà đón khách. Hôm nay cụ mệt. Công to, việc lớn, hiếu, hỉ đủ cả. Song cụ không lo như việc hôm nay. Người cụ bồn chồn. Ruột gan có lúc nóng rát như lửa đốt. Thỉnh thoảng, cụ lại nhất vái lên ban thờ các cụ. Chắc hẳn, thổ công, táo quân, thổ thần, thần linh, cao, tằng, tổ, khảo, thúc bá, đệ huynh, cô dì, tỷ muội nhà cụ đang ngự trên ấy. Cụ thấy có lỗi, thấy không phải với các cụ. Nhất là với cụ Sớ, bố cụ. Thương cụ Sớ cả đời lam lũ vất vả. Từ khi cụ mất, cụ chưa bao giờ được gặp bố. Vậy mà, khi phát tâm làm tượng cụ tổ, cụ lại mơ thấy bố về. Nhưng rất lạ. Cụ chưa cho con cái thấy mặt bao giờ. Cái bóng cứ lùi lũi qua hai lần cửa đã khóa như không. Rồi cụ ngồi rũ vai trên chiếc tràng kỷ. Cụ Tọ định dậy hầu hạ bố thì cái bóng vụt mất. Cụ đáo bóng vài lần như thế làm cụ Tọ hoang mang. Cụ không nói, chắc có uẩn khúc gì. Có lẽ, lành ít, dữ nhiều cũng nên. Cụ Tọ thấy lo về việc dựng tượng cụ tổ. Hẳn, cụ chưa thấu đáo hết tâm ý của lão Tráng.

Song, thiển ý, cụ thấy mù mờ, khó lý giải. Thời gian còn làm cho núi sông cải biến, bãi bể cũng thành nương dâu, nữa là hạt bụi phận người. Chết là hết. Nếu còn hồn vía thì các cụ cũng đi mây về gió, tự do, an nhàn. Đang yên lành, dựng các cụ dậy rồi bắt cụ chui khuôn, ép mật. Dù có tượng vàng cũng ngang thưng tượng đất. Thật cực chẳng đã! Rồi, ít nhất, phải có ảnh, có hình, biết được mày ngang, mũi dọc ra sao dựa vào đấy mà tạc. Đây, lão Tráng nhắm mắt làm mò. Chẳng biết đúng hay sai. Có người bảo với cụ thời buổi này thật giả lẫn lộn. Tử tế thì ít, láo lếu thì nhiều. Không tin được mấy lão chủ tượng. Lạ gì cái kiểu hàng chợ. Đúc cả mẻ hổ lốn, chân, tay, đầu, cánh đổ đồng một khuôn rồi đầu lộn xuôi, đuôi lộn ngược, ệ mỗi tên gia chủ vào cho nó đổi khác. Rồi bóng của Thiên, thiền của Địa. Tài như Đế Thiên, Đế Thích cũng không dàn xếp được hồn anh Trương Ba khi nấp vào da anh hàng thịt, nữa là các cụ. Nhiều anh vô danh tiểu tốt, khi đúc lên tượng, tai to, mặt lớn, hao hao bậc danh cao vọng trọng. Nghe chuyện, cụ đã gàn ông Tráng.

Để chuẩn bị cho chu đáo, mọi thủ tục đã được ba ông thày sắp lễ cúng từ chiều hôm trước. Sáng nay chỉ còn việc khai quang điểm nhãn là xong. Các thầy thay nhau tụng kinh, gõ mõ từ sáng sớm. Phải mất ba bốn tiếng mới đến tới giờ khai quang. Nhưng hôm nay, sư thầy gieo quẻ mấy lần đều không được. Lúc sấp, lúc ngửa. Sau mỗi lần, tiếng tụng kinh lại trào lên. Người lo nhất vẫn là bà Hà. Có lúc bà run lên, đờ đẫn như bị bắt hồn. Bà hiểu rõ chồng mình. Bất cứ việc gì cũng tính có lợi ông Tráng mới làm. Song, đây là việc âm, việc tâm linh. Phật từ bi nhưng Thánh một ly cũng chấp. Mỗi lần ám quẻ, bà lại rền rĩ cầu khẩn, sám hối, xin âm phù, dương độ, điều lành mang đến, điều dữ mang đi, tai qua nạn khỏi, gia đình bà được an yên vô sự.

Ông Tráng hầu như không quan tâm đến mọi việc đang diễn ra. Ông chỉ quan sát để điểm mặt. Đầy chật cái sân rộng. Nam, phụ, lão, ấu đủ cả. Quan tỉnh, quan huyện khắp mặt. Tất cả răm rắp thành kính. Tuy nhiên, bá đạo nhất ngày hôm nay chính là bài phát biểu của lãnh đạo ngành văn hóa. Sau bài phát biểu là bài văn tế do lão đặt một nhà văn tên tuổi trên trung ương viết để ca ngợi công lao cái thế của cụ Tổ. Cụ là một vị quan trong triều chứ không phải hạng dân thường đóng khố. Đặc biệt, bài phát biểu sẽ kích tầm ý nghĩa văn hóa để bật những cái mới trong việc đúc tượng. “Đây có thể coi là một điểm sáng MỚI trong phong trào văn hóa MỚI của làng. Nó đã, đang và sẽ thể hiện một khía cạnh đạo đức rất MỚI của người Việt Nam trong thời đại MỚI. Rằng: Chúng ta luôn luôn không quên cái CŨ! Uống nước, phải nhớ nguồn! Rằng: Chúng ta luôn luôn nhớ tới và đền đáp công lao sinh thành, dưỡng dục, giáo huấn, của tổ tiên, cụ kỵ, ông bà, bố mẹ. Đó là truyền thống CŨ của dân tộc nhưng không mất đi trong thời đại MỚI. CŨ nhưng lại rất MỚI. MỚI, song đó là sự kế thừa. Đó là những điểm MỚI cần phát huy trong hội nhập thế giới phẳng toàn cầu MỚI của quốc tế. Rằng:… ”.

Dứt lời phát biểu, dàn pháo bông được đốt phụt lên. Phụt xòe! Phụt xòe!.. Tiếng nổ tung trời! Cả bầu trời miên man khói tỏa, rập rờn hoa lượn, bướm bay, xanh xanh đỏ đỏ, đỏ đỏ xanh xanh… Em bay lên nào! Em bay lên nào! Tất cả hân hoan, vui mừng, rạng rỡ!… Thành công ngoài sức tưởng tượng! Bức tượng cũng đẹp đến tinh khôi. Từ khuôn mặt đến vầng trán, ánh mắt đều cân chỉnh, quắc thước. Thần thái bức tượng anh quang. Là một tổng thể thẩm mỹ hài hòa của nghệ thuật. Rồi tất cả sẽ đua nhau tự sướng, cười thật tươi để gắn cái mặt mình vào sát mặt cụ tượng, để ghi lại khoảnh khắc làm vài tấm ảnh nhật trình cho đời. Người thật, việc thật. Lão đâu phải “diễn trò”, “phô trương” hay “trưởng giả học làm sang” mà nhiều kẻ đã xì xào sau lưng. Tất nhiên, việc gì cũng phải mục tiêu chữ “Lợi” lên đầu, phải căn thời, dựa thế. Đi xem gia sự, các thầy đều nói ngôi mộ cụ tổ đang phát. Cụ thiêng lắm. Cụ luôn phù hộ cho lão làm gì được đấy. Vì thế, vợ chồng lão mới xuất tâm tới cụ. Rồi cụ sẽ phù hộ, độ trì cho đại gia đình lão ngày một phát tài phát lộc, đời cha cho chí đời con, rồi cháu chắt, chút chít. Tuy nhiên, ở đây, không chỉ tính lợi tiền, lợi bạc, mà còn tính đến lợi danh, lợi giá. Tiền bạc, của cải là chuyện nhỏ, có khi nay tụ mai tán, phèo như bọt nước. Chỉ có danh mới đặng. Đời người hữu hạn nhưng danh lưu trường cửu. Có danh, tức có lợi. Danh sinh lợi. Giầu, nhưng phải sang danh, sáng giá. Giầu, không có danh khác gì trọc phú chôn chĩnh vàng trong nhà không hơn chĩnh tương chạn bếp. Càng giầu, càng phải đắp điếm cho danh được tôn cao. Thiên hạ mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Lão Tráng này ngược lại. Tiền của chẳng đáng là bao. Song ai cũng tận mắt thấy được cái tâm, cái đức, cái lòng hiếu đễ của lão với tổ tiên. Coi đó là tấm gương đạo đức thánh thiện. Còn! Hỏi rằng, thần thái anh quang, uy nghi lẫm liệt, ai bảo cụ tổ là phường rơm rạ? Là dân đen? Hẳn nhiên, cụ là quan lớn trong triều. Hẳn nhiên, con cháu nối dòng gia thế hiển vinh. Thạc sĩ, tiến sĩ, cử nhân đủ cả. Còn! Hỏi rằng, cả gầm trời này, trung, thượng, dưới hạ, ai truy được cả thiên hạ cung cúc cúi đầu, chắp lễ thế này? Thật là danh gia vọng tộc! Thiên thu bất luận!

Tiếng tụng kinh, gõ mõ vẫn căng, chùng liên tục. Có lúc như thúc, như mời. Có lúc như van, như vỉ. Có lúc như quỳ, như lạy. Gieo quẻ đến lần thứ năm, hai đồng xu bay chéo ra ngoài, quay quay mấy vòng rồi đậu cùng một chỗ, một đồng sấp, một đồng ngửa. Cành phan rùng lên, quay lăng lắc. Phải chăng, linh anh cụ đã tụ về? Cụ cười hay cụ giận dữ đây? Thấy vậy, ai cũng chắp tay vái lạy, mồm khấn lẩm nhẩm. Trong tích tắc, tiếng mõ lốc cốc lại vang lên khi căng khi chùng. Sư thầy lại tiếp tục niệm mấy vòng quanh tượng mới dừng lại trù trừ bên tấm vải. Rồi nhanh phắt, tấm vải đỏ được hất ra tung cao bay phấp phới trong những con mắt đầy phấn khích, nhột cảm sự linh thiêng hữu ứng.

Sự bí mật, huyễn hoặc của bức tượng đã được khai quang. Ai cũng hồ hởi, phấn khởi tung hô! Giữa thanh thiên bạch nhật, pho tượng vàng ròng ròng ánh nhũ hiện ra như một vị cái thế. Tuy nhiên, do đã sáp mặt đặt tên nên ai cũng nhất nhất khẳng định đây là tượng cụ tổ nhà ông Tráng. Cụ Trần Công Tấu. Một vị đại quan được tái thế!

– A! Ông Tráng! Tượng ông Tráng!

Tiếng reo của bọn trẻ trâu làm mọi người ngơ ngác. Nhiều người quay ngoắt về phía chúng nhìn vẻ hồ nghi. Vẫn mấy thằng cởi trần lộc ngộc buổi sớm. Thằng nào, thằng ấy mắt đang lồi ra, mặt cương lên như sắp đặt cược.

– Có đếch! Cụ Tổ nhà ông Tráng!

Thằng bên cạnh cãi. Thằng khác lại huých cái khuỷu tay vào thằng vừa nói, mắt trừng lên vẻ thách thức:

– Mắt mày lòi! Tượng ông Tráng!

Bọn trẻ cãi nhau cũng có lý. Các bậc cao niên thấy rõ điều này. Họ nhà cụ Tọ, khuôn mặt ai cũng nhỏ nhỏ xương xương. Riêng lão Tráng khuôn mặt vuông vức giống mẹ như đúc. Song, tai tượng thì khác hẳn, vành tai to, quan quách, dái tai đầy lên phúc, lộc, thọ. Cụ tượng còn khác ở chỗ trán cụ nổi vầng rất cao. Nói tượng ông Tráng, đúng mà lại không đúng. Bảo tượng cụ tổ, phải mà lại không phải. Cụ tổ không thể giống bên ngoại nhà lão Tráng được? Cũng không thể phủ nhận, tư thế đường bệ của cụ tổ không khác gì những bức tượng được đặt nơi công cộng. Phải là quan to trong triều mới có hình dạng quắc thước như thế.

Cụ Tọ ngồi hầu lễ từ đầu. Mấy lần gieo quẻ không được cụ thấy hục hặc trong người, mồ hôi vã ra. Vì sao cụ tổ không ứng nhận? Có điều gì thất lễ hay đúng như linh cảm của cụ? Khi bức tượng được khai quang, mắt cụ như hoa lên. Cụ không thể tin nổi vào mắt mình! Mấy đời nhà cụ chân đất, áo vải, thật thà, chất phác, sao giờ lại nảy lòi ra thằng con xảo trá thế này. Chả trách thiên hạ tắc loạn bày trò xén xía bằng được chút đỉnh thơm của cha ông. Chỉ vì danh hão mà công kênh cha ông lên thành khanh hầu, bá tướng, núp vỏ đồng thau vô tri, vô giác…

Càng nghĩ, cụ Tọ càng căm lão Tráng. Sực nhớ miếng trầu vẫn để ngữ trong cạp quần, cụ liền lấy ra nhai lấy nhai để. Phải miếng trầu mặn vôi, càng nhai, càng hăng nồng lên, nước trầu ngận đặc rỉ đầy kẽ răng mà cụ không dám nhổ, đành nuốt vào, vừa mặn, vừa đắng. Rồi không biết cụ bị say miếng trầu hay bị cảm phong đột ngột mà người thổn thức bừng bừng, tim đập loạn xạ, mắt tối sầm, loạng choạng. Chưa đầy tích tắc, cụ đột ngột ngã xoài ra đất, mồm ú ớ. Vừa lúc dàn pháo bông được đốt lên. Rợp một góc trời miên man khói tỏa, hoa lượn, bướm bay, xanh xanh, đỏ đỏ. Tiếng kêu cứu của bà Hà bị át đi bởi tiếng la hú phấn khích, tiếng vỗ tay rào rào, tiếng pháo bông phụt xòe! Phụt xòe… tung tóe mãi không dứt.

TRỊNH MINH HIẾU


Sách tương tự