
Hồng Lâu Mộng
Tổng số chương: 120
Lời giới thiệu
rong lịch sử văn học Trung Quốc. Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt. Người Trung Hoa say mê đọc nó, bình luận về nó(1), sáng tác về nó đến nỗi nói: “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên!” (Mở miệng mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích!). Có một ngành học chuyên nghiên cứu về Hồng Lâu Mộng, gọi là Hồng học; gần đây nhất vẫn thấy Trung Quốc in chuyên san “Hồng Lâu Mộng nghiên cứu”. - Có lẽ trên thế giới chỉ có Shakespeare là có một vinh dự lớn lao như thế, vì có “Shakespeare học”. Cái gì làm người Trung Quốc say Hồng lâu mộng “như điếu đổ” vậy? Trước hết, đó là do tác phẩm đáp ứng những nhu cầu sâu xa của thời đại. Thời nhà Thanh, dưới thời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long (1723 - 1795) là thời kinh tế phồn vinh, chẳng những công nghiệp, thủ công nghiệp, mà cả khai thác mỏ, thương nghiệp...cũng phát triển mạnh mẽ. Các thành thị lớn như Nam Kinh, Dương Châu, Võ Xương, Nhạc Châu... buôn bán, sản xuất sầm uất là những đô thị lớn. Chỉ kể một thị trấn như Thanh Giang bên bờ Vận Hà thôi mà thời đó đã có hơn nửa triệu dân! Nền kinh tế tự phát tư bản chủ nghĩa đó trong lòng xã hội phong kiến chuyên chế mọt ruỗng và đang trên đà tan rã, đã đẻ ra một tầng lớp người thành thị, những người này có những nhu cầu thẩm mỹ mới. Tây Sương Ký, Mẫu đơn đình, Cổ kim tiểu thuyết, Liêu Trai... là những tác phẩm tả tình yêu, những số phận, những buồn vui cá nhân..., chính là sự “thăng hoa” của cuộc sống đã bắt đầu khác trước về chất của người thành thị. Hồng lâu mộng là sự thể hiện những tư tưởng của thời đại: tinh thần dân chủ, tinh thần phê phán đời sống xã hội phong kiến mục nát, phê phán những giáo điều truyền thống đã ăn sâu bén rễ hàng ngàn năm, đòi tự do yêu đương, giải phóng cá tính, đòi tự do bình đẳng, khát khao một lý tưởng cho cuộc sống...Tất cả những cái đó có những mặt kế thừa tư tưởng dân chủ thời Minh và đầu Thanh, nhưng nó chính là sản phẩm của ý thức tư tưởng thị dân đương thời. Giữa những khát vọng sâu xa ấy của con người thời đại và sự biểu hiện nó ra một cách nghệ thuật, đã có một cuộc hẹn hò tuyệt diệu qua Hồng Lâu Mộng.
o0o
Tác giả chính của Hồng Lâu Mộng, Tào Tuyết Cần 1716(?) - 1763(?) giống như phần lớn các nhà văn lớn Trung Hoa trong lịch sử, viết văn là để giải tỏa nỗi niềm “cô phẫn”, là để ký thác những suy tư về con người và thời đại. Ông vốn sinh ra trong một gia đình đại quý tộc. Từ đời tằng tổ đến đời cha, thay nhau tập chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào, đủ biết sự sủng ái của nhà vua với gia đình ông ra sao! Và cũng có thể đoán biết cuộc sống trong phú Giang hồi đó xa hoa, vương giá như thế nào! Trong Hồng Lâu Mộng, Nguyên phi về thăm nhà có một buổi mà nhái xây cất bao nhiêu đình tạ trong vườn Đại quan, nữa là hoàng đế tuần du ngự đến nhà.Nhà ông chăng những là hào môn vọng tộc hiển hách như thế, lại còn có truyền thống văn chương. Ông nội ông, Tào Dần, đứng in bộ "Toàn Đường Thi trứ danh, và là một nhà thơ, tác giả "Luyện đình thi sao”. Nhưng cuộc sống vàng son đó của gia đình ông đã trôi qua, đã tan vỡ. Lúc Tào Tuyết Cần lớn lên thì tất cả đã ở đằng sau rồi: cha bị khép tội, bị cách chức, bị tịch biên gia sán, nhà họ Tào suy sụp và ông phải về sống ờ vùng ngoại ô phía tây thành Bắc Kinh trong cảnh: “cả nhà rau cháo, ruợu thường mua chịu”. Hồng Lâu Mộng do đó có thể xem là phản quang những hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ đó. Một mặt, đó là sự nhớ tiếc khôn nguôi những huy hoàng của vàng son lộng lẫy, cảm thấy tất cả nhuốm màu thê lương, hư vô, tất cả đều xê dịch về phía bế tắc, hủy diệt, tất cả đều đáng ân hận, và chỉ có thể cứu chuộc bằng Hư Vô, bằng siêu hình, bằng tôn giáo! Nhưng mặt khác, từ trong cuộc sống nghèo khó hôm nay, quay đầu nhìn lại thì cái khoảng cách lớn lao đó làm cho ông thấy được rõ hơn, khách quan hơn, bình tĩnh hơn những gì ông đã thấy, đã nếm trái về cuộc sống thối nát của giai cấp quý tộc và sự miêu tả khách quan "những quan hệ hiện thực” này làm ông trở thành một nhà hiện thực. Chí ít thì về mặt đó, ông đã lay chuyến được "niềm lạc quan về cái trật tự hiện tồn", và như thế, ông là sản phẩm của một thời đại, đồng thời đã nhìn xa hơn thời đại. Tào Tuyết Cần đề 10 năng dế viết 80 hồi đầu, Hồng Lâu Mộng: “Xem ra chữ toàn bằng huyết, cay đắng mười năm khéo lạ lùng”; năm lần sửa chửa, trong cảnh cùng khốn, ốm đau không tiền chạy thuốc, trong cánh đứa con yếu của ông chết. Và ông đã lìa đời trong cảnh đau khố dồn dập đó. Bình sinh, ông vẽ giỏi, hay thơ, thích rượu, cuồng phong. Người ta chỉ biết được về ông có thế thôi! Hai mươi tám năm sau khi ông mất, Cao Ngạc viết tiếp 40 hồi, đến khoáng 1792 - 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp trung Quốc. Những hồi Cao Ngạc viết tiếp thì không thể hay bằng những hồi Tào Tuyết Cần viết, nhưng cũng phải nói là Cao Ngạc đã sống với tác phẩm và tri âm tác giả, nên đã hoàn thành dự định của Tào Tuyết Cần và nối tiếp bút lực của người đi trước, hoàn thành và bộc lộ trọn vẹn tư tưởng của tác phẩm, khiến cho tác phẩm vẫn giữ được vẻ hấp dẫn mãnh liệt.(2)
BI KỊCH TÌNH YÊU VÀ Ý NGHĨA TÌNH YÊU TRONG HỒNG LÂU MỘNG
Câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc xuyên suốt qua toàn bộ tác phẩm, làm nên chủ đề chính của cuốn tiểu thuyết vĩ đại này. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, hai anh em cô cậu ruột, cùng ở chung một nhà từ bé; lớn lên, vì Bảo Ngọc được bà nội nuông chiều, riêng cho ở trong vườn Đại quan cùng với đám “quần thoa”, nên anh ta và Đại Ngọc gần gũi nhau. Nhưng đây không phải là câu chuyện “lửa gần rơm...”. Đây cũng không phải chỉ là câu chuyện “tài tử giai nhân là nợ sẵn”. Tình yêu của họ còn có nguyên cớ sâu xa hơn nhiều; họ nói như Saint Exupéry: “Yêu nhau không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng”, nghĩa là họ “đồng điệu”, “tri âm” lẫn nhau trên những vấn đề có ý nghĩa cuộc sống. Nói cho đúng, lúc đầu Bảo Ngọc cũng còn có chút phân vân. Anh ta sống giữa đám a hoàn nhan sắc, những Tập nhân, Tình văn... những người này là những phụ nữ xuất thân từ tầng lớp dưới, được họ Giả mua về hầu hạ, nhưng đó là những người có tình, có phẩm chất tốt đẹp. Họ chính là mót bức màn ngăn bụi trần của phủ Vinh quốc đầy dẫy những hạng đàn ông ô trọc. Bảo Ngọc cảm nhận được thực chất vị tha, quên mình đầy dịu dàng của họ, anh ta như một người được vây bọc bởi sự tận tụy, thương yêu... của những nữ tỳ - đồng thời cũng là “nữ thần” này. Do đó không lạ gì mà Bảo Ngọc đã nêu lên cái “nguyên lý nữ tính” rất xa lạ với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của xã hội phong kiến: “Xương thịt con gái là nước kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi nhẹ nhàng, khoan khoái, thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bấn”. Trong phủ Giả lúc đó còn có cô em họ Tiết Bảo Thoa ở nhờ. Bảo Thoa đẹp, đức hạnh, nết na theo đúng nếp nhà phong kiến. Bảo Ngọc cũng mến Bảo Thoa, gần nàng, anh chàng đôi lúc cũng thấy xiêu xiêu, quả có như lời Lâm Đại Ngọc “gần cô chị thì quên khuấy cô em”! Nhưng rồi dần dần, Bảo Ngọc chỉ yêu có Đại Ngọc thôi. Đại Ngọc kiều diễm, yếu đuối, là một tâm hồn dễ cám xúc, một tâm hồn nhạy cảm và phong phú - đó là một tâm hồn thơ đích thực; và đó là điều mà họ gặp nhau. Quan trọng hơn, là trong khi cả nhà chờ mong Bảo Ngọc học giỏi thi đỗ, làm quan giữ nếp nhà…, thì Bảo Ngọc lại chán ngấy cái con đường mòn nhàm chán đó, và người hiểu anh duy nhất là Đại Ngọc. Bảo Ngọc, chàng trai được nhốt trong cái lồng kính quý tộc đầy cao lương gấm vóc, anh ta được người ta dùng gia giáo, thi giáo, lễ pháp... để ràng buộc theo con đuờng vạch sẵn. Giả Bảo Ngọc bị mất tự do, và anh ta cảm thấy sâu sắc điều đó, nên lúc nào anh ta cũng vùng vẫy tìm lối thoát, tìm cách phán kháng lại. Như một con chim khao khát trời xanh rộng lớn bị nhốt vào cái lồng vàng chật hẹp, Giả Bảo Ngọc sống không yên ổn. Anh lục lọi sách vở, đi vào triết học cổ, đi vào “tham thiền ngộ đạo” …nhưng những cái đó không cung cấp được cho anh một vũ khí tư tưởng nào để tự giải phóng! Mà thực ra, thì anh cũng lẩn quẩn, loanh quanh; anh ta là một sản phẩm đầy mâu thuẫn của một xã hội cũng đang chứa đầy mâu thuẫn, một xã hội đang tìm lối ra nhưng không có lối ra. Rốt cuộc, anh ta tỏ thái độ hoài nghi những gì “thánh hiền” đã viết, đã soạn, cho đó là “soạn bậy”, là “bịa”, là “nói tầm bậy”. Đối với đạo đức phong kiến mà cái cao nhất là “tôi trung con hiếu”, “sát thân thành nhân”, anh ta dám nói những lời “cách mệnh”: “Nhũng bọn mày râu dơ bẩn, chỉ biết “quan văn chết vì lời can gián, quan võ chết vì đánh giặc”, là hai cái chết của kẻ đại trượng phu, thành ra chỉ làm rối lên, nào có biết đâu có vua ngu mới có bầy tôi chết vì lời can gián; chỉ lo ra công đánh giặc, liều mình hy sinh, tương lai sẽ bỏ nước cho ai. Thật là lời lẽ của ké “đại nghịch vô đạo”. Tất nhiên, nói cho công bằng, đó là một đôi ý nghĩ đột xuất của anh chàng này, còn như bình thường, anh ta vẫn phải nép mình trong lồng cũi tuân phục “di huấn thánh nhân”. Trong hoàn cánh đó, Lâm Đại Ngọc đã đến. Họ đã đến với nhau không dễ dàng. Đại Ngọc vì gia cảnh đến ở nhờ trong phủ họ Giả, tuy là cháu ngoại đấy, nhưng vẫn bị Giá mẫu xem là “người ngoài”: “nữ nhân ngoại tộc”. Cái mặc cảm “ăn bám ở nhờ” luôn luôn làm nàng đau khổ - nàng vốn là người nhiều tự ái là người nhạy cảm, khó hòa hợp với chung quanh và do đó cô đơn. Tình cảnh của nàng còn bi đát hơn Bảo Ngọc nhiều, vì nàng là con gái, là phận ở nhờ, mà trong cái xã hội ghê khiếp ấy, thì nàng chẳng là cái gì cả, nàng chỉ là một cánh bèo dạt, một cánh hoa rơi! Cho nên nàng thương hoa, khóc hoa, chôn hoa, cho nên nàng luôn buồn thương vô hạn. Tâm hồn nàng như một sợi tơ đàn mảnh mai, bất kể một giọt mưa thu hay tơ liễu bay đều âm vang một điệu buồn đứt ruột! Cái yếu đuối, cái “đa sầu đa cảm” của nàng cũng là một nét tính cách riêng nhưng xuất phát từ những điều kiện của thời đại. Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc đã đến với nhau như thế và đã đến với nhau rồi, hiểu lòng nhau rồi, họ vẫn sống những ngày tháng không yên. Trong tình yêu này, họ chưa được hưởng bao nhiêu hạnh phúc; chưa nếm mật ngọt tình yêu, họ đã linh cảm thấy mật đắng của đời! Họ luôn luôn bị bủa vây trong trùng điệp của mạng lưới phong kiến. Họ không phải là người quyết định được tình yêu của mình. Cuối cùng, Giả mẫu và bọn phu nhân trong phu họ Giả đã quyết định! Họ đã chọn Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Và một khi đã chọn, họ đã nhẫn tâm theo kế “đánh tráo” của Phượng Thư. Bảo Ngọc cứ yên trí là “cưới em Lâm”, hóa ra lúc giở khăn che mặt, lại là Bảo Thoa; Bảo Ngọc lúc bấy giờ mới bật ngửa, mà Lâm Đại Ngọc thì sau cơn ốm nặng, đã chết trong niềm đau đớn, oán hận bằng đốt thơ, đốt khăn tặng trong lúc cả nhà mừng đám cuởí của người mình yêu! Kết thúc tấn bi kịch này, Bảo Ngọc trốn nhà đi tu; và Bảo Thoa làm một người góa phụ trẻ đau khổ.
THI PHÁP NHÂN VẬT HỒNG LÂU MỘNG
Hồng Lâu Mộng không những đã đưa lại một nội dung mới mang ý nghĩa thời đại; nó còn làm được một việc vĩ đại nữa là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng Lâu Mộng ra đời, tư tưởng và cách viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Tiểu thuyết Trung Quốc trước đây, chủ yếu là tiểu thuyết chương hồi như Tam quốc, Thủy hử, Tây du... thiên về mô tả hành động, miêu tả hoạt động bên ngoài và lời nói của nhân vật. Con người trong những tiểu thuyết đó, sản phẩm của một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất phương thức sản xuất châu á, có bề giản đơn, nhất quán trong một tính cách, rạch ròi trung, nịnh đôi đường. Những truyện ngắn “truyền kỳ”, những truyện ngắn trong Liêu Trai đã bắt đầu thấm đẫm màu sắc con người thị dân với những khát vọng nồng nhiệt hơn, phức tạp hơn nhưng vẫn chứa có một thi pháp tiểu thuyết thực sự phản ánh một cách nhìn mới về con người. Hồng Lâu Mộng đã làm được việc đó. Dĩ nhiên là trong những hạn chế gay gắt của thời đại. Dù cho có những nhân tố tư bản chủ nghĩa, nhân tố kinh tề hàng hóa, thị trường, thành phố, thị dân... xã hội Trung Quốc vẫn là xã hội phong kiến, và cái con người “mới” mà người ta chờ đợi đó đã xuất hiện chưa hoàn chỉnh; thi pháp tiểu thuyết trong Hồng Lâu Mộng đã mang một số nhân tố mới của tiểu thuyết cận đại phương Tây, nhưng nó không thể đi xa hơn nũa. Nó vẫn còn bị giam mình trong cái khung tiểu thuyết chương hồi truyền thống, lấy “kể việc” làm phương tiện chủ yếu khám phá của con người. Nhưng, xét cho kỹ thì phải ghi nhận những yếu tố mới ở Hồng Lâu Mộng là rất có ý nghĩa. Trước hết, đó là cách nhìn con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn, sự phát triển biện chứng, có chiều sâu đầy kịch tính. Số phận và tính cách của Bảo Ngọc đã được tác giả miêu tả không đơn giản. Đó là mâu thuẫn gĩưa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu như chính sinh mệnh của anh ta và lạ thay, anh ta hầu như chẳng làm được gì, chẳng chiến đấu dũng manh gì để đoạt lấy hạnh phúc! Mọi việc gần như đã phó mặc! Trước khi chết, Lâm Đại Ngọc oán giận, đau buồn đốt khăn tặng, đốt tập thơ..., không phải là không có lý! Anh ta chưa bao giờ xứng đáng là một trang “tu mi nam tử” có lý tưởng, kiên định! Vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, anh ta sinh ra đau thần kinh, mắc chứng “ngây”, cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp “đi tu” - phản ánh sự từ chối, sự phản kháng dầu yếu ớt - đã được anh ta chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia dình, rồi bó trốn đi tu, Bảo Ngọc đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lý và quả là qua số phận anh ta, như một số nhà nghiên cứu nhận định, có sự gởi gắm, có sự thể hiện một phần nào bản thân tác giả. Đó đúng là một số phận tiểu thuyết theo ý nghĩa hiện đại của từ này. Lâm Đại Ngọc là một tính cách thú vị khác. Nàng yêu Bảo Ngọc, nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt... “Bảo Ngọc cười nói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước nghiêng thành.(3) Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại mà không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Bảo Ngọc: - Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem nhũng lời lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. (tập I) Điều đó làm cho nàng trở nên đáng yêu và tội nghiệp, làm cho nàng trở nên nhiều nữ tính hơn. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lý đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác. Phút cuối cùng nàng nghe nói Bảo Ngọc sắp lấy vợ, và người được chọn sẽ là người trong phủ, nàng chắc mẫm người đó sẽ là mình, chứa chan hy vọng, và từ đau buồn tuyệt vọng, trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp... Ai hay đó là phút nàng ở gần sự kết thúc nhất. Những cảnh như vậy làm cho nhân vật thực, gần gũi, phong phú, hấp dẫn.... và về mặt soi rọi tâm lý nhân vật, đã đạt đến trình độ của nhân vật tiểu thuyết hiện đại. Hồng Lâu Mộng có tất cá 235 nhân vật đàn ông, 213 nhân vật dàn bà (một khối lượng nhân vật khổng lồ! – trong Chiến tranh và hòa bình có chừng 500 nhân vật). Làm chủ chừng ấy nhân vật, miêu tả, cá tính hóa họ một cách có hiệu quả là một sáng tạo phi thường. Trong số đó, nổi bật lên sự mô tả và xây dựng nhân vật Tiết Bảo Thoa. Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc; chính những nhân vật trong Hồng Lâu Mộng đã phát triển trong sự đối nghịch như vậy, làm cho cuốn tiểu thuyết có nhiều gương mặt, nhiều hợp âm. Tiết Bảo Thoa là một nhân vật phụ nữ lý tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lý, lô-gích, nàng là hiện thân của nguyên lý đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định người khác - và ý định đó luôn được nàng chấp nhận vì đó cũng chính là của nàng. Sự hòa hợp giữa nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Nàng là người có học, xem nhiều sách, biết làm thơ, nhưng hãy nghe nàng tâm sự (cũng là răn đe Đại Ngọc): “Bọn con gái chúng ta không biết chữ càng tốt... Ngay đến cả việc làm thơ, viết chữ đã không phải là phận sự chị em mình, mà cũng không phải phận sự của bọn con trai nữa. Người con trai đọc sách nhiều phải hiểu nghĩa lý để ra giúp dân trị nước mới đúng...”(tập III). Với Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng nàng theo sự sắp đặt của bề trên, lấy Bảo Ngọc không một chút tự ái; nàng làm bổn phận của người vợ, khuyên giải chồng, “lý sự” với chồng: “... chứ bây giờ gặp đến vua thánh, nhà ta mấy đời đội ơn triều đình, cha ông được hưởng biết bao sung sướng...”(tập IV). Nếu nói “bản chất” và “bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Nàng có ác không? Có. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”. Nàng có giả dối không? Có. Nàng đã bày kế “ve sầu lột xác” để đánh lừa bọn con hầu, tránh điều bất lợi cho mình. Bảo Thoa lúc nào cũng tỉnh táo, cũng lắm mẹo! Nhưng nàng có đáng thương không? Nàng ít nhiều cũng yêu Giả Bảo Ngọc mà tự kiềm chế, và cuối cùng, với tất cả sức lực và nghị lực, với tất cả sự chân tình, nàng muốn có hạnh phúc trong cuộc sống phong kiến với Bảo Ngọc, nhưng rốt cuộc nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến. Gần với tính cách của Tiết Bảo Thoa là Vương Hy Phượng. Đó cũng là một nhân vật nữ hết sức đặc sắc nữa. Những nhân vật như thế làm chúng ta nhớ nhiều đến Hoạn Thư của Nguyễn Du. Đó là sự miêu tả trung thành với bản chất củaa hiện thực, bản chất của những mối quan hệ phong kiến, đồng thời nó là một sự cá tính hóa hết sức sâu sắc. Ngoài ra con biết bao nhiêu nhân vật đáng lưu ý nữa trong cái thế giới bao la của Hồng Lâu Mộng. Dường như đó là cả một nhân loại: trong đó có hàng trăm số phận, và mỗi số phận đưa đến cho chúng ta một mảnh đời, một suy nghĩ về nhân thế. Nhà lý luận tiểu thuyết nổi tiếng Bakhtin có nói rằng nhân vật tiểu thuyết phải có phần “dư thừa nhân tính”. Có nghĩa là nhân vật, ngoài vai trò xã hội (đẳng cấp, nghề nghiệp) phải có cái phần dư thừa nhân tính, cái phần nhu cầu nhân tính, cái phần cá tính tự do mà tấm áo xã hội không chứa đựng hết. Nhân vật của Hồng Lâu Mộng vừa là giai cấp xã hội vừa là những nhân vật mang tính người, tính toàn nhân loại, ở trong họ có cái phần “người” và những nhân vật như vậy bao giờ cũng là một phát hiện, có sức hấp dẫn rất mạnh. ° Hồng Lâu Mộng là cả một thế giới. Thông qua cuộc sống từ thịnh đến suy của một gia đình quý tộc, tác giả đã làm hiển hiện sự băng hoại của xã hội phong kiến, của nhân tính phong kiến, đã cho ta thấy một xã hội như thế là không phương cứu chữa! Không phải chỉ vì bọn người ấy sống trên áp bức và bóc lột địa tô, mà cái chính là cuộc sống trống rỗng của bọn họ; ngày và đêm trong cái phủ họ Giả ấy chỉ toàn là những chuyện giành giật, lừa gạt, dâm dật, tự tử, tội ác... Một vài khuôn mặt lương thiện - trong đó khá nhiều là thuộc tầng lớp dưới, như già Lưu, như Tập Nhân... không cứu nỗi sự sụp đỗ tất yếu của nó. Hồng Lâu Mộng đã đưa đến cho người đọc những hiểu biết sâu xa về xã hội và về con người với một cách viết chân thực, giản dị mà bao gồm nhiều bút pháp lớn kim cổ. Nó là một cuốn bách khoa sinh động về xã hội Trung Quốc thời xưa. Về mặt thi pháp nghệ thuật, thì đó là một bước tiến mới trong nghệ thuật tiểu thuyết của thế giới. Hồng Lâu Mộng xứng đáng đứng ngang với các kiệt tác của nhân loại.
25- 10 - 1988
Mai Quốc Liên.
------------------------------------------------------
(1). Theo thống kê có đến 900 loại.
(2). Cao Ngạc (? -?) tự Lan Thự, tác giả 40 hồi sau Hồng Lâu Mộng và Lan Thu thi sao, Lan Thự văn tồn, Nghiễn hương từ... tự Vân Sĩ, biệt hiệu Hồng Lâu ngoại sĩ (Hồng Lâu Mộng vốn tên Thạch đầu ký. Có lẽ Cao Ngạc là người đặt tên nó là Hồng Lâu Mộng). Làm quan dưới triều Kiền Long, Gia Khánh, trải các chức Nội các thị tộc, Hình khoa cấp sự trung, Nhập tịch Mãn Thanh (Kỳ quán “nhương hoàng” - màu vàng pha).
(3). Dùng chữ trong Tây sương ký.
Tài liệu tham khảo chính:
- Lịch Sử Văn học Trung Quốc (Nguyên - Minh - Thanh). Sở nghiên cứu Văn học thuộc Viện Khoa Học Trung Quốc, Bắc Kinh, 1962. Bản dịch Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1964.
- Bùi Kỷ; Lời giới thiệu, Hồng lâu mộng tập 1. Nhà xuất bản Văn hóa. Hà Nội, 1962.
- Tào Tuyết Cần dữ Hồng lâu mộng. Hồng lâu mộng, quyển thượng. Thế giới thư cục, Singapore, 1973.
Đánh máy: Tiểu Hồ Tiên, Thất Sơn Anh Hùng, Mickey Được bạn: mickey đưa lên vào ngày: 5 tháng 2 năm 2004
Danh sách chương
- Lời giới thiệu
- Hồi thứ nhất Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng;-Giả Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp.
- Hồi thứ hai Giả phu nhân tạ thế ở thành Dương Châu-Lãnh Tử Hưng kể chuyện trong phủ Vinh Quốc
- Hồi thứ ba Nhờ anh vợ, Như Hải đền được ơn dạy bảo-Đón cháu ngoại, Giả mẫu xót thương trẻ mồ côi.
- Hồi thứ tư Gái bạc mệnh gặp trai bạc mệnh;-Sư Hồ lô xử án Hồ lô.
- Hồi thứ năm(1) Chơi cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê;-Uống rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc.
- Hồi thứ sáu Giả Bảo Ngọc mới thử cuộc mây mưa-Lưu lão lão đến thăm phủ Vinh quốc
- Hồi thứ bảy Đem biếu cung hoa, Giả Liễn đùa Hy Phượng-Ăn yến Ninh phủ, Bảo Ngọc gặp Tần Chung
- Hồi thứ tám So ngọc thông linh Kim Oanh hơi ngỏ ý-Thăm dò cô Bảo, Đại Ngọc nếm phải chua
- Hồi thứ chín Quen nết phong lưu, bạn đa tình cùng vào trường học-Gây chuyện ngờ vực, tên ngoan đồng làm nhộn thư đường
- Hồi thứ mười Kim quả phụ tham lợi chịu nhẫn nhục-Trương thái y xem bệnh nói gốc nguồn
- Hồi thứ mười một Mừng sinh nhật, phủ Ninh bày tiệc linh đình;-Gặp Hy Phượng, Giả Thụy động lòng dâm dục.
- Hồi thứ mười hai Vương Hy Phượng độc ác, bày cuộc tương tư;-Giả Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt.
- Hồi thứ mười ba Tần Khả Khanh chết được phong long cẩm túy;-Vương Hy Phượng sang giúp việc bên phủ Ninh.
- Hồi thứ mười bốn Lâm Như Hải từ trần ở thành Dương Châu;-Giả Bảo Ngọc giữa đường chào vua Bắc Tĩnh.
- Hồi thứ mười lăm Vương Phượng Thư lộng quyền ở chùa Thiết Hạm;-Tần Kình Khanh gặp gái trong am Mạn Đầu.
- Hồi thứ mười sáu Giả Nguyên Xuân có tài, được tuyển vào cung Phượng Tảo; -Tần Kình Khanh còn trẻ, đã thác xuống cõi Hoàng Tuyền. -
- Hồi thứ mười bảy và mười tám Đề câu đối trong vườn Đại Quan, thử tài Bảo Ngọc-Về thăm nhà ở phủ Vinh Quốc, gặp tiết nguyên tiêu
- Hồi thứ mười chín Tình đằm thắm đêm khuya hoa biết nói-Ý triền miên ngày vắng ngọc thêm hương
- Hồi thứ hai mươi Phượng Thư thẳng thắn dẹp hẳn thói ghen tuông-Đại Ngọc tinh ranh nói những câu bỡn cợt
- Hồi thứ hai mươi mốt Giả cách giận hờn, Tập Nhân răn Bảo Ngọc;-Trả lời khôn khéo, Bình Nhi cứu Giả Liễn.
- Hồi thứ hai mươi hai Nghe câu hát, Bảo Ngọc hiểu đạo thiền;-Đánh đố thơ, Giả Chính lo lời sấm.
- Hồi thứ hai mươi ba Mượn câu văn Tây Sương ký, giở giọng giỡn đùa;-Nghe khúc hát Mẫu đơn đình, chạnh lòng hờn tủi.
- Hồi thứ hai mươi bốn Kim Cương say rượu, tính hào hiệp tiền bạc coi khinh;-Cô gái si tình, rơi khăn lụa mơ màng nhớ bạn.
- Hồi thứ hai mươi lăm Mắc phải thuật năm con quỷ, chị em hóa điên rồ;-Nhờ được phép hai vị tiên, ngọc thiêng hết mờ ám.
- Hồi thứ hai mươi sáu Cầu Phong Yêu, nói lóng đưa tình kín,-Quán Tiêu Tương xuân buồn tỏ nỗi riêng.
- Hồi thứ hai mươi bảy Đình Trích Thúy, Dương Phi đùa bướm trắng;-Mộ Mai Hương, Phi Yến khóc hoa tàn.
- Hồi thứ hai mươi tám Ngọc Hàm tặng thắt lưng, gợi được mối tình;-Bảo Thoa cởi chuỗi thơm, lộ ra vẻ thẹn.
- Hồi thứ hai mươi chín Người hưởng phúc, phúc nhiều, còn cầu xin thêm phúc,-Gái si tình, tình nặng, càng luẩn quẩn vì tình.
- Hồi thứ ba mươi Bảo Thoa mượn cái quạt, nói cạnh cả hai bên;-Linh Quan vạch chữ
- Hồi thứ ba mươi mốt Xé tan cái quạt, nghìn vàng mua lấy một trận cười-Điềm ứng kỳ lân, hai sao(1) gặp nhau khi đầu bạc
- Hồi thứ ba mươi hai Giải bày hết tâm can, Bảo Ngọc đâm ra mê mẩn-Không chịu được sỉ nhục, Kim Xuyến đành phải liều thân
- Hồi thứ ba mươi ba Coi anh như thù, giọng lưỡi ton hót-Đẻ con bất hiếu, roi vọt dập vùi-
- Hồi thứ ba mươi bốn Mối tình ngồn ngang, thấy tình cô em càng thêm thấm thía-Lỗi lầm chồng chất, lấy lầm khuyên anh xiết nỗi buồn rầu
- Hồi thứ ba mươi lăm Ngọc Xuyến được nếm canh lá sen-Oanh Nhi khéo tết dây hoa mai-
- Hồi thứ ba mươi sáu Thêu bức uyên ương, hiên Giáng Vân mộng lành báo trước-Ngẫm đường tình phận, viện Lê Hương duyên đẹp định rồi
- Hồi thứ ba mươi bảy Thu Sảng trai, định mở Xã hải đường-Hành Vu uyển, đêm nghĩ bài hoa cúc
- Hồi thứ ba mươi tám Lâm Tiêu Tương đứng đầu những thơ ngâm cúc-Tiết Hành Vu mỉa đời trong bài vịnh cua-
- Hồi thứ ba mươi chín Già nhà quê hay nói huênh hoang-Cậu có tình cứ tìm ngành ngọn
- Hồi thứ bốn mươi Vườn Đại Quan, Sử thái quân hai lần mở tiệc-Gieo súc sắc, Kim Uyên Ương ra lệnh đố thơ
- Hồi thứ bốn mươi mốt Am Lương Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon-Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ
- Hồi thứ bốn mươi hai Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết-Thêm vui chuyện, Đại Ngọc nói ý xa xôi
- Hồi thứ bốn mươi ba Ngồi rỗi bày trò, góp tiền ăn sinh nhật-Mối tình không dứt, vốc đất viếng oan hồn
- Hồi thứ bốn mươi bốn Chuyện xảy bất ngờ, Phượng Thư đâm ghen-Mừng ngoài tưởng tượng, Bình Nhi trang điểm
- Hồi thứ bốn mươi lăm Bạn kim lan ngỏ chuyện kim lan-Đêm mưa gió ngâm bài mưa gió
- Hồi thứ bốn mươi sáu Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh-Gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương
- Hồi thứ bốn mươi bảy Tiết Bàn đa tình bị đánh-Tương Liên sợ tội trốn đi
- Hồi thứ bốn mươi tám Dùng bậy chữ tình, nhầm về tình, chàng đi buôn bán-Mến yêu gái nhã, gặp cuộc nhã, nàng mải ngâm thơ
- Hồi bốn mươi chín Cõi lưu ly mai hồng tuyết trắng;-Gái son phấn, ăn sống nuốt tanh.
- Hồi thứ năm mươi Am Lư Tuyết nối nhau thơ tức cảnh;-Ổ Noãn Hương khéo đặt câu đố đèn.
- Hồi thứ năm mươi mốt Cô em họ Tiết làm thơ hoài cổ;-Lang băm họ Hồ dùng thuốc hổ lang.
- Hồi thứ năm mươi hai Bình Nhi cố tình giấu việc mất vòng ngọc;-Tình Văn đương ốm, vùng dậy vá áo cừu
- Hồi thứ năm mươi ba Đêm trừ tịch, phủ Ninh tế tổ tiên;-Tối nguyên tiêu, phủ Vinh mở yến tiệc.
- Hồi thứ năm mươi bốn Sử Thái Quân bỏ lối chuyện sáo ngày xưa;-Vương Hy Phượng học đòi áo hoa múa hát.
- Hồi thứ năm mươi lăm Mắng con gái mình, dì Triệu tức nhảm;-Khinh cô chủ bé, mụ Ngô ác ngầm.
- Hồi thứ năm mươi sáu Thám Xuân thông thạo, tìm mối lợi bỏ hẳn lệ xưa;-Bảo Thoa khôn ngoan, ra ơn nhỏ giữ gìn thể thống.
- Hồi thứ năm mươi bảy Tử Quyên khôn ngoan, đặt chuyện thử lòng cậu Bảo;-Tiết Di hiền hậu, đem lời an ủi cô Lâm.
- Hồi thứ năm mươi tám Dưới bóng hạnh, phượng giả khóc hão huyền;-Bên cửa the, tình thật nghĩ vơ vẩn.
- Hồi thứ năm mươi chín Bến Liễu Diệp, tủi phận yến oanh;-Hiên Giáng Vân nhở tay ấn quyết.
- Hồi thứ sáu mươi Đem phấn mạt ly thay cho bột tường vi;-Biếu mai quế lộ lòi ra bột phục linh.
- Hồi thứ sáu mươi mốt Ném chuột sợ vỡ đồ, Bảo Ngọc đành phải nhận lỗi;-Xét việc thấy oan uổng, Bình Nhi khéo tòng quyền.
- Hồi thứ sáu mươi hai Tương Vân ngây thơ, ngủ trên hoa thược dược;-Hương Lăng trơ trẽn, cởi tấm quần hồng lăng.
- Hồi thứ sáu mươi ba Viện Di Hồng chị em mở tiệc;-Nuốt kim đan, Giả Kính chết oan.
- Hồi thứ sáu mươi tư Gái buồn rầu đề thơ ngũ mỹ;-Trai lẳng lơ tặng ngọc cửu long.
- Hồi thứ sáu mươi lăm Giả Liễn vụng trộm cưới dì Hai;-Dì Ba quyết lòng lấy chàng Liễu.
- Hồi thứ sáu mươi sáu Cô bé đa tình, hổ vì tình về nơi địa phủ;-Chàng Hai lạnh nhạt, khi quá lạnh vào chốn không môn.
- Hồi thứ sáu mươi bảy Thấy đồ thổ nghi, Đại Ngọc nhớ quê cũ;-Nghe việc bí mật, Phượng Thư hỏi người hầu
- Hồi thứ sáu mươi tám Dì Vưu khổ sở, bi lừa vào vườn Đại Quan;-Chị Phượng ghen tuông, làm nhộn ở phủ Ninh Quốc.
- Hồi thứ sáu mươi chín Giở lối khôn vặt, mượn gươm giết người;-Biết gặp hạn đen, nuốt vàng thoát kiếp .
- Hồi thứ bảy mươi Lâm Đại Ngọc mở thi xã Đào Hoa;-Sử Tương Vân điền tiểu từ Liễu Nhứ.
- Hồi thứ bảy mươi mốt Người hiềm khích cố ý gây hiềm khích;-Gái Uyên Ương vô tình gặp Uyên Ương.
- Hồi thứ bảy mươi hai Cậy mình khỏe, Vượng Phượng Thư kiêng nói ốm;-Ỷ thần thế, vợ Lai Vượng cố ép duyên.
- Hồi thứ bảy mươi ba A hoàn ngơ ngẩn, nhặt nhầm túi xuân tình;-Tiểu thư ươn hèn, bỏ lơ dây kim phượng.
- Hồi thứ bảy mươi tư Quá nghe gièm hót, khám xét vườn Đại Quan;-Thề giữ đoan nghiêm, rào lấp phủ Ninh Quốc.-
- Hồi thứ bảy mươi lăm Mở tiệc đêm khuya, điềm lạ vẳng nghe tiếng thảm;-Thưởng trăng tháng tám, lời nói thành câu sấm hay.-
- Hồi thứ bảy mươi sáu Nhà Đột Bích nghe sáo, cảm nỗi ưu sầu;-Quán Ao Tinh nối thơ, buồn đêm vắng lặng.-
- Hồi thứ bảy mươi bảy A hoàn đẹp, sớm chết oan vì tội phong lưu;-Con hát xinh, cắt tình duyên vào am Thủy Nguyệt.-
- Hồi thứ bảy mươi tám Họa sĩ già ra bài từ Quỷ hoạch;-Công tử ngốc làm văn tế phù dung.-
- Hồi thứ bảy mươi chín Rước lấy sư tử Hà Đông, Tiết Bàn hối hận;-Vớ phải giống sói Trung Sơn, Nghênh Xuân nhầm to.
- Hồi thứ tám mươi Gặp anh chồng phũ, Hương Lăng bi trận đòn oan;-Chữa đàn bà ghen, đạo sĩ kê bài thuốc nhảm.
- Hồi thứ tám mươi mốt Bốn chị câu cá chơi, xem ai tốt số;-Hai lần vào trường học, vâng theo lời cha.
- Hồi thứ tám mươi hai Lấy nghĩa sách giảng bày, cụ đồ già dạy răn chàng bướng;-Thấy ác mộng kinh khủng, gái Tiêu Tương hoảng sợ ngây hồn.
- Hồi thứ tám mươi ba Vào cung Vị, thăm Nguyên phi bị ốm;-Nhộn nhà cửa, làm Bảo Thoa nghẹn lời.
- Hồi thứ tám mươi tư Thử tài học, Bảo Ngọc được nhắc đến việc hôn nhân;-Thăm cháu ốm, Giả Hoàn càng gây thêm mối thù oán.
- Hồi thứ tám mươi lăm Giả Chính được thăng chức lang trung;-Tiết Bàn lại gây nên tù tội.
- Hồi thứ tám mươi sáu Ăn của đút, quan già thay án kiện;-Gửi tình riêng, gái trẻ giảng cầm thư.
- Hồi thứ tám mươi bảy Cảm thấy gió thu, gảy đàn buồn thương chuyện cũ;-Say ngồi nhập định, tà hỏa lẩn vào trong tim.
- Hồi thứ tám mươi tám Muốn bà vui, Bảo Ngọc khen cháu bé mồ côi;-Nghiêm phép nhà, Giả Trân đánh người hầu cứng cổ.
- Hồi thứ tám mươi chín Người đâu vật còn đây, công tử làm bài từ;-Bóng cung ngỡ là rắn, Tần Khanh đành tuyệt thực.
- Hồi thứ chín mươi Mất áo bông, gái nghèo ngấm ngầm bực bội ;-Đưa hoa quả, chú em nghĩ ngợi vẩn vơ.
- Hồi thứ chín mươi mốt Định thỏa lòng dâm, Bảo Thiềm bày mưu kế; -Bày ra nghi trận, Bảo Ngọc bàn đạo thiền. -
- Hồi thứ chín mươi hai Bàn chuyện gái hiền, Xảo Thư mến người trinh thục; -Xem hạt châu lớn, Giả Chính tính chuyện hợp tan.
- Hồi thứ chín mươi ba Người họ Chân đến nương nhờ họ Giả -Am Thủy Nguyệt vỡ lở án gió trăng. -
- Hồi thứ chín mươi bốn Giả mẫu bày tiệc, thưởng Hải Đường nở hoa ; -Bảo Ngọc mất ngọc, biết tai ương sắp đến.
- Hồi thứ chín mươi lăm Tin đồn không sai, Nguyên phi đã mất; -Giả thực lẫn lộn, Bảo Ngọc hoá ngây. -
- Hồi thứ chín mươi sáu Giấu hẳn tăm hơi Phượng Thư bày kế lạ;-Cơ mưu đã lộ, Đại Ngọc mất tính thường.
- Hồi thứ chín mươi bảy Đốt cảo thơ, Đại Ngọc dứt tình si;-Về nhà chồng, Bảo Thoa thành lễ lớn.
- Hồi thứ chín mươi tám Giáng Châu đau buồn, hồn về nơi ly hận;-Thần Anh mang bệnh, lệ tràn cõi tương tư.
- Hồi thứ chín mươi chín Giữ phép công bọn hầu ác cùng nhau phá lệ;-Xem tin báo ông cậu già đâm ra lo phiền
- Hồi thứ một trăm Làm hỏng mất dịp tốt, Hướng Lăng gây mối oán thù;-Thương em lấy chồng xa, Bảo Ngọc cảm tình ly biệt.
- Hồi thứ một trăm lẻ một Vườn Đại Quan đêm trăng rợn hồn ma-Chùa Tán Hoa quẻ thần ghê điềm lạ
- Hồi thứ một trăm lẻ hai Phủ Ninh Quốc, ruột thịt bị tai ương-Vườn Đại quan, phù thủy trừ yêu quái
- Hồi thứ một trăm lẻ ba Giở kế độc ác, Kim Quế tự giết mình-Không hiểu đạo thiền, Vũ Thôn gặp người cũ
- Hồi thứ một trăm lẻ bốn Kim cương say, cá nhỏ gây thành sóng lớn-Công tử ngốc, thương thừa nhớ lại tình xưa
- Hồi thứ một trăm lẻ năm Quân Cẩm y khám biên phủ Ninh quốc-Quan ngự sử tâu hặc châu Bình An
- Hồi thứ một trăm lẻ sáu Gây tai ương, Vương Hy Phượng xiết bao hổ thẹn-Tránh hoạ hoạn, Giả thái quân cầu khấn phật trời
- Hồi thứ một trăm lẻ bảy Cho của thừa, Giả mẫu hiểu nghĩa lớn-Phục chức cũ, Giả Chính đội ơn trời
- Hồi thứ một trăm lẻ tám Tiệc bày vui gượng, viện Hoành Vu mừng ngày sinh-Chết vẫn say đời, quán Tiêu Tương nghe quỉ khóc
- Hồi thứ một trăm lẻ chín Hồn thơm chờ đợi, con Nam may được yêu nhầm-Oan án trả xong, Nghênh Xuân trở về cõi lạc
- Hồi thứ một trăm mười Sử Thái quân tuổi già về nơi địa phủ-Vương Hy Phượng sức kiệt làm mất lòng người
- Hồi thứ một trăm mười một Gả Uyên Ương theo chủ lên chầu trời-Hầu chó lớn đem người về cướp của
- Hồi thứ một trăm mười hai Sống đầy oan nghiệt, Diệu Ngọc bị giặc cướp đi -Chết vì hiềm thù, dì Triệu sa xuống âm phủ
- Hồi thứ một trăm mười ba Ăn năn lỗi trước, Phượng Thư nhờ cậy già Lưu-Quên hẳn hiềm xưa, Tử Quyên cảm thương Bảo Ngọc
- Hồi thứ một trăm mười bốn Vương Hy Phượng trải qua cơn ảo nhớ lại Kim Lăng -Chân ứng Gia được đội ơn vua về chầu ngọc khuyết
- Hồi thứ một trăm mười lăm Tri lời thiên lệnh, Tích Xuân thề vẫn giữ chí xưa -Tên người dù giống nhau, Bảo Ngọc không coi là tri kỷ
- Hồi thứ một trăm mười sáu Được ngọc thiêng, nhận thấy duyên tiên nói ảo cảnh -Trọn đạo hiếu, đưa linh cữu mẹ về cố hương
- Hồi thứ một trăm mười bảy Ngăn việc tu hành, hai gái đẹp cố giữ viên ngọc-Thích họp bạn xấu, một con hư coi giữ việc nhà
- Hồi thứ một trăm mười tám Nhớ hiềm xưa ông cậu lừa gái nhỏ -Sợ nói nhảm, vợ hầu can chàng ngây
- Hồi thứ một trăm mười chín Dỗ hương khôi, Bảo Ngọc rũ sạch duyên trần -Đội ơn vua, họ Giả dồi dào hưởng phúc
- Hồi thứ một trăm hai mươi Chân Sinh ẩn kể rõ cảnh thái hư -Giả Vũ Thôn kết thúc Hồng lầu mộng