Khóc và cười

Khóc và cười

Tổng số chương: 1

Khóc và cười là hai hiện tượng tự nhiên của con người. Khi sinh ra, ai cũng khóc ( tiếng khóc chào đời), " Thoắt sinh ra thì đà khóc choé, Trần có vui sao chẳng cười khì? ".( Nguyễn Công Trứ ). Thông thường, vui thì cười, buồn thì khóc. Nhưng cũng có lúc " khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười ". Hoặc người con gái đi lấy chồng, đáng lẽ phải vui cười nhưng lại khóc: Khấp như thiếu nữ vu quy nhật, Tiếu tựa thư sinh lạc đệ thì." Hai câu này được cho là câu đối giữa Hồ Xuân Hương và Phạm Đình Hổ.

Cô gái trong thơ Nguyễn Bính cũng khóc như vậy:

Gái lớn ai không phải lấy chồng!

Can gì mà khóc, nín đi không!

Nín đi! mặc áo ra chào họ,

Rõ quý con tôi! Các chị trông!

Có bài thơ tiếng Anh của tác giả khuyết danh cũng nhắc đến hiện tượng này.

CRYING AND SMILING

When you were born, you were crying

And everyone around you smiling.

Live your life so that when you die,

You are the one who is smiling

And everyone around you is crying.

(Unknown)

KHÓC VÀ CƯỜI

Khi mở mắt chào đời

Ai cũng cất tiếng khóc

Giữa bao người thân thuộc

Đang rạng rỡ nụ cười.

Chọn cho mình cách sống

Sao cho lúc lìa đời

Vẫn thanh thản nụ cười

Khi mọi người than khóc.

Vì mọi người thường nói: Một nụ cười là mười thang thuốc bổ, ta sẽ nói về cười trước.

Học giả Nguyễn Văn Vĩnh từng viết bài nghị luận "Xét tật mình" đăng trong Đông Dương tạp chí trong đó có phần nói về cái tật "Gì cũng cười":

"An Nam ta có một thói lạ là gì cũng cười. Người ta khen cũng cười, chê cũng cười.

Hay cũng hì, mà dở cũng hì, quấy cũng hì, phải cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang. Có kẻ bảo cười hết cả, cũng là một cách của người hiền. "

Nhà thơ Pablo Neruda có bài

TIẾNG EM CƯỜI

Nếu em muốn cứ lấy đi không cho anh thức ăn,

Lấy đi cả không khí, nhưng

Đừng lấy đi tiếng em cười khỏi anh.

Đừng lấy đi đoá hồng,

Nụ hoa em đã hái

Giọt nước bất chợt

Vui mừng bắn toé ra

Con sóng bạc

Tình cờ hiển lộ nơi em.

Cuộc đấu tranh gian lao và anh trở về,

Với đôi mắt mệt mỏi

Vì nhiều lúc đã phải nhìn

Trái đất chẳng hề thay đổi

Nhưng khi tiếng em cười

Vang vọng lên không trung tìm kiếm anh

Nó đã mở ra cho anh tất cả

Cánh cửa của nhân sinh.

Em yêu, trong giờ phút đen tối nhất,

Tiếng em cười bật ra,

Và nếu bất chợt

Em thấy máu anh nhuộm bẩn

Gạch đá con đường,

Thì em hãy cười lên, vì tiếng em cười

Sẽ là thanh kiếm mới

Trong tay anh.

Bên cạnh biển trong mùa thu,

Tiếng em cười hẳn sẽ làm cuộn lên

Dập dồn sóng bạc.

Và, vào mùa xuân, em yêu,

Anh muốn tiếng em cười giống như

Đoá hoa anh hằng chờ đợi,

Đoá hồng xanh vọng tưởng quê hương.

Em hãy cười nhạo buổi tối,

Cười ban ngày, cười ánh trăng,

Hãy cười nhạo những con đường

Ngoằn ngoèo trên đảo,

Hãy cười nhạo chàng trai vụng về

Đang yêu em.

Nhưng khi anh

Mở mắt rồi nhắm lại,

Khi anh bước ra đi,

Khi anh bước trở về,

Em có thể khước từ anh thức ăn, không khí,

Ánh sáng, mùa xuân,

Nhưng đừng bao giờ lấy đi tiếng em cười,

Vì anh sẽ chết mất, em ơi!

Lịch sử còn ghi lại Tiếng cười Bao Tự

Bao Tự là một mỹ nhân cực kỳ xinh đẹp và quyến rũ, Chu vương mê say nàng nhưng chưa bao giờ thấy nàng cười, lệnh ai làm cho nàng cười sẽ thưởng nghìn lạng vàng. Để thấy nụ cười của Bao Tự, Chu U vương nghe theo một nịnh thần, đốt lửa trên đài để lừa triệu chư hầu chạy đến. Trò đùa này đã gây ra họa mất Cảo Kinh khi quân Khuyển Nhung thực sự chiếm đánh. Nhà Chu bắt đầu suy yếu từ đây. Điển tích nổi tiếng này gọi là Phóng hỏa hí chư hầu (烽火戲諸侯).

Một nụ cười đẹp không chỉ giúp bạn trở nên quyến rũ và thu hút hơn mà còn biểu thị cảm xúc vui, buồn, hờn giận. Trong giao tiếp, việc cười đẹp sẽ là "chìa khóa" giúp tạo được thiện cảm với những người xung quanh. Tuy nhiên, không phải nụ cười nào cũng mang hàm ý tốt. Thử điểm qua các kiểu cười phổ biến hiện nay và ý nghĩa phía sau.

Cười mỉm

Cười mỉm còn được gọi với tên gọi khác là cười mím môi, răng không lộ ra bên ngoài. Đây là kiểu cười như không cười. Họ thường là người sống nội tâm và có sức cảm hóa mạnh mẽ. Tuy nhiên, những người này cũng rất dễ bị lôi cuốn. Người cười mỉm thường có khuynh hướng lãng mạn. Chính vì thế, họ sãn sàng hy sinh. Nhờ vào điểm này, người có nụ cười mỉm luôn tạo ra được bầu không khí vui vẻ.

Cười nửa miệng

Cười nửa miệng là kiểu cười không lộ hàm trên. Đây là nụ cười biểu thị cho sự không thoải mái. Trong giao tiếp, nếu ai đó cười nửa miệng với bạn rất có thể họ đang bị phân vân, bối rối, hoang mang với một vấn đề nào đó. Ngoài ra, nụ cười này còn biểu thị cho một nửa tín hiệu mừng và một nửa không ưng ý.

Cười gượng

Đây là nụ cười biểu thị sự không thoải mái, tự nhiên. Cười gượng là để che giấu điều không vui hoặc họ đang trong tình huống xấu hổ, khó xử. Chẳng hạn như: Bạn đang có chuyện buồn nhưng không muốn phá vỡ bầu không khí vui vẻ của mọi người nên cười gượng. Ánh mắt của những người cười gượng thường toát lên vẻ đau buồn. Gương mặt của họ thường co lại và miệng hơi nhếch lên.

Cười chân thật

Cười chân thật là kiểu cười thoải mái, tự nhiên nhất. Lúc này, bạn sẽ thấy môi mở rộng, khóe miệng cong lên. Điều này thể hiện niềm vui trên gương mặt, ánh mắt. Khi cười, những người này sẽ dễ dàng lan tỏa được cảm xúc của họ tới những người xung quanh, tạo ra không khí vui vẻ. Những người cười chân thật thường hiền lành, tốt bụng nên được rất nhiều người yêu quý.

Cười mở miệng

Cười mở miệng là kiểu cười có khả năng lan tỏa hạnh phúc. Khi chụp ảnh, cười mở miệng sẽ giúp bạn trở nên thu hút hơn. Tuy nhiên, trong giao tiếp bạn không nên cười kiểu này.

Cười tươi

Cười tươi biểu thị niềm vui, hạnh phúc của một người. Không chỉ khuôn miệng mà cả ánh mắt, đường nét trên gương mặt cũng thể hiện điều này. Bạn sẽ thấy phần miệng mở rộng, lộ hàm răng trên. Môi trên tạo thành một đường thẳng còn môi dưới cong lại hình vòng cung.

Cười nhếch mép.

Cười nhếch mép là kiểu cười một bên mép nhếch lên, bên còn lại ở trạng thái bình thường và không làm lộ răng hoặc lộ ít răng. Những người sở hữu kiểu cười này thường có tinh thần mạo hiểm cao, tác phong tích cực, dễ gần. Trong công việc, họ rất giỏi giải quyết các việc phức tạp. Vì thế, những người này thường hợp với công việc thư ký, bán hàng. Tuy nhiên, đây cũng là kiểu cười biểu thị cho sự khinh bỉ.

Cười khúc khích

Cười khúc khích là kiểu cười thường gặp ở trẻ nhỏ. Khi cười bé sẽ phát ra âm thanh khiến người lớn cảm thấy thích thú. Đây là kiểu cười hồn nhiên, thể hiện cảm xúc chân thật nhất của bé.

Cười đắc chí

Khi bạn đạt được điều gì đó, tiếng cười đắc chí sẽ giúp bạn thể hiện niềm vui khó tả. Nụ cười này dễ bắt gặp nhất ở những nhà doanh nhân đạt được thỏa thuận có lợi cho mình. Lúc này, họ sẽ nở nụ cười vô cùng đắc chí.

Cười toe toét

Cười toe toét là kiểu cười khi bạn không thể kiềm chế cảm xúc hoặc không nhịn được cười trước một mẫu chuyện vui. Lúc này, cả miệng của bạn sẽ mở rộng và làm lộ ra hàm trên, hàm dưới. Những người cười toe toét thường rất trẻ con, tốt bụng.

Cười tán tỉnh

Khi bạn muốn thể hiện tình cảm với đối phương hãy biểu thị nụ cười qua ánh mắt. Từ đó tạo nên nét quyến rũ của khuôn mặt. Bạn chỉ cần để hở hàm trên một ít, có thể kết hợp với cắn môi hoặc liếm môi để thu hút hơn.

Cười bẽn lẽn

Đây là kiểu cười đặc biệt và thường gặp ở phái nữ. Cười bẽn lẽn có nghĩa là họ đang ngại ngùng, xấu hổ. Tuy nhiên, những người sở hữu kiểu cười này thường rất chu đáo, điềm đạm. Vì thế, khi gặp chuyện, họ rất bình tĩnh đưa ra hướng giải quyết. Những người cười bẽn lẽn thường rất được lòng những người xung quanh.

Cười duyên

Cười duyên đây là nụ cười làm toát lên nét duyên dáng của người sở hữu. Kiểu cười này giúp bạn thu hút và tạo được thiện cảm với người xung quanh, đặc biệt là khi gặp khách hàng, đối tác.

Cười nhạt

Tương tự như cười gượng, cười nhạt bộc lộ cảm xúc gượng gạo. Nó biểu thị người khác đang không còn hứng thú với câu chuyện của bạn, ý muốn đồng tình cho qua chuyện. Cười nhạt môi sẽ mím chặt lại và phát ra âm thanh nhỏ. Tuy nhiên, người khác có thể nhận biết bạn không hứng thú với câu chuyện qua nét mặt.

Cười xã giao

Trong công việc hay cuộc sống, nụ cười xã giao rất quan trọng. Kiểu cười này thể hiện sự chào đón và muốn làm quen, kết bạn. Cười xã giao thể hiện niềm vui nhưng ánh mắt hơi gượng gạo, thường phát ra tiếng.

Cười hở lợi

Cười hở lợi là nụ cười để lộ nướu răng ra ngoài, làm mất cân đối và ảnh hưởng đến tính thẩm mỹ gương mặt. Nguyên nhân gây ra tình trạng này là do xương hàm phát triển quá mức. Để khắc phục, giải pháp tốt nhất là thiết kế lại nụ cười.

Cười sún răng

Cười sún răng thường gặp ở trẻ nhỏ và người lớn tuổi. Do các nguyên nhân khác nhau, khi cười họ sẽ để lộ những chiếc răng bị sún trông rất đáng yêu. Nụ cười sún răng thường gắn liền với tuổi thơ của nhiều người.

Cười híp mắt

Cười híp mắt là nụ cười bộc lộ niềm vui, niềm hạnh phúc của bạn. Rất dễ nhận biết kiểu cười này thông qua gương mặt. Lúc này, bạn sẽ thấy khuôn miệng hoàn toàn mở rộng, hai mắt híp lại, gần như nhắm lại. Từ đó tạo cảm giác dễ thương, thu hút người đối diện.

Cười che miệng

Những người cười che miệng thường rất dịu dàng, duyên dáng, khép nép và lịch sự. Họ thường có tính cách hướng nội và giàu lòng nhân ái. Tuy nhiên, những người này cũng không quá cởi mở nên họ thường rất ít chia sẻ cảm xúc của bản thân với nhiều người.

Cười dịu dàng

Cười dịu dàng là nụ cười gần như không phát ra âm thanh. Lúc này, khuôn miệng sẽ hơi nhếch lên, ánh mắt thể hiện sự dịu dàng, trìu mến. Những người sở hữu nụ cười dịu dàng thường có tính cách thâm trầm, điềm tĩnh. Họ có lập luận sắc bén và suy nghĩ thấu đáo.

Cười nắc nẻ

Cười nắc nẻ không phải là điệu cười dễ dàng xuất hiện trong nhiều trường hợp, những người có điệu cười sảng khoái đến mức không thể dừng lại thông thường không phải là người quá sôi nổi. Bình thường họ sẽ trầm mặc và ít nói, tuy nhiên một khi đã cười trước một sự việc nào đó lại trở nên rất thích thú.

Cười tủm tỉm

Cười tủm tỉm cũng là một trong các kiểu cười thường gặp, đặc biệt là phái nữ. Đây là nụ cười biểu hiện cho những người có tính cách hay ngại ngùng, xấu hổ nhưng lại có suy nghĩ hết sức chu đáo và hành động điềm đạm.

Cười khẩy

Cười khẩy cũng khá giống với kiểu cười nhếch mép, tuy nhiên điểm khác là cười khẩy thường để lộ nhiều răng hơn và có phần rõ ràng hơn so với cười nhếch mép. Trong trường hợp người khác cười khẩy với bạn, khả năng cao họ đang có ý coi thường và mỉa mai những điều bạn nói.

Trong cuộc sống, đây cũng là những người có tính cách ngạo mạn, khinh đời và thường không hay lắng nghe lời góp ý của người đối diện. Do đó, họ có thể làm việc mang lại hiệu quả nhưng sẽ không có được sự quý mến của những người xung quanh.

Bây giờ nói đến KHÓC

Nhắc đến khóc là nghĩ ngay đến bài thơ của Nguyễn Khuyến: Khóc Dương Khuê

( Tác giả tự dịch bài Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư.)

Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau,

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,

Phận đấu thăng chẳng dám tham trời;

Bác già, tôi cũng già rồi,

Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm gặp bác một lần;

Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can,

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày;

Làm sao bác vội về ngay,

Nghe tin, tôi bỗng chân tay rụng rời.

Ai chẳng biết chán đời là phải,

Sao vội vàng đã mải lên tiên;

Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua.

Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa;

Giường kia treo những hững hờ,

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn.

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan!

Khóc là âm thanh đầu tiên của đứa trẻ để chứng minh sự tồn tại của nó, đó là hiện tượng sinh lý bình thường.

Giang Nam cũng nói đến tiếng khóc trẻ thơ. Nhưng đó là tiếng khóc đơn giản, bình thường của đứa trẻ lo bị mắng:

Những ngày trốn học, đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc.

(Quê hương)

Khác với tiếng khóc của trẻ thơ, tiếng khóc của người lớn mang ý nghĩa sâu sắc hơn. Người lính thú phải ra trận - nơi miền biên ải xa xôi không hẹn ngày trở về nên "Bước chân xuống thuyền" mà "nước mắt như mưa". Người chồng ra trận, người vợ đi tìm chồng cũng "nỉ non":

Kìa ai tiếng khóc nỉ non

Ấy vợ chú lính trèo hòn Đèo Ngang.

Chế độ phong kiến với những bất công mà người dân là những người phải gánh chịu. Nước mắt, tiếng khóc ở đây thể hiện sự đau khổ, niềm xót xa của cả người đi và người ở. Những câu ca dao rất thực thể hiện sự thương tâm của nhân dân.

Trong cuộc chiến tranh cách mạng của ta, những người lính cũng lên đường "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", họ biết rằng có thể ra đi mãi mãi không trở về, nhưng không ai khóc. Bởi vì người chiến sĩ đó chiến đấu có mục đích, có lý tưởng cao đẹp. Những người mẹ, người vợ ở nhà cũng không hề khóc. Nước mắt được ghìm nén, đuợc nuốt vào trong, bởi họ biết những người chồng, người con ra đi là vì nghĩa lớn của dân tộc. Nhà thơ Hà Nam rất có lý khi viết:

"Xa nhau không hề rơi nước mắt

Nước mắt chỉ dành cho ngày gặp mặt!"

Tiếng khóc thật thần kỳ, có khi nó thể hiện sự đau khổ tột cùng, niềm hạnh phúc tột đỉnh hay có cả khi khóc đấy mà chẳng thể hiện tình cảm gì. Đó là tiếng khóc của Hồ Xuân Hương khóc chồng. Bà đã khóc rất to, khóc như để cho muôn đời đều nghe thấy. Vậy mà, trong tiếng khóc ấy không hề có nước mắt và cũng không hề có một chút xót xa, xúc động:

"Chàng cóc ơi! Chàng cóc ơi!

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé

Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi

(Khóc Tổng Cóc)

Trái với Hồ Xuân Hương, người chiến sĩ chiến đấu và ngã xuống trên chiến trường. Đồng đội khóc anh:

Khóc anh không nước mắt

Mà lòng đau như cắt

Gọi anh chẳng thành lời

Mà hàm răng nghiến chặt

(Viếng bạn - Hoàng Lộc)

Không nước mắt nhưng "lòng đau như cắt". Nỗi đau ở đây lớn không thể nói lên lời.

Trải qua những năm tháng đấu tranh gian khổ, hy sinh, mất mát, đau thương để rồi ngày giành được toàn thắng. Cả nước đổ ra đường, cờ hoa và không ai cầm được nước mắt:

"Ôi! Nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng

Trào vui nước mắt cứ rưng rưng"

(Tố Hữu)

Người lính, sau những năm dài chiến đấu, bỗng một ngày nào đó, sau hoà bình, anh bất ngờ xuất hiện trước ngõ. Người mẹ chạy ra, ôm chầm lấy anh, oà khóc. Người vợ và đàn con cũng ôm chầm lấy anh nức nở. Đấy là những giọt nước mắt long lanh hạnh phúc. Niềm hạnh phúc thiêng liêng nằm trong hạnh phúc lớn dân tộc.

Tiếng khóc và những giọt nước mắt, tưởng chừng như thật đơn giản nhưng cũng chứa đựng nhiều nỗi niềm thân phận. Cùng là những giọt nước mắt mà khi là niềm vui, lúc lại là nỗi buồn của con người. Nó được đưa vào thơ với những cung bậc khác nhau nhưng dù ở cung bậc nào thì cũng đều thể hiện nỗi lòng của con người.

Ai tư vãn của Ngọc Hân công chúa là tiếng khóc thống thiết.

Lê Ngọc Hân (1770 – 1799) là con gái thứ 21 của vua Lê Hiển Tông. Mẹ đẻ là người làng Phù Ninh, huyện Từ Sơn, trấn Kinh Bắc, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Từ bé đã thông kinh sử và biết làm thơ văn. Năm 1786, mới 16 tuổi nàng được vua cha cho kết duyên với Nguyễn Huệ lúc Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Sau đó, Nguyễn Huệ lên làm vua. Năm Kỷ Dậu (1789) chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung lập Ngọc Hân làm Bắc cung Hoàng hậu. Năm Nhâm Tý (1792) nhà vua qua đời, để lại cho Ngọc Hân hai con nhỏ. Ngọc Hân rất đau khổ, nàng làm bài "Ai tư vãn" để khóc chồng. Sau khi Ngọc Hân mất, triều đình Tây Sơn truy tặng miếu hiệu là " Như ý Trang Thận Trinh Nhất Vũ Hoàng hậu"

Ai tư vãn, như chính tên gọi của nó - Bài vãn ca về nỗi buồn đau tưởng nhớ - là tác phẩm nói lên một tâm trạng, chứ không phải tác phẩm chuyển tải một luận đề hay kể lại một câu chuyện. Và đây là tâm trạng của chính tác giả - Ngọc Hân công chúa, một con người cụ thể, được lưu lại trong biên niên sử - chứ không phải tâm trạng của một nhân vật văn chương (người vợ có chồng đi lính trong Chinh phụ ngâm, hay người cung nữ bị thất sủng trong Cung oán ngâm). Tâm trạng ấy khởi lên từ mối quan hệ với một con người cũng rất cụ thể, được lưu lại trong biên niên sử - hoàng đế Quang Trung - chứ không phải từ một nhân vật của văn chương (người chinh phu trong Chinh phụ ngâm, hay đấng thiên tử háo sắc và bạc bẽo trong Cung oán ngâm). Điểm này ít ra cũng cho ta thấy được một nét khác của Ai tư vãn khi so sánh nó với hai tác phẩm, có thể nói là hai kiệt tác, thuộc thể song thất lục bát trong văn học trung đại, mặc dù ảnh hưởng của Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm trên Ai tư vãn là điều không cần phải bàn cãi.

Mạch tâm trạng của chủ thể trữ tình trong Ai tư vãn, theo chiều thời gian, chạy suốt từ quá khứ tới hiện tại, từ nỗi nhớ về hình ảnh sinh thời của người đã khuất tới những cảm nhận về sự mất mát đang hiện hữu quanh mình. Thoạt tiên là nỗi nhớ về "khởi điểm của mọi khởi điểm", tức lúc đôi trai tài gái sắc kết duyên phu phụ:

"Từ cờ thắm trỏ vời cõi Bắc/ Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương/ Xe dây vâng mệnh phụ hoàng/ Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy".

Ngọc Hân công chúa không "giấu giếm" sự thật về cuộc hôn nhân của mình: bốn chữ "vâng mệnh phụ hoàng" đã cho thấy đó là cuộc hôn nhân vương giả với không ít những ý đồ, những mưu toan chính trị của cả hai bên được ẩn vào bên trong. Đọc Khâm định Việt sử thông giám cương mục ta biết rằng Nguyễn Hữu Chỉnh chính là kiến trúc sư của mối quan hệ thông gia giữa hai nhà Lê - Tây Sơn. Với sự mai mối của Cống Chỉnh, vua Lê Hiển Tông đã thuận gả con gái yêu cho Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ, hòng có một sự bảo trợ vững chắc cho cái ngai vàng đang tới hồi mục ruỗng của mình. Dẫu vậy, vượt qua những toan tính thực dụng ban đầu của cuộc hôn nhân vương giả, Lê Ngọc Hân và Nguyễn Huệ đã sống một đời sống vợ chồng chứa chan tình nghĩa (Nhờ hồng phúc gội cành hòe quế/ Đượm hơi dương dây rễ cùng tươi) và mơ ước tới sự lâu bền của hạnh phúc ấy (Những ao ước chập trung tuổi hạc/ Nguyền trăm năm ngõ được vầy vui). Thế nhưng: "Ngán thay máy tạo đất bằng/ Bóng mây thoắt đã ngất chừng xe loan!". Quang Trung băng hà, để lại một sự nghiệp hiển hách với bao hoài bão to lớn chưa kịp thực hiện, để lại trên đời vợ góa con côi. Người thác, nhưng còn dư ảnh. Và chính cái dư ảnh ấy đã khiến cho người đang sống không ít phen phải rơi vào trạng thái nửa thực nửa mộng, tựa như bị thôi miên: "Khi trận gió hoa bay thấp thoáng/ Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu/ Vội vàng sửa áo lên chầu/ Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng/ Khi bóng trăng lá in lấp lánh/ Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi/ Vội vàng dạo bước tới nơi/ Thương ôi vắng vẻ giữa trời sương sa!". Đọc những câu Ngọc Hân công chúa ghi lại sự trải nghiệm cá nhân này, không hồ nghi gì nữa, cái tình thực của cổ nhân đã hằn trên dòng chảy thời gian, như một minh chứng cho nỗi đau khôn xiết.

Trong hồi tưởng của Ngọc Hân công chúa, ở những câu thơ cực tả, vua Quang Trung đã hiện lên lồng lộng với kích thước của những vĩ nhân trong huyền thoại: "Nghe trước có đấng vương Thang, Võ/ Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao/ Mà nay áo vải cờ đào/ Giúp dân dựng nước biết bao công trình/ Nghe rành rành trước vua Nghiêu, Thuấn/ Công đức dày ngự vận càng lâu/ Mà nay lượng cả ơn sâu/ Móc mưa tưới khắp chín châu đượm nhuần!". Xét từ quan điểm ý thức hệ, cách nhìn nhận đánh giá về Quang Trung Nguyễn Huệ như vậy tuyệt nhiên không thể có ở những người phò Lê hay theo Nguyễn - nó gần với quan điểm của nhà sử học cách mạng hơn nhiều! Dù sao chăng nữa, qua đoạn thơ này, ít nhất tác giả cũng đã lưu lại được dấu ấn của mình trong văn học sử dân tộc với một cụm từ định tính (có sức phổ biến rất rộng và lâu bền) cho nhân vật lịch sử Quang Trung: "áo vải cờ đào". Chẳng lẽ đó không phải là một điều đáng kể?

Từ hồi tưởng quá khứ tới những cảm nhận hiện tại là cả một niềm đau đớn, một "đích lịch trình khổ nạn" với tác giả Ai tư vãn. Bà cho hậu thế thấy điều đó bằng sự đối lập Xưa/ Giờ: "Xưa sao sớm hỏi khuya bầy/ Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ/ Giờ sao bỗng thờ ơ lặng lẽ/ Tình cô đơn ai kẻ xét đâu/ Xưa sao gang tấc gần chầu/ Trước sân phong nguyệt trên lầu sinh ca/ Giờ sao bỗng cách xa đôi cõi/ Tin hàn huyên khôn hỏi thăm lênh/ Nửa cung gẫy, phiếm cầm lành/ Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ". Nếu xét tới "thân thế sự nghiệp" của tác giả (xin nhấn mạnh: một bà hoàng), người đọc tất sẽ không tránh khỏi cảm giác ngậm ngùi khi đọc đoạn thơ này. Không còn là một bà hoàng sống trong nhung lụa và đau nỗi đau vương giả nữa. Tuyệt nhiên không. Chỉ còn là một góa phụ, một người đàn bà hết sức bình thường đang sống trong tâm trạng đầy sợ hãi khi phải đối diện với viễn cảnh mẹ góa con côi bơ vơ giữa biển đời giông tố! (Có lẽ là không thừa nếu nhìn qua một chút cái bối cảnh chính trị - xã hội sau khi vua Quang Trung băng hà: ở phía Bắc, những lực lượng phù Lê chính thống đang có cơ trỗi dậy; ở miền Trung, "ông bác" Nguyễn Nhạc vẫn an nhiên xưng đế; và đáng sợ hơn cả là ở Gia Định, nơi quân lực của chúa Nguyễn đang nuôi tham vọng gồm thâu toàn bộ đất nước). "Đời" hơn nên đau hơn, nên hoang mang hơn, mờ mịt hơn khi người viết tự đặt mình trong cái mênh mông của không gian: "Trông mái đông lá buồm xuôi ngược/ Thấy mênh mông những nước cùng mây/ Đông rồi thời lại trông tây/ Thấy non ngân ngất, thấy cây rườm rà/ Trông nam thấy nhạn sa lác đác/ Trông bắc thôi ngàn bạc màu sương/ No trông trời đất bốn phương/ Cõi tiên khơi thẳm biết đường nào đi". Phóng tầm mắt, cũng là trải lòng mình ra khắp bốn phương trời, đây là điều thật ra Ngọc Hân công chúa, dù muốn hay không, đã học được từ người vợ lính trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Thế nhưng, là tâm sự của một con người cụ thể trong hoàn cảnh cụ thể, có thể nói, nỗi thấm thía về cái mất mát mà Ai tư vãn của Lê Ngọc Hân đặt trên người đọc đã có được một sức lan truyền đặc biệt.

Trong "Cung oán ngâm " có một tiếng khóc - tiếng khóc chào đời của đứa trẻ, nhưng cũng là tiếng khóc đưa ma một kiếp người: "Thảo nào khi mới chôn nhau/ Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra".

Tuy nhiên, như sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu, "Cung oán ngâm" là một tác phẩm mang đậm tính chất quý tộc, vì vậy có thể nói giọt lệ của "Cung oán ngâm" - tiết ra từ những tư tưởng siêu hình - khá xa cách với sự tiếp nhận của phần đông công chúng.

Cũng là sự xót thương cùng khắp như "Cung oán ngâm", nhưng gần gũi hơn, có lẽ phải kể tới "Văn chiêu hồn" của Nguyễn Du. "Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt/ Toát hơi may lạnh lẽo xương khô/ Não người thay buổi chiều thu/ Ngàn lau nhuộm bạc lá ngô rụng vàng/ Đường bạch dương bóng chiều man mác/ Dịp đường lê lác đác sương sa/ Lòng nào lòng chẳng thiết tha/ Cõi dương còn thế nữa là cõi âm". "Văn chiêu hồn", ngay ở những câu mở đầu đã phác lên một không gian mất hết sinh khí, nó bàng bạc rờn rợn cái sắc màu và hơi hám của cõi âm.

Phạm Thiên Thư cũng nhắc đến tiếng khóc:

" Chim kia chết dưới cội đa

Tiếng kêu rơi rụng giữa giang hà

Mai ta chết dưới cội đào

Khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu".

Tương Phố có bài

Giọt lệ thu

Bao giờ quên được mối tình xưa

Sinh tử còn đau mãi đến giờ

Giấc mộng tìm nhau tìm chẳng thấy

Mênh mang biển hận, hận không bờ

Trời thu ảm đạm một mầu

Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em

Trăng thu bóng ngả bên thềm

Tình thu ai để duyên em bẽ bàng

Sầu thu nặng lệ thu đầy

Vì lau san sát hơi may lạnh lùng

Ngổn ngang trăm mối bên lòng

Ai đem thu cảnh bạn cùng thu tâm.

Nữ sĩ Tương Phố sinh ngày 14/7/1896 ở Bắc Giang, nguyên quán ở huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Bà có tên thật là Đỗ Thị Đàm. Do bà chào đời tại Đồn Đầm xã Phượng Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang nên bà được đặt tên là Đàm để nhớ địa danh ấy (chữ Đàm nghĩa Hán văn là Đầm).

Sinh ra trong một gia đình Nho học, thân sinh của bà là nhà nho Đỗ Duy Phiên và bà Nguyễn Thị Yêm. Thân mẫu bà hiếm hoi, chỉ sinh được hai người con gái là Tương Phố và Song Khê. Hai chị em lúc nhỏ được cha dạy chữ Hán rồi học tiếng Pháp tại trường công lập ở tỉnh nhà Hưng Yên. Sau đó, bà Đỗ Thị Đàm lên học tại trường nữ Sư phạm Hà Nội.

Năm 1915, khi đang là sinh viên trường Sư phạm Hà Nội, bà kết hôn với ông Thái Văn Du - sinh viên trường y, em ruột cụ Thái Văn Toản - Thượng thư Bộ Lại, triều Nguyễn thời Bảo Đại), người làng Quy Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị rồi sinh sống tại Hà Nội.

Hạnh phúc vừa chớm nở, Đỗ Thị Đàm sống cùng chồng chưa đầy một năm thì ông phải sang Pháp để học tiếp về y khoa. Sau đó, khi bà sinh con trai mới 6 ngày thì chồng bà là y sĩ Đông Dương nên Pháp điều đi tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp - Đức (1914-1918). Sang Pháp một thời gian, ông Du không chịu nổi giá rét mùa đông nên bị bệnh lao phổi rất nặng phải đưa về Huế điều trị rồi mất tại đó. Đường sá xa xôi cách trở, khi người vợ trẻ vào đến nơi để chịu tang chồng thì đã đến kỳ lễ cúng thất tuần, không được nhìn mặt chồng lần cuối. Tương Phố khi ấy mới đôi mươi, ôm nỗi buồn đơn lẻ nhớ thương người chồng xấu số đã viết những vần thơ lẫn trong những câu văn cảm thán mà thành tuyệt tác mang tên Giọt lệ thu nức tiếng một thời: Trời thu ảm đạm một màu/Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em/Trăng thu ngả bóng bên thềm/Tình thu ai để duyên em bẽ bàng…

Bút danh Tương Phố ngay từ đầu đã để lại ấn tượng trên văn đàn, dẫu chưa ai biết được bà là ai. Có thể nói nữ sĩ đã đem tiếng lòng cá nhân, đem tình cảm riêng tư sẻ chia với muôn kiếp người như một cách thi ca hóa, bất diệt hóa tình yêu và nỗi đau duyên phận. Chính vì thế, cái tên Tương Phố từ đó đã đóng dấu trên văn đàn một thông điệp mang nỗi buồn trần thế.

Giọt lệ thu được hoàn thành từ mùa thu năm 1923, nhưng mãi 5 năm sau, đến năm 1928, nữ sĩ Tương Phố mới gửi đăng trên tạp chí Nam Phong. Câu chuyện tình duyên ngắn ngủi đầy nước mắt được viết bằng văn xuôi, xen lẫn những đoạn thơ lục bát và song thất lục bát đã làm cho nhiều người trong xã hội nước ta lúc bấy giờ vô cùng xúc động và ngưỡng mộ tài năng văn thơ của bà, đã tạo nên được những nỗi niềm rung động trái tim thân thiết với bao người đến thế. Tác phẩm này không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn vang xa tận nước ngoài. Từ những năm 30 của thế kỷ trước, nữ thi sĩ Pháp Jeanne Duclos-Salesses đã dịch Giọt lệ thu sang tiếng Pháp đăng trên báo Le Moniteur d’Indochina. Nhà danh cầm người Pháp De Gironcourt đọc được bài thơ này đã viết bản nhạc Khúc ca trên mộ. Năm 1940, khi sang Việt Nam, ông đã tìm đến Phúc Yên (Vĩnh Phúc) để thăm bà Tương Phố và tặng bà bản nhạc này.

Năm 1954, bà di cư vào Nam cùng với con trai, sinh sống tại thành phố Đà Lạt rồi sống và gắn bó ở đó gần 20 năm. Nhiều lần bà muốn cùng con trai ra Huế thăm lăng mộ của ông Thái Văn Du nhưng vì thời chiến tranh đi lại khó khăn và mất liên lạc với người thân ngày xưa ở quê chồng nên không biết đâu mà tìm. Năm tháng trôi qua, bà cứ canh cánh bên lòng một nỗi niềm thương nhớ, day dứt.

Nữ sĩ Tương Phố mất năm 1973 và được chôn cất trên một đồi thông dưới chân đèo Mimosa thuộc dãy Langbiang. Từ khi bà nằm xuống, ngọn đồi ấy mang tên Tương Sơn như để nhắc nhớ về người nằm đó - nữ sĩ Tương Phố.

Tú Mỡ có bài Khóc người vợ hiền:

Bà Tú ơi! Bà Tú ơi!

Té ra bà đã qua đời, thực ư?

Tôi cứ tưởng nằm mơ quái ác,

Vùng dậy là tỉnh giấc chiêm bao

Tỉnh dậy, nào thấy đâu nào,

Nào đâu bóng dáng ra vào hôm mai

Đâu bóng dáng con người thùy mị,

Tuy tuổi già xấp xỉ bảy mươi,

Vẫn còn khỏe mạnh, vui tươi,

Le te, nhanh nhẹn như thời xuân xanh.

Nhìn sau lưng vô tình cứ ngỡ

Một cô nào thiếu nữ thanh tân.

Vậy mà cái chết bất thần

Cướp bà đi mất, vô ngần xót xa!

Kể từ thuở đôi ta kết tóc,

Thấm thoát gần năm chục năm qua

Thủy chung chồng thuận vợ hòa,

Gia đình hạnh phúc thật là ấm êm.

Tôi được bà vợ hiền thuần thục,

Cảm thấy mình tốt phúc bao nhiêu!

Đôi ta cùng một cảnh nghèo,

Đạo chồng vợ lấy chữ yêu làm nền.

Nhớ khi giường bệnh đã nằm,

Bà còn thủ thỉ tình thâm thương chồng

"Tôi mà chết thì ông sẽ khổ,

Vì, cứ theo câu cổ ngữ ta

Xưa nay con cái nuôi cha

Cũng không chu đáo bằng bà nuôi ông."

Bà ơi, hãy dầu lòng yên dạ,

Giấc nghìn thu cho thoả vong hồn,

Bà đi, đã có dâu con,

Một lòng phụng dưỡng, chăm nom bố già.

Tôi có khổ, âu là chỉ khổ

Vì thiếu bà, nhà cửa vắng tanh,

Khổ khi thức giấc tàn canh

Bên giường trống trải một mình nằm trơ.

Khổ nhớ lại sớm trưa ngày trước

Pha ấm trà chén nước mời nhau.

Giờ tôi chẳng thấy bà đâu,

Bên bàn thờ nhắp chén sầu đầy vơi...

Khổ những lúc ra sân mê tỉnh

Ngắm vườn nhà thấy cảnh thênh thang,

Mà bà khuất núi cho đang,

Quả cau tươi, lá trầu vàng ai xơi?

Khổ trông thấy cái cơi còn đó,

Đã khô trầu, khô vỏ, khô cau.

Ba thước đất đã vùi sâu

Cặp môi cắn chỉ ăn trầu đỏ tươi

Ngẫm: cảnh già cuộc đời sung sướng,

Tưởng vợ chồng còn hưởng dài lâu

Không ngờ con tạo cơ cầu,

Bà đi, để tủi dể sầu cho tôi

Ôi! Duyên nợ thế thôi là hết,

Năm mươi năm thắm thiết yêu nhau!

Bà về trước, tôi về sau

Thôi đành tạm biệt, nuốt sầu gượng vui

Bà đi rồi nhưng tôi phải ở,

Công việc đời còn dở tí thôi,

Bao giờ nhiệm vụ xong xuôi,

Về nơi cực lạc, lại tôi với bà...

(19-11-1968)

Hồ Xuân Hương có bài Khóc chồng làm thuốc:

Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì,

Thương chồng nên phải khóc tì ti.

Ngọt ngào thiếp nhớ mùi cam thảo,

Cay đắng chàng ôi vị quế chi.

Thạch nhũ trần bì sao để lại,

Quy thân liên nhục tẩm đem đi.

Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ,

Sinh ký chàng ôi tử tắc quy.

Bài thơ này được xây dựng trên việc chơi chữ dựa vào tên các vị thuốc Bắc, một số trong chúng mang nhiều sự tưởng tượng rõ ràng nam tính (cam thảo và thanh quế, lạnh hơn: hạt trần bì); một số chi tiết nữ tính có lẽ là kém hiển nhiên, chẳng hạn như vỏ cam và nụ hồng. Người phụ nữ là thiếp, hay một loại hầu thiếp hạng thấp. Hồ Xuân Hương dường như khinh thị việc phóng đại quá mức về nỗi buồn tiếc của phụ nữ, gợi ý cô ấy chỉ thiếu sắc dục. Thạch-nhũ, một loại chè làm từ hoa hồng, có thể giữ một trò chơi chữ trong từ nguyên của nó "vú đá." Cũng có việc chơi chữ trên thạch-nữ, "người phụ nữ bạo dạn." Durand (l’ Œuvre …, trang 111) tìm thấy hai nghĩa trong trần-bì: "vỏ cam" những cũng là "phụ nữ ở truồng." Dao cầu, được phát âm gần giống với giao/gieo cầu, quả bóng mà thanh nữ ném cho người cầu hôn trong trò tìm hiểu theo truyền thống (gợi ý quả phụ của chúng ta sẽ sớm tìm được bạn tình khác). Trong các dòng năm và sáu, chúng ta có sao và tẩm tại chữ thứ năm; đọc theo chiều đứng thì sẽ tạo ra sao tẩm, "pha chế thuốc" và lấy tẩm theo nghĩa khác của "lăng tẩm" "sao lại khóc?". Ký sinh là cây sống ăn bám được dùng làm thuốc, nhưng sinh ký nghĩa là, theo từng chữ, "sống vay mượn" và nói tới câu ngạn ngữ nhà Phật: sinh ký tử qui: sống vay, chết trả." Tất cả các vị thuốc này hiện nay vẫn còn có bán trong các cửa hiệu thuốc bắc ở Hà Nội.

Khóc là nhỏ lệ trước một hoàn cảnh khốn cùng, đau đớn hoặc buồn rầu. Vĩnh biệt người bạn trăm năm.

Có nhiều kiểu khóc khác nhau.

Nếu có khóc âm thầm, khóc lén, khóc nỉ non tỉ tê thì cũng có khóc ròng, khóc bù lu bù loa to tiếng, mũi dãi lòng thòng, khóc như mưa, khóc như cha chết, khóc đứng khóc ngồi, khóc dai, khóc tới liệt hơi khản tiếng, bất tỉnh nhân sự, ngất đi …

Bé mới sinh thì khóc oa oa, khóc dạ đề cả mấy tháng, khóc oe oe đói bụng đòi ăn, khóc vòi vĩnh điếc cả tai.

Cũng có người kịch tính, sụt sùi khóc mướn khóc thuê cho tang chủ, lâu lâu lại khóc rống lên với mục đích cho bàn dân thiên hạ hay là người quá cố được đông con nhiều cháu thương tiếc, tiễn đưa…

Có tiếng khóc đau đớn "Giọt châu lã chã khôn cầm" của Thúy Kiều khi bị Hoạn Thư đánh ghen hành hạ, thì cũng có tiếng khóc vì hoàn cảnh bần cùng của Trần Thế Xương "Vay nợ lắm khi trào nước mắt"; khóc khí khái "Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo" của Tôn Thọ Tường, hoặc tiếng khóc đa tình của người thiếu phụ trong thơ của Trương Tịch:

"Trả chàng đôi ngọc, đôi hàng lệ,

Hận chẳng gặp nhau lúc chưa chồng,"

Lại còn những tiếng khóc thâm độc, giả nhân giả nghĩa của Tào Tháo giết người rồi khóc rống, tỏ vẻ tiếc thương…

Như vậy thì khóc thường là đi đôi với nước mắt giọt ngắn, giọt dài tuôn rơi.

Mà nước mắt cũng có nhiều ý nghĩa, cấu tạo khác nhau.

Nước mắt tuôn ra từ tuyến lệ hình hạt hạnh nhân nằm phía trên con ngươi, dưới xương trán. Có khoảng hơn chục ống nhỏ li ti từ tuyến tỏa ra dẫn nước mắt phủ nhãn cầu. Sau đó nước mắt theo một đường chảy từ góc con mắt vào túi lệ, thông xuống mũi, đôi khi có nhiều thì dàn dụa trên mi, xuống má, xuống môi.

Nước mắt thành hình từ dung dịch chất lỏng của hệ tuần hoàn với 0.9% muối.

Có 3 loại nước mắt:

- Nước mắt căn bản thường xuyên tiết ra để bảo vệ và làm ướt nhãn cầu nhờ đó mắt chớp lên chớp xuống, nhìn ngang nhìn dọc dễ dàng. Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ khô, mắt chớp khó khăn và rát.

Mỗi ngày có từ 150-300 cc nước mắt với các chất khác nhau như glucose, chất đạm, muối sodium, Kali, magnesium, chất diệt trùng lysozyme, lactoferrin.

- Nước mắt phản ứng khi có một vật lạ hoặc ánh sáng quá mạnh xâm nhập kích thích mắt. Chẳng hạn như khi thái củ hành tươi có hơi cay bay vào mắt hoặc mắt vướng bụi bặm. Dây thần kinh cảm giác ở nhãn cầu sẽ chuyển tín hiệu báo cho não biết có vật lạ vào mắt. Não bộ tác động lên tuyến nước mắt, nước mắt chảy ra để loại bỏ vật lạ.

- Nước mắt xúc động tiết ra trước một buồn rầu, đau đớn hoặc niềm vui… Nước mắt này có cấu tạo khác với các nước mắt kể trên vì có thêm các chất như prolactin, ACTH, chất chống đau thiên nhiên leucin enkephalin

Vì có muối, cho nên nước mắt hơi mặn và đã có nhận xét rằng cặp môi ướt nước mắt rất tốt khi hôn nhau. Vừa sạch miệng, vừa làm cho nụ hôn đậm đà, tình cảm, nhớ nhau hoài.

Mỗi lần mắt chớp là nước mắt được trải rộng trên mặt nhãn cầu. Mắt chớp có công dụng như những cái gạt nước trên mặt kính xe hơi, máy bay. Chớp mắt xảy ra mỗi dăm ba giây đồng hồ và là một động tác tự chủ. Tuy nhiên ta cũng có thể chớp mắt theo ý muốn tỏ vẻ e thẹn khi gặp chàng gặp nàng lần đầu, nhưng khó mà có thể ngưng chớp mắt lâu hơn một phút.

Thực ra nước mắt trải trên nhãn cầu có những ba lớp: lớp trên cùng có chất dầu tiết ra từ hạch nhờn ở mi mắt để ngăn lệ bốc hơi; lớp thứ nhì là nước từ tuyến nước mắt và lớp dưới cùng là dịch nhày mucus. Bất cứ bệnh nào ảnh hưởng tới cấu trúc của ba lớp này đều gây trở ngại cho sự nhìn.

Theo nhà sinh hóa học William H. Frey, Đại học Minnesota, nước mắt khi xúc động có nhiều chất đạm hơn nước mắt do vật chất hoặc hơi cay kích thích.

Nước mắt có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ mắt với vật lạ như vi khuẩn bụi bặm và cũng là chất bôi trơn để mắt có thể điều tiết khi nhìn. Không có nước mắt, nhãn cầu sẽ trở nên khô, nhiễm trùng đưa tới khiếm thị, mù lòa.

Từ khóc và cười, vậy là bàn rộng ra cũng có nhiều điều để nói.

Tháng mười 2024

THÂN TRỌNG SƠN.


Sách tương tự