Liên Hoàn Án

Liên Hoàn Án

Tổng số chương: 1

1.

Trương Gia thôn thuộc huyện Truy Xuyên, tính Sơn Đông. Nơi thôn xóm hẻo lánh này có hai hộ họ Hồ và họ Phùng mang mối thù truyền kiếp không hiểu tổ tiên họ thù oán nhau vì chuyện gì. Chủ nhân gia đình họ Hồ là Hồ Thành; còn gia chủ hộ còn lại là Phùng An. Đến đời họ mối thù vẫn chưa hoá giải được. Nhưng nhà Hồ Thành đông người, thế lực mạnh hơn nên Phùng An chủ động tiếp cận, qua lại để hy vọng bớt căng thẳng trong quan hệ xóm làng... Về phía mình, mặc dù ngoài mặt đối đãi với Phùng An như bằng hữu nhưng trong thâm tâm, Hồ Thành vẫn có ý đề phòng...

Một hôm, Phùng An đến nhà Hồ Thành uống rượu. Hồ Thành uống quá chén, rất say. Rượu vào, lời ra, Hồ Thành cao hứng “đại ngôn” bảo Phùng An “chớ có quá lo nghĩ về cảnh nghèo túng. Chỉ cần biết suy nghĩ, tìm cách động não và ra tay đúng thời cơ là có thể có hàng trăm lạng kim ngân. Nhưng cũng phải gan dạ một chút! Có phước làm quan, có gan làm giàu, anh nhớ không?”. Mặc dù biết Hồ Thành cũng chẳng giàu có gì mấy nhưng Phùng An không dám cãi lời, chỉ mỉm cười một cách mỉa mai. Nét mặt và nụ cười đó không giấu nổi Hồ Thành. Anh ta trợn mắt và lớn tiếng như kiểu một thằng say khoác lác: “Thực không giấu gì anh. Ngày hôm qua tôi ra khỏi cửa và trở về nhà lúc trời sẩm tối. Trên đường về, tôi gặp một thương nhân với cái túi nặng trình trịch. Hẳn trong đó đầy kim ngân, tôi bèn giả bộ kết bạn đồng hành với hắn. Đến Nam Sơn, nơi đồi trọc Ưng Lĩnh, thừa lúc hắn không để ý, tôi đã hạ gục rồi kéo thi thể tới một cái giếng cạn gần đấy, tống xuống cho hắn yên nghỉ ngàn đời...!

Nghe thế, Phùng An vỗ đùi cười ngất và không quên phụ hoạ để thăm dò: “Đại ca khéo lừa thằng em út này thật! Anh em mình vốn là hương dân, có thằng nào dám giết người cướp của bao giờ!”. Chẳng thèm nói nữa, Hồ Thành lắc lư cái đầu, chuyển động cái thân, rồi đứng lên xiêu vẹo bước vào nhà trong. Một lát sau, anh ta bưng ra khệ nệ... một cái gì đó nặng trĩu. A đúng rồi, một cái tráp! Rồi anh ta đặt mạnh lên bàn, mở bung nắp trước mặt Phùng An. Có thể nói họ Phùng thật sự hoa mắt. Định thần nhìn kỹ, đúng là vàng bạc, kim ngân. Vàng thật, loé sáng, óng ánh, đầy ma lực. Trố mặt ra chưa đủ, Phùng An còn há hốc cả mồm vì cả đời anh ta chưa bao giờ thấy một lượng kim ngân lớn như vậy. “Đúng rồi! Thằng tiểu tử này đã làm cường tặc để trở thành nhà giàu!...”.

Từ nhà họ Hồ trở về, Phùng An cực kỳ cao hứng. Thế là sau bao nhiêu năm nhẫn nhục, anh ta thấy không uổng một chút nào. Cuối cùng, trời cũng chiều lòng người, cơ hội... bằng vàng đã đến. Cơn say khiến kẻ thù tiết lộ bí mật động trời để họ Phùng có dịp ngang nhiên tới công đường báo án và giải quyết mối oan cừu 9 đời. Trên làm hài lòng liệt tổ liệt tông, dưới không phụ niềm tin con cháu, nghĩ thế, Phùng An thao thức suốt đêm, không sao ngon giấc. Anh ta mong cho trời mau sáng...

Ngay sớm hôm sau, Phùng An vội đến huyện nha, tố cáo Hồ Thành sát nhân, đoạt của. Huyện lệnh Phí Nghi lập tức phái nha dịch đến trói quách Hồ Thành đồng thời yêu cầu Phùng An ở lại đối chứng. Nhưng Hồ Thành phủ nhận tội trạng, cho rằng đêm qua quá chén, ngất say nên đã “hô ngôn loạn ngữ”: “Thưa đại nhân, lời của kẻ say không phải là sự thật. Làm gì có chuyện như Phùng An tố cáo”. Huyện lệnh Phí Nghi hỏi: “Không có việc giết người, cướp của: vậy số vàng bạc ở dâu ngươi có?”. Hô Thành lúng túng một hồi mới đáp: “Tiểu nhân có một người em rể tên Trịnh Luân, muốn tìm mua ruộng đất ở vùng này. Trước đây mấy ngày, Trịnh Luân đưa số kim ngân ấy gửi nhờ nhà tiểu nhân, chuẩn bị mua ruộng, lập nghiệp. Đêm qua rượu vào, tiểu nhân đao to búa lớn thấy Phùng An không tin nên lấy số bạc ấy ra... khoe. Nào ngờ thật tai hại, tội thật đáng chết, xin Thanh thiên đại lão gia minh xét”.

Phí Nghi cho nha dịch tới bắt Trịnh Luân, dẫn tới công đường. Trịnh Luân khai đó là sự thật và xác nhận: “Số bạc đó, tiểu nhân mới bán vườn, chuẩn bị mua ruộng ở Truy Xuyên lập nghiệp!”. Huyện lệnh cho điều tra, quả thật có chuyện như Trịnh Luân khai báo. Nhưng vốn là một quan chức nổi tiếng thận trọng, Phí Nghi chưa kết thúc vụ án mà tuyên bố: “Hồ Thành, xem ra quả đúng như người nhìn nhận do rượu mà quá lời. Nhưng bản quan vẫn chưa thể trả tự do cho ngươi. Cần thiết phải đến địa điểm mà ngươi khai báo theo tưởng tượng nhưng lại rất cụ thể - dưới đồi trọc ở Nam Sơn - để kiểm tra hiện trường. Nếu không có thi thể ai ở đấy, ngươi sẽ được phóng thích, trở về”. Hồ Thành tin tưởng khẳng định: “Xin đại nhân cứ hành động. Tiểu nhân nhất quyết thề không có chuyện giết người cướp của...”.

2.

Huyện lệnh Phí Nghi đích thân tới hiện trường cùng với Hồ Thành và một số nha dịch rồi phái một người xuống giếng. Một lát sau, từ đáy giếng, nhân viên này kêu vọng lên: “Có người!”. Điều đó khiến ai nây cùng sửng sốt. Công việc đưa thi thể lên được thực hiện nhanh chóng. Mọi người kêu rú lên vì đó là một thi thể không đầu và còn đẫm máu. Riêng Hồ Thành mặt tái xanh, run lẩy bẩy, không trả lời được câu nào trước những nghi vấn tới tấp của huyện lệnh. Phí Nghi nổi trận lôi đình, hạ lệnh nha dịch vả vào mồm anh ta. Đánh đến độ mắt anh ta hoa lên, mồm đầy máu răng rụng mấy cái, anh ta vẫn không khai, cứ một mực kêu oan. Huyện lệnh bảo: “Thi thể nạn nhân đã xác chứng hùng hồn sự phạm tội, ngươi còn dám kêu oan sao!?”.

Hồ Thành tiếp tục bị tống giam. Còn thi thể không đầu của nạn nhân chưa được xác nhận kia phải xử lý thế nào? Sau một hồi đắn đo, huyện lệnh Phí Nghi hạ lệnh mượn tạm một gian nhà cỏ của thôn dân vùng phụ cận để cất giữ và sai nha dịch canh giữ nghiêm nhặt; không cho bất kỳ ai tiếp cận. Đồng thời một cáo tri được dán khắp nơi, thông tin cho dân chúng trong vùng về vụ án và yêu cầu ai là thân nhân của ngươi bị hại hãy đến huyện đường, làm thủ tục nhận lãnh.

Qua mấy ngày vẫn không có động tĩnh gì.

Một hôm bỗng nhiên có một thiếu phụ khoảng 20 tuổi đến nha môn, xưng là vợ của người đã chết. Người vợ trẻ này khá xinh đẹp, ăn mặc tề chỉnh, nói năng nhẹ nhàng. Cô ta bảo nghe đồn có cáo thị nên đến nhận chồng.

Phí Nghi lập lức thăng dường, hỏi: “Chồng ngươi tên gì?”. Người phụ nữ lễ phép: “Thưa, chồng dân nữ tên Hà Giáp”. Mặc dù còn trẻ và ở hương thôn nhưng cô ta khá bình tĩnh, thần sắc khá tự tin, ngữ điệu rõ ràng chứ không lúng túng như phần lớn người nhà quê khi đối diện với quan chức. Vừa quan sát thiếu phụ, viên huyện lệnh vừa đặt câu hỏi: “Chồng ngươi sinh sống bằng nghề gì?”. “Dạ thưa, buôn vải. Mấy hôm trước, chồng dân nữ mang theo mấy trăm lạng kim ngân đi Hồ Nam với hy vọng phát tài. Không ngờ Hồ Thành nổi lòng tham, giết chết chồng tiện thiếp, đoạt hết kim ngân. Hy vọng đại nhân điều tra, vì dân phụ, trả công bằng cho người bị hại”. Vừa nói, phụ nhân vừa dùng tay áo gạt lệ. Suy nghĩ giây lâu, Phí Nghi chất vấn: ''Người xem cáo thị rồi đến đây phải không?”. “Dạ, không! Tiểu phụ nhân không biết chữ, chỉ nghe người đồn đãi mà biết được và tìm đến công đường”. Huyện lệnh hỏi: “Cáo thị chỉ bảo có người bị giết; ngươi chưa có dịp quan sát thi thể nạn nhân, sao dám khắng định đó là chồng mình?”. Phụ nhân ngừng khóc: “Nguyên dân phụ nghe nói Hồ Thành giết người, cướp của mấy trăm lạng kim ngân, chưa dám khẳng định người bị giết là chồng mình. Nhưng hôm qua gặp người lân cận đã nhìn thấy thi thể. Theo miêu tả, độ cao và y phục nạn nhân giống hệt chồng dân nữ. Nên hôm nay đến xin nhận diện!”.

Phí Nghi nghiêm sắc mặt bảo: “Cho dù là như thế, nhưng một khi chưa quan sát thi thể người chết thì khó mà định luận”. Nhưng người phụ nữ vẫn khăng khăng cho đó chính là chồng mình nên huyện lệnh đích thân đưa cô ta tới "thảo phòng” ở Nam Sơn. Đối chiếu lời khai của phụ nhân và y phục trên thi thể, quả đúng là chồng nàng. Phí Nghi cho phép nàng tới gần để nhận diện chồng. Người phụ nữ chỉ bước tới 2 bước, rồi dừng lại khóc ngất, nước mắt như mưa. Trước tình cảnh thương tâm ấy, Phí Nghi cũng động lòng. Khi bước ra khỏi căn nhà cỏ, vị huyện lệnh nói rõ từng tiếng một với thân nhân người bị hại: “Hiện nay hung thủ đã bị bắt, chờ xét xử. Nhung thi thể không hoàn chỉnh, chiếc đầu không biết kẻ gây án đã ném ở đâu. Ngươi cứ yên tâm trở về. Khi nào chiếc đầu kia được phát hiện, ta sẽ phái người đến thông báo và vụ án sẽ được phán xét!". Người vợ gật đầu cám ơn rồi trở về nhà.

Trở lại nha môn, Phí Nghi ra lệnh thủ hạ mở cửa ngục, đưa Hồ Thành tới và trách cứ: “Nhân thân của người bị hại đã tới báo án và chính ta khám nghiệm thi thể. Lời khai hoàn toàn xác thực. Ta yêu cầu ngươi nội trong ngày mai phải giao nạp chiếc đầu của nạn nhân. Nêu không đúng hẹn, người sẽ bị chặt cả 2 chân!”. Hồ Thành đứng chết lặng.

Ngày hôm sau, nha dịch đưa Hồ Thành tìm kiếm chiếc thủ cấp ở khắp đồng ruộng, mương gò, bờ bãi. Nhưng anh ta trở về tay không. Trước tình hình đó, huyện lệnh Phí Nghi nghiêm sắc mặt yêu cầu nha dịch chuẩn bị hình cụ. Lập tức nha dịch mang đầy đủ các dụng cụ tra tấn bày trước công dường khiến Hồ Thành phải hồn phi phách tán. Trước lời cầu xin tha mạng của Hồ Thành, Phí Nghi dịu giọng: “Ta nghĩ sau khi giết người trong đêm tối, ngươi hoảng loạn, không biết vứt chiếc đầu nạn nhân ở đâu. Tại sao ngươi không cố bình tâm nhớ kỹ lại để tìm ra?”. Thấy huyện lênh có vẻ ôn hoà, Hồ Thành khẩn khoán đề nghị triển hạn thêm mấy ngày. Trầm ngâm một lát nhung Phí Nghi không đáp ứng lời yêu cầu đó ngay, chi ra lệnh nha dịch giam Hồ Thành vào lao ngục tử tù.

Ngày thử 3, phụ nhân đến nha môn nghe ngóng tin tức, Huyện lệnh Phí Nghi bảo: “Vẫn chưa tìm thấy chiếc đầu của chồng ngươi". Và hỏi thêm: “Ngươi có mấy con rồi?”. Người phụ nữ trả lời ngay: “Dạ thưa, dân phụ chưa sinh nở”. Phí Nghi hỏi tiếp: “Hà Giáp có ai thân thuộc không?”. Phụ nhân không do dự: “Chỉ có một biểu thúc (chú họ)”. Tỏ vẻ xúc động, huyện lệnh hảo: “Ngươi là một thiếu phụ còn quá trẻ, phải mất chồng ở tuổi thanh xuân, tình cảnh thật đáng thương. Không biết rồi cuộc sống sẽ ra sao?”. Nghe nói thế, bất giác phụ nhân đưa tay áo che mặt, khóc lớn. Phí Nghi an ủi: “Tội sát nhân của Hồ Thành đã xác định, không còn nghi ngờ gì nữa. Chỉ cần tìm được chiếc đầu, vụ án sẽ kết thúc. Sau vụ án, ngươi có thể đi bước nữa vì tuổi còn xuân sắc. Là một thiếu phụ xinh đẹp mà ngươi ra vào cửa công thường xuyên như vậy, e sẽ có tiếng dị nghị không hay. Cứ để khi nào có kết quả, ta sẽ phái người đến thông báo, bất tất phải đến thăm dò...”. Nghe thế, phụ nhân vô cùng cảm động, cúi đầu xin lỗi và rời huyện nha.

3.

Để sớm kết thúc vụ án như đã hứa, huyện lệnh Phí Nghi cho nha dịch dán cáo thị khắp các thôn trang. Cáo thị nói rõ kẻ sát nhân Hồ Thành do hành động trong đêm tối và do tâm trí hoảng loạn nên không còn nhớ đã vứt chiếc đầu nạn nhân ở đâu. Do dó ai tìm được sẽ được trọng thưởng 1.000 đồng. Chỉ sau một đêm, có người cùng thôn với Hà Giáp, tên Vương Ngũ, đến nha môn, xin ra mắt Phí Nghi.

Phí Nghi hỏi: “Ngươi đến có chuyện gì?”. Vương Ngũ nhanh nhẹn: “Tiểu nhân đến vì chuyện... dâng đầu... Chiếc đầu cần thiết để ngài có thể kết thúc vụ án”. Huyện lệnh đích thân mở chiếc bao trên tay Vương Ngũ. Đúng là một chiếc đầu người, mặc dù dã rữa thịt nhưng diện mạo vẫn còn phân biệt được. Phí Nghi ra lệnh vời người dại diện ở thôn của Hà Giáp và người vợ nạn nhân đến nhận diện. Cả hai đều xác nhận đúng là Hà Giáp.

Thế là Phí Nghi thưởng cho Vương Ngũ 1.000 đồng đúng như cáo thị đã công bố. Rồi mời biểu thúc của Hà Giáp đến, viên huyện lệnh bảo: “Vụ án coi như đã xong. Nhưng mạng người là trọng, thủ tục phải rất phiền hà, cần phải trình báo lên thượng cấp để kịp phúc thẩm, phê chuẩn, hành hình... Cháu ngươi là Hà Giáp chết rồi, nhưng còn người vợ kẻ xấu số thì không có nơi nương tựa. Cô ấy còn ở tuổi thanh xuân, vì thế ta đề nghị ngươi với tư cách chú họ, phải tìm nơi xứng đáng để nàng tái giá, có nơi cậy nhờ. Như vậy từ đây về sau quan phủ không có gì phải lo...”. Vừa lắng nghe vừa suy nghĩ người chú cảm thấy khó xử vì không tán thành biện pháp ấy nhưng cũng không dám phản đối quan huyện. Thấy thế, Phí Nghi nghiêm sắc mặt, trách cứ ông ta mấy câu. Người chú họ định ngẩng đầu lên phân bua nhưng chưa kịp mở miệng thì Phí Nghi lại nghiêm giọng quở trách. Vì thế ông ta sợ hãi chấp thuận yêu cầu của huyện lệnh.

Sau khi nghe rõ sự việc, phụ nhân đến nha môn bái tạ Phí Nghi. Vị huyện lệnh Truy Xuyên tỏ ra thân thiện và dịu dàng an ủi người vợ bất hạnh của kẻ bị sát hại.

Mấy hôm sau, Phí Nghi loan báo khắp thôn trang ai muốn cưới vợ của Hà Giáp, đều có thể đăng đường trình báo. Mệnh lệnh vừa dược loan truyền, lập tức có người tới xin cưới thiếu phụ vừa mất chồng này. Ai nấy đều có cảm giác anh ta đến thật sớm, nhanh hơn tất cả. Khi thăng đường. Phí Nghi nhận ra ngay anh ta chính là Vương Ngũ.

Vừa thấy Vương Ngũ, Phí Nghi đã gật gật đầu, cho gọi phụ nhân tới và hỏi: “Hung thủ giết chồng ngươi đúng ra là ai, ngươi biết không?”. Thiếu phụ đáp: “Hồ Thành". Phí Nghi vỗ bàn, hét lớn: “Không đúng! Hung thủ đích thực, đó là ngươi và Vương Ngũ”. Hai người lập tức quỳ xuống, kêu oan.

Huyện lệnh huyện Truy Xuyên điềm tĩnh lại và nói như đinh đóng cột: “Ta đã sớm biết rõ chân tướng của sự việc này nhưng vẫn phải thận trọng để tránh oan sai. Lúc đầu khi nghiệm thi, thi thể nạn nhân để trong nhà cỏ; ngươi chưa nhìn qua, sao có thể khẳng định người chết đó là chồng mình. Ta bảo cần phải tận mắt xem qua, người vẫn nhất quyết như vậy, điều đó chứng tỏ ngươi biết trước việc chồng mình bị giết. Vả lại khi khám nghiệm thi thể, y phục của chồng người rất tầm thường, xem qua thì biết ngay là người bần khó. Thế thì làm sao mang theo trong mình mấy trăm lạng kim ngân?”.

Rồi quay sang Vương Ngũ, huyện lệnh phân tích: “Làm sao ngươi có thể tìm thấy chiếc đầu của Hà Giáp nhanh như vậy? Chỉ có biết chỗ chôn giấu mà thôi! Vì sao ngươi đến nhanh nhất để xin cưới người đàn bà này? Vì ngươi đã rất thân với vợ của người bị hại...”. ★

Hết


Sách tương tự