
Mẹ Tôi
Tổng số chương: 1
Tôi nhìn thấy cái chết của tôi ở nơi mẹ tôi. Tôi thấy bà ngồi đó, trên bậc cửa, buổi sáng, nhận tin dữ về tôi từ một người lạ. Mẹ tôi mảnh người, giọng nói cao và thanh, giờ đây tuổi già có làm bà thay đổi, nhưng không nhiều lắm. Các con tôi không có gì phải sợ hãi. Chiến tranh đã qua và chúng sẽ sống trong hòa bình. Mẹ tôi nói thế, khi ngồi têm trầu cho người bạn gái cũ đến thăm. Đó là sau khi bà sinh ra tôi, sau hiệp định đình chiến Geneve. Trên biển, tôi nghĩ về mẹ. Khi anh tôi mất, mười năm trước, mẹ tôi khóc ba mươi ngày, ba mươi đêm. Những người đàn bà Việt Nam đã khóc quá nhiều trong đời họ. Mẹ tôi đóng cửa lại, thu dọn căn phòng của bà sạch sẽ. Ngày hôm qua, buổi chiều khi đi thăm đồng lúa về, nghe tin anh tôi mất, mẹ tôi lảo đảo ngã xuống trên bậc cửa. Một hồi lâu, đưa tay dụi mắt rồi đứng lên, không chịu để ai dìu mình. Mẹ tôi không nói gì, không hỏi gì nữa, sai tôi bưng trà cho khách, rồi bà lặng lẽ đi làm công việc. Người báo tin ra về. Không ai nói gì thêm. Ngôi nhà im lặng. Tôi chờ đợi. Tôi đã thấy điều ấy một lần, khi lên sáu tuổi. Bây giờ, khi mọi thứ xong, trong góc buồng tối của mình, kín đáo, yên tĩnh, mẹ tôi ngồi đó, hoàn toàn im lặng. Trước đó bà đi thắp nhang trên bàn thờ. Bà quỳ xuống, thả buông mái tóc dài ra, cầu nguyện. Mẹ tôi cầu nguyện điều gì, tôi không biết. Những năm chiến tranh bà thường cầu nguyện cho cha tôi, cho các con trai con gái bà được bình yên, cầu nguyện hòa bình cho đất nước. Mẹ tôi cầu nguyện cho sự trở về của đứa con trai của bà.
Nhưng bây giờ bà cầu nguyện điều gì nữa?
Không còn một điều gì để cầu nguyện, đúng không?
Đúng.
Đối với một người đã chết, tôi cầu nguyện gì cho họ?
Tôi cầu nguyện cho một đời sống khác.
Ở đâu?
Không một nơi nào.
Không có một nơi nào yên nghỉ cho những người chết trên biển?
Không.
Trong một ngày mùa đông, tôi đứng hơ tay trên bếp lửa, mùi khói từ một thanh củi ướt, mùi cá nục trong nồi kho ớt xanh liu riu, mùi cơm gạo mới thơm lịm người, vào lúc ấy tôi nhìn thấy mẹ tôi đưa tay dụi mắt. Tôi nghĩ khói làm cay mắt mẹ. Nhiều năm sau, một lần đứng dưới ngọn đèn đường, trong sương mù Vancouver, khi tôi vừa đặt chân xuống phi trường, tôi bỗng nhớ lại hình ảnh ấy, mùi cá kho, mùi khói từ thanh củi ướt, tôi nhớ ra rằng thực ra hôm ấy mẹ tôi đang khóc. Căn nhà im lặng. Chỉ có hai mẹ con trong không gian mờ tối, tiếng tắc kè ngoài vườn kêu từng chặp. Tôi muốn nghe lại tiếng tắc kè ấy. Tôi hiểu sự đau khổ của mẹ tôi dồn lại ở đó, ở cái tiếng kêu kỳ quặc. Khi còn bé, tôi thường được phép lẩn quẩn gần mẹ.
Tôi nhìn thấy bà hai vai rung lên vì tiếng khóc, khi dì tôi mất. Mẹ tôi để yên cho tôi ngồi đó. Bây giờ tôi đã lớn, tôi không thể ngồi thế được nữa. Tôi chỉ đi vào phòng một lần mang nước lọc cho bà rồi đi ra, không muốn bà biết rằng tôi muốn lắng nghe. Tôi tập chú ý, và trong không gian yên tĩnh của căn nhà vắng vẻ, tôi nghe được tiếng động thầm lặng ấy, tôi hòa làm một với nó, tôi đi cùng mẹ tôi trên con đường của bà, đi qua những khúc quanh và ngã rẽ. Tôi nghe tiếng chim hót lúc nửa đêm, một con chim về muộn hót cuối cùng. Trên biển, giờ đây chỉ có tiếng sóng vỗ ì ọp vào mạn thuyền. Tôi ngồi đó, nhìn sâu vào sự yên tĩnh của đêm trắng. Trên biển, mây dày đặc mà không mưa là còn bay đi nữa. Cuộc sống một trăm năm cũng có thể một ngày, biển giờ đây mang tôi trở lại cố xứ. Giờ này trong đêm, nhà cũ có một bông hoa lài mới nở trắng bên thềm.
Càng khuya những bông hoa càng nở trắng. Hoa được sinh ra cho những người thương khó, an ủi họ, nâng đỡ họ. Tôi nhìn thấy mẹ tôi đi qua vườn, đặt tên cho những cây ổi và cây cam, những cây chanh và cây mận của bà, cho phép chúng có khả năng trò chuyện và nhớ lại giữa những lau lách mọc đầy vườn sau chiến tranh, khi khu vườn còn hoang dại. Tôi nhìn thấy một bụi hoa mà tôi không rõ tên bỗng nở dưới chân bà, lấp lánh sáng trăng. Tôi nhìn thấy nước. Chúng ta chết mang theo không phải chỉ thân xác mình, mà còn mang theo những đời sống khác, những kiếp trước, những người khác, tình yêu của họ, ký ức của họ, sự mong ước của họ dành cho tôi, sự xúc động mà bạn gieo xuống trong lòng họ trong một khoảnh khắc. Khi bạn chết, bạn muốn mang theo những thứ ấy. Mang qua cánh cửa nước nhưng chúng vẫn còn nguyện vẹn, như trong túi áo. Tôi tin vào điều ấy. Tôi tin rằng tôi sẽ mang mẹ tôi đi. Tôi nhìn thấy đời sống của mình, tan rã, trở lại. Tôi cúi người xuống thật thấp qua mạn thuyền, chờ những cơn sóng lớn, nhúng tay vào nước. Tôi đưa tay lên nếm. Nước biển mặn chát, tôi không thể uống được. Cảm giác được uống làm tôi thèm khát. Tôi nghĩ đến một người tình mà tôi không thể ôm ấp, nàng đứng đó ngay trước mặt tôi, âu yếm nhìn tôi, nhưng tôi không thể chạm tay vào được. Chúng tôi ngăn cách bởi một làn nước giữa thế giới vật chất và phản vật chất. Tôi ngửi thấy mùi vị của nước, mùi của muối, mùi của cái chết lẫn giữa sự sống. Nước rửa sạch tôi, làm tôi được sinh ra trở lại, nâng tôi lên và cuối cùng dìm tôi xuống mãi. Giờ đây ý tưởng của tôi đầy nước muối mặn, đầy sự chết, đầy ý nghĩa của sự chết, mắt tôi mờ đi. Tôi nhận ra rằng nước biển chính là những giọt lệ của mẹ tôi, tích tụ qua hàng ngàn năm, của những người phụ nữ mất con trên thế gian này.
Nguyễn Đức Tùng