
Người điên
Tổng số chương: 1
Mặc Đỗ tên thật là Đỗ Quang BÌNH, sinh năm 1920 tại Hànội, trong một gia đình tiểu tư sản, nặng căn bản và kiến thức Nho học.
Ông học xong chuyên khoa (Luật?) nhưng không hành nghề vì không thích một cuộc sống nề nếp quá. Định vẽ nhưng rồi chọn viết. Bài đầu tiên đăng trên Ngọ Báo (Hà Nội) vào cuối những năm 30. 1945 vào làm báo ở Saigon. 1952-1953 lại ra Hà Nội cộng tác với tạp chí Phổ Thông, cơ quan văn hóa của Hội ái hữu cựu sinh viên trường Luật (Chủ nhiệm: Lê Văn Ky, chủ bút: Vũ Quốc Thúc). Trên tạp chí này, ông viết những bài khảo luận ký tên Đỗ Quang Bình, những bài dịch thuật ký tên Mặc Đỗ, Đ.Q.B. Truyện "Một giấc mơ" của Vicky Baum đã được Mặc Đỗ dịch đăng ở đây, tháng 8/1952 (cũng lúc này, Vũ Khắc Khoan đăng vở kịch "Giao thừa"). Đến 1954, ông vào Sàigòn, cùng Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng tái lập nhóm Quan Điểm. Tác phẩm của ông giai đoạn này đều do Quan Điểm ấn hành. Về sau, ông cộng tác các nxb. Cảo Thơm, Đất Sống in tác phẩm. Ông cũng có cộng tác với tạp chí VĂN: Văn số 208/1972, Số đặc biệt giới thiệu Truyện ngắn Hồi Giáo, 10 tác giả Arập từ thế kỷ VIII đến XX do ông dịch và giới thiệu.
.
Sau 1975, ông định cư ở Mỹ.
Về sáng tác, nếu không kể "Động phù vân" - kịch thơ, và "Về Nam" - kịch đăng trên Phổ Thông 1953, sau 1954 ông có in:
- "Bốn mươi". Quan điểm 1956, 1958.
- "Siu cô nương". Quan điểm 1958.
Ông có truyện ngắn đăng trong tập "Đất đứng" cùng 14 nhà văn độc lập khác do Quan điểm xuất bản.
Ông có giới thiệu những tập tân truyện "Mùa pháo xiết" 19?; "Gió" 19? và 1 vở kịch "Mã Hiệu" 19?
Sáng tác của ông ít và tự ông cũng thấy là không thành công mấy, không để lại dấu ấn gì. Nhưng về dịch thuật, ông là một dịch giả có tài, đã Việt hóa được các tác phẩm văn học thế giới nổi tiếng.
Có thể kể:
- "Lão Ngư ông và biển cả"(E.Hémingway). Quanđiểm 1956; Cảothơm 1965; Đất sống 1973-1974.
- "Con người hào hoa" (F.S.Fitzgerald). Quanđiểm 1956
- "Một giấc mơ" (Vicky Baum). Cảo Thơm 1966 (nxb.Hội Nhà Văn in lại, 2003)
- "Người vợ cô đơn" (F.Mauriac). Cảo Thơm 1966; Đất sống 1973 (nxb.Hội Nhà Văn in lại 1997)
- "Thời nhỏ trong gia đình Luvers" (B.Pasternak). Tập san Văn 1967
- "Tâm cảnh"(A.Maurois). Tập san Văn 1967
- "Anh MÔN" (A.Fournier). Cảo Thơm 1968
- "Vùng đất hoang vu" (L.Tolstoi). Đất Sống, 1973
- "Giờ thứ 25" (Georghiu). Đất Sống, 1973
Ông còn viết một tập biên khảo "Thần nhân và thần thoại Tây phương", nxb.Trương Vĩnh Ký, Saigon 1974.(nxb. Văn hoá Thông tin in lại, 1995)
(theo: sachxua.net)
Người Điên
Trên xe từ nhà ông giáo sư trở về ông chủ tịch cứ trở mình hoài, đôi lúc lại thở dài một cái mạnh. Cậu con trai lái xe ngồi bên phải quay lại hỏi cha:
– Hôm nay hội họp ra sao, có vấn đề gì lôi thôi chăng, cha bực bội không vui?
Ông bố thở dài thêm cái nữa rồi mới đáp:
– Có vấn đề gì đâu! Tao bực mình chính bởi chẳng có vấn đề gì hết!
Đến lượt cậu con trai ngạc nhiên, vội hỏi tiếp:
– Cha nói con chẳng hiểu. Không có vấn đề thì càng khỏe cho hội, tại sao cha lại bực mình?
Ông chủ tịch đang ngả mình trên ghế, đầu gối trên nệm nhỏ, bèn nhỏm dậy, biểu tỏ sự kinh ngạc được tăng cường vì đang bực mình bằng cách đập mạnh vào cánh tay con, và hỏi:
– Tao cứ tưởng mày đã hiểu rõ những hoạt động của tao từ một năm nay, không ngờ mày chẳng hiểu gì cả.
Cậu con liền cãi:
– Con hiểu lắm chứ. Cha với các vị tai mắt ở đây ngồi lại quy tụ những đồng bào tị nạn có thiện chí để thực hiện mục đích kết tập lực lượng tị nạn địa phương, tạo một khối đoàn kết để bảo vệ và tranh đấu cho quyền lợi người tị nạn, đồng thời làm cây cầu liên lạc chính thức giữa người tị nạn và chính quyền cũng như các đoàn thể, tổ chức địa phương.
Hội cũng chủ trương duy trì và phát huy nền văn hóa bốn ngàn năm của dân tộc Việt Nam chống lại chủ trương phi dân tộc, giai cấp đấu tranh của cộng sản. Đó con hiểu công việc của cha lắm.Những điểm vừa kể cha trình bày đâu đó trong bài diễn văn trước đại hội cha đọc thử ở nhà đến ba bốn lần cho mẹ với tụi con nghe, con nhớ kỹ lắm, từng điểm một.
Nghe cậu con trai kể ra vanh vách những điểm cao đẹp trong chủ trương của hội đoàn mà ông đang lãnh đạo ông chủ tịch ngả đầu trở lại trên gối, miệng mỉm cười, bực bội xem chừng cũng nguôi ngoai. Chờ cho cậu con nói hết ông mới nhỏ nhẹ đáp:
– Tao rất mừng thấy con tao hiểu rõ cái đích sáng chói mà tao đang đi tới. Nhưng khi nãy tao bảo mày chẳng hiểu gì cả vẫn đúng. Mày hiểu rõ mục đích của hội nhưng không hiểu hoàn cảnh của hội. Hoàn cảnh làm tao bực mình. Hội mình chính thức ra đời mới được chín tháng. Ngay từ khi còn ở trại tạm cư tao đã nghĩ tới, vì thế tao mới đứng ra xin nhận công việc trưởng trại. Định cư ở đây rồi thì tao chưa kịp đứng ra hô hào vì những lủng củng sắp đặt đời sống mới. Tao chậm chân thành ra Công giáo họ tụ tập lại sớm nhất nhờ có các linh mục hướng dẫn, Tin lành cũng vậy, rời rạc như Phật giáo nhưng chậm chân họ cũng tụ tập được. Bởi sẵn óc chia rẽ, nghi kị lẫn nhau, mỗi tôn giáo một hội đoàn, phân chia rõ ràng in hệt như thời chính trị lợi dụng tôn giáo ở Sàigòn. Tao với bác giáo sư bàn đi bàn lại mãi nảy ra ý kiến tuyệt vời: 'tị nạn không phân biệt tín ngưỡng phải đoàn kết lại trong mục đích tương trợ'. Vì thế tao mới tung ra Liên hiệp Tương tế. Tao phải nát óc mới nghĩ ra cái tên thật hay. Liên hiệp tức là gõ cửa nào cũng lọt, tương tế đặt thẳng ngay vấn đề xã hội, dễ bày ra chương trình, kế hoạch, tha hồ nắm được những nguồn tài trợ. Nhất định phải thành công, kết nạp hết mọi đồng bào tị nạn trong vùng. Chủ trương không phân biệt tín ngưỡng và đi thẳng vào lãnh vực tương tế còn hi vọng gây nên những khuynh hướng tương tự ở các nơi khác, sau này tổng hợp lại được thì lực lượng lớn ghê lắm. Tao cứ ra sức hoạt động, nhờ trời cho sống được lâu sau khi đã thành công dân Mỹ, khi đó tao sẽ liệu cách nhảy ra chính trường, biết đâu đó, tao có đủ khả năng. Mục đích của tao thật lớn rộng. Nhưng bực một nỗi vì ra đời chậm, bao nhiêu cơ hội các hội đoàn kia nắm giữ mất hết. Vấn đề to lớn nhất đặt ra cho hội là phải thu hút, thu hút thật nhiều. Tao đã sắp đặt rất khéo, lăngxê hội vào dịp Tết với một chương trình văn nghệ thật xôm kèm theo một tiệc trà miễn phí. Mày có biết tao với bác giáo sư, bác nghị sĩ, bác đại tá tỉnh trưởng, bác giám đốc, bác y sĩ–dân biểu, chi hết bao nhiêu không?
Bị chạm đúng nỗi bực ấp ủ chưa nguôi, cậu con vội nhảy nhổm hỏi:
– Sao hồi đó cha bảo không phải là tiền riêng, ban sáng lập đi quyên được để tổ chức lễ ra mắt? Những món khác, con không biết, riêng khoản giấy máy bay khứ hồi, tiền thù lao, khách sạn và ẩm thực cho nhóm ca sĩ, con thấy quá nặng. Thằng bạn con quen với một người trong nhóm nói với con rằng họ cười hô hố với nhau, được du lịch không mất tiền, được cung phụng đầy đủ, ra về còn đem theo được một món. Hồi đó con cần bảy trăm mua cái xe, nói mãi cha chẳng cho, cha để tiền đóng góp vào những chuyện gì đâu!
Bao nhiêu bực bội trong bụng ông chủ tịch vừa mới nguôi ngoai bị câu nói thống trách của cậu con khiến cho ùn ùn trở lại. Ông hét lên trong xe:
– Mày ngu quá! ngu quá! đem việc lớn của tao ra sánh với chuyện vặt. Hồi đó tao không cho mày tiền mua xe riêng vì sợ mày dùng xe ẩu, đâu phải tại tao thiếu tiền.
Người con trai biết mình hớ, chọc giận bố sẽ có hại, bèn lái câu chuyện trở lại đề tài cũ:
– Con xin lỗi cha. Tại hồi đó con thèm cái xe rẻ, đến bây giờ vẫn tiếc, thằng bạn con thua bạc mới bán, bảy trăm bạc làm sao mua được cái xe gần như mới. Thế cha bảo không có vấn đề lại là vấn đề, cha thử nói rõ cho con biết, không chừng con có ý kiến gì giúp cha được.
– Vấn đề bây giờ vẫn là phải thu hút. Mày biết rồi đó, bữa hội ra mắt trong dịp Tết thu hút được đông nhưng thiên hạ cốt đến để xem văn nghệ và ăn Tết không mất tiền, mười người đến không được một người ghi tên nhập hội. Sau phải bày đủ cách lôi kéo rốt cuộc tới nay vẫn chưa đầy một trăm hội viên trong một vùng quy tụ có tới mười ngàn đồng bào tị nạn. Tao với các bác trong ban quản trị ra sức dõi theo cơ hội tổ chức thu hút thêm nữa nhưng có những dịp ngon lành như đòi nhân quyền, chống đàn áp tôn giáo ở Việt Nam hội mình chưa hoạch định xong phương thức làm lớn chuyện thì hội đoàn khác đã âm thầm lo xong trước.
Tao bực mình vì lẽ họ làm yếu quá mà cứ tranh làm trước, mình nhảy ra sẽ mang tiếng vuốt đuôi, kết quả cũng không hơn. Để khoa trương thanh thế cho hội tao với các bác đang tính ra một tờ báo. Đoàn thể mà không có báo là hỏng. Tiền vốn, người trông nom đã tạm thu xếp xong. Bài vở không lo vì ban quản trị toàn những tay viết lách được, ai cũng thích có dịp đưa tên lên mặt báo, tham vọng rất có lý, đáng khuyến khích. Hội chỉ còn thiếu một tay nhà nghề đứng lo việc điều hành và bày những mánh lới câu độc giả, có nhiều độc giả mới dễ thu hút hội viên. Ban quản trị đã tìm được một ông làm báo nhà nghề, nhưng suốt từ sáng, có mặt cả ông làm báo nhà nghề mà không tìm ra được một đề tài vừa ăn khách vừa đáp ứng đúng mục tiêu đặt ra để gây chú ý ngay từ số đầu.
Tao với bác giáo sư đồng ý phải gián tiếp đả phá mấy hội đoàn sẵn có. Không ra mặt đả phá vì làm vậy sẽ mang tiếng tiếp tay cho cộng sản phá hoại sự đoàn kết giữa tập thể đồng bào tị nạn. Cái khó là vừa đề cao vừa bày ra được những bất lực của các hội đoàn kia để từ đó lôi kéo hội viên của họ về với mình qua những bài tuyên truyền cho chủ trương mở rộng, bất phân tín ngưỡng, của hội mình.
– Cha tính vậy con nghĩ cũng không khó lắm, vì con thấy kết quả của những hội đoàn kia chẳng đáng kể.
– Đã đành, nhưng phải tìm ra bằng cớ đích xác họ có bất lực, bất lực vì thiếu thiện chí, kém tổ chức, chứ không phải vì hoàn cảnh không cho phép.
Cậu con trai không có ý kiến gì thêm thì vừa lúc xe về tới nhà. Tư gia của ông chủ tịch là một ngôi nhà biệt lập ở trong khu cư xá yên tịnh. Cái bụng của ông chủ tịch đã nặng nề từ thời Sàigòn làm chủ hai tiệm báo chế và một ‘labô’ lớn có tiếng bây giờ càng nặng thêm do hậu quả của tình trạng đồ ăn và thức uống Mỹ nhiều hơn Sàigòn. Hai vạt của chiếc áo màu cát hung hung vàng không đủ khép kín phía trước. Khó khăn chui ra khỏi cửa xe, ông chủ tịch phải vịn vào thành xe để đứng thẳng dậy, rồi chậm chạp bước vào nhà. Phu nhân của ông chủ tịch thường nói với các con rằng thày tướng bảo ông có dáng đi của người làm lớn.
Bà chủ tịch còn trẻ lắm, thua chồng đến hai mươi tuổi, nghe tiếng chồng về tơi tả chạy ra đón.
– Mình ơi, em xuống tận dưới phố mua tôm hùm về làm cho mình ăn bữa tối đó.
Ông chủ tịch rất thích tôm nhưng bữa trưa tại nhà ông giáo sư chưa tiêu hết, bà chủ tịch chỉ nhận được một đáp ứng nhạt nhẽo:
– Ờ!
Tẽn tò nên giận, bà chủ tịch quay lưng trở vào bếp, để mặc ông chồng ngồi bệt xuống chiếc ghế bành, hai mắt lim dim nghỉ mệt.
Bữa tối gia đình của ông bà chủ tịch, cậu con trai và cô con gái út, rất đầm ấm như thường lệ quanh chiếc bàn tròn kế cận khu bếp. Hai ly rượu giải mệt đã giúp ông chủ tịch thấy ngon miệng trở lại và vui đời như thường ngày. Bà vợ kể chuyện mới nhận được thư của cô cháu than thở đời sống gia đình lủng củng từ ngày tưởng rằng bắt đầu an cư trên đất Mỹ. Vợ con bắt đầu an cư thì người chồng nhận thấy không đem theo được khung cảnh và nếp sống quá ưu đãi ở Sàigòn, càng phô trương bằng cấp và địa vị cũ càng bị từ chối việc làm, phải học lại theo nhu cầu mới thì học không nổi và cũng tại lười biếng nữa, kết cuộc đâm ra uất hận, lầm lì gặm mãi những u ẩn trong bụng bắt sang oán vợ oán con, nổi điên, đánh vợ đánh con, chửi bới om sòm từng chập rồi lại tỉnh.
Ông chủ tịch đáp:
– Suy ngẫm kỹ tôi càng tin lý số, có ông thày số bảo rằng số chú Ba xấu vì âm dương phản bội, chú ấy kẹt lại, chạy được thằng con trai thì qua đây lại điên rồ như vậy. Đã nói đến số thì đành chịu chứ biết làm sao. Như tôi với bà, số mình đã tốt lại hợp tuổi, thành ra thời vận đến mình làm giàu nhanh như thế, trọn vẹn cơ sở làm ăn ở Hànội phải cúng cho cộng sản mà cũng không yên phải chạy vô Nam, vậy mà chẳng bao lâu lập lại được một tiệm bào chế, rồi thêm tiệm nữa, rồi mở ‘labô’. Hồi tôi bán trụ sinh cho bọn ngoài bưng ai cũng ngăn, bảo làm vậy là tiếp tay cho địch dễ gặp lôi thôi to, tôi đâu có nghe vì tôi tin số tôi vững. Bà thấy không, đã chẳng sao hết còn phất lên gấp mấy lần trước.
Mình buôn bán thì cách nào cũng làm được hết, còn lập trường chống cộng của mình vẫn rõ rệt. Địch tới thì tôi chạy chứ đâu có ở lại, tiền bạc sẵn có, số tốt là cứ tốt à, khỏi lo.
Bà chủ tịch cười thật tươi, cái gì chớ tin tưởng nơi số tốt thì bà tin không kém chồng. Nhưng cô con gái mới mười bảy xem ra không tin lý số, thích suy luận theo lẽ phải, cãi:
– Con nghĩ rằng nhà mình gặp may mắn thì đúng hơn, cũng nhờ thời cơ nữa, con nhớ hồi đó chẳng có thằng cha đại tá ở phủ Tổng thống tìm đến nhà mình kiếm chuyện với cha về vụ bán trụ sinh cho Việt cộng là gì. Cha may gặp bọn tham nhũng đòi chia, cha chịu chia mới yên, nếu không may gặp thứ khác là có chuyện liền...
Cô con gái ngu dại ăn nói lăng quăng, ông chủ tịch vội trừng mắt, gạt phứt:
– Thôi đi, con nít đừng nói nhảm!
Quay qua bà vợ kiếm một hướng nói chuyện khác, ông chủ tịch hỏi:
– Thế con vợ thằng Hai có lo chữa chạy cho chồng nó không? Thằng Hai như vậy là bị dépression nerveuse rồi đấy, phải lo chữa mới được.
Bà vợ gật đầu chưa kịp đáp thì cô con gái đã cướp lời:
– Mẹ thấy chưa? Cha nói giống hệt như con. Đọc báo con thấy nói nhiều người tị nạn chịu không nổi hoàn cảnh depressing đâm ra lãng trí. Ngay tại đây cũng có một trường hợp. Bạn con kể chuyện một người thanh niên tị nạn về đây học CETA suốt mấy tháng trời không hề tìm gặp hay nói chuyện với một ai, suốt ngày lầm lũi một mình...
Cậu con trai từ nãy lặng lẽ thưởng thức con tôm rất to của mình, chợt bung lên, quay lại với cha:
– Cha ơi! con nghĩ ra rồi, trường hợp cho báo của cha khai thác. Làm cách nào tìm được người thanh niên đó, bơm cho hắn nói rằng về đây chẳng được đoàn thể tị nạn nào săn sóc...
Ông chủ tịch mừng quýnh, đập mạnh cả hai bàn tay xuống bàn, la lên: Eureka!
Vội quay lại với cô con gái:
– Con ơi! Tên tuổi người thanh niên tị nạn là gì? Ở đâu?
Con ghi đầy đủ cho cha, cần thiết lắm, không thể chậm trễ được.
Cô gái đáp:
– Con phải hỏi bạn con, nghe nói chuyện như vậy rồi con cũng bỏ qua đi.
Ông chủ tịch không dằn được bồn chồn, vội tiếp:
– Con phải hỏi ngay đi cho cha. Lái xe tới, hay điện thoại có được không?
Bà chủ tịch từ nãy ngơ ngác, chẳng hiểu câu chuyện và đầu đuôi sự cần thiết đột ngột của chồng ra sao cũng can một câu:
– Chuyện cấp bách đến đâu thì mình cũng để cho con ăn xong bữa đã chứ. Đi đâu mà gấp dữ vậy!
Cô gái biết ý cha hay cáu nếu bị can ngăn việc gì bèn đỡ lời:
– Con ăn xong rồi. Mẹ quên rằng con bị allergy ăn tôm không được ư? Để con đi điện thoại ngay, nếu bạn con có nhà chắc hỏi được liền.
Máy điện thoại đặt ngay gần bếp. Cô gái vừa trao đổi với bạn được hai câu đã không giấu nổi ngạc nghiên:
– Mày đọc lại hộ tao cái tên coi... Dư... Văn... Tài, tên quen quá! Chắc chắn họ Dư, phải không? Họ Dư ở Việt Nam đâu có nhiều, trùng cả họ lẫn tên, thế mới lạ! Mày bảo rằng có gặp người đó một lần, vậy mày thử mô tả hình dáng giùm tao. Gầy, mặt dài, cao, rất cao, hai con mắt sáng... long lanh sáng...? Thôi đúng rồi. Thế bữa mày gặp nói chuyện thì thấy thuộc loại nào?... Có vẻ ăn học?... Trung úy Công binh ư? Nếu vậy thì đích thị! Cho tao địa chỉ của gã đi,.. ừ, tao ghi đây...
Từ nãy, khi cô em đang nói chuyện trong máy, cậu trai chăm chú nghe, hai mắt sáng rỡ vì mừng. Cô em ghi xong địa chỉ trên tấm giấy cầm lại cho cha, người anh liền hỏi:
– Đúng thằng Tài, phải không? Cha hên thật, lại thêm một dịp hên nữa!"
Ông chủ tịch đọc mảnh giấy cô con gái vừa đem lại rồi hết ngó con trai lại quay ra ngó con gái, gương mặt tròn đỏ gay vì rượu cộng thêm với nét nửa mừng nửa ngạc nhiên do những lời vừa nghe tạo nên một vẻ hề chỉ có tay nhà nghề bậc thượng thừa mới tạo nên nổi. Cậu con trai khôn ngoan bình thản cướp lấy cơ hội:
– Thưa cha, vụ này con có thể lo cho cha được lắm. Tên Dư Văn Tài này là bạn của con, nó học địa chất rồi đi làm hãng dầu, dân mới thiếu vây cánh nên không được giữ lại phải động viên vô Công binh. Cha để con bắt liên lạc với nó, con sẽ tới thăm nó. Tờ báo của cha sẽ có một loạt bài ăn khách về người thanh niên tị nạn cô đơn. Cha cho phép con bao thầu vụ này, cả bài lẫn hình ảnh. Nhưng chỉ xin cha với các bác... chi cho con một món kha khá.
Phản ứng đầu tiên của người thanh niên tị nạn là mừng rỡ la lên khi biết người ở đầu dây là một thằng bạn cũ chơi với nhau cả chục năm trời. Từ hồi định cư tại đây, và sau khóa huấn luyện về máy nổ và nông cơ tại thành phố đông đúc trở về vùng trơ trụi hẻo lánh này, những lúc làm việc một mình Tài thường nói tiếng Việt, những đoạn đối thoại tưởng tượng có tình tiết như những đoạn kịch. Nhưng mình nói cho mình nghe âm hưởng chỉ vang động trong trí tuệ, giống như khi đọc những vở hát in thành sách. Tiếng nói của người bạn cũ từ xa vọng đến gây nên rung động nơi tim, gợi nhớ lại những kỷ niệm tuổi trẻ cùng vui chơi lếu láo với nhau. Tài thật sự mừng rỡ khi thoạt đầu nói chuyện với bạn. Cảm tưởng lâng lâng của kỷ niệm chợt nhớ đã nhạt bớt khi bạn nói chuyện quá dài, biểu tỏ quá nồng nhiệt nỗi mừng tìm thấy nhau và sự háo hức muốn đến để được gặp. Hai người chơi rất thân cả một thuở thiếu thời rồi trở nên kém thân hồi sau này bạn có nhiều tiền, có xe hơi riêng, và thường rủ Tài đi ăn chơi quá tốn kém đối với túi tiền của bọn sinh viên. Nghe bạn kể lể một lúc lâu, khi đặt máy xuống sau lời bạn hẹn sẽ đến Tài đã quên mất những kỷ niệm tươi mát, chỉ giữ lại một cảm tưởng thiếu thoải mái thường có hồi sau này chẳng hạn những khi bị bạn ép uống quá nhiều rượu và bạn trả tiền. Tài đã không thể từ chối đề nghị tới chơi của bạn, từ chối thì thấy vô lý và tưởng như tự do của mình bị xúc phạm. Nhưng Tài phải thành thật nhìn nhận rằng có bạn hẹn đến thăm chỉ thêm thắc mắc, phải bận tâm nghĩ ngợi. Nỗi mừng gặp lại bạn cũ không đánh đổ được vấn nạn: Tại sao thằng bạn đó lại sốt sắng đòi tới gặp đến thế?
Đối với Tài biến cố tháng tư chỉ là một dữ kiện không thể lường nổi. Tuy Tài chỉ là một quân nhân bất đắc dĩ, ở trong quân ngũ chưa lâu lắm, tuổi trẻ đã là điều kiện tốt để Tài cảm thông được với những đồng đội đa số cùng lứa và đồng tâm trạng, cũng như quán triệt được những yếu tố căn bản của hoàn cảnh đất nước. Biến cố đến như mưa lũ, Tài thấy chỉ có một cách tầm thường nhất nhưng cũng hợp lý nhất là bỏ chạy đi, thoát thân. Tài đã nhảy lên chiếc trực thăng của mấy người bạn Không quân và từ đó thả trôi trên dòng phiêu lưu tị nạn. Nhưng đến một lúc Tài thấy cần quyết định, Tài đã yêu cầu tổ chức bảo trợ lựa cho một nơi nào hẻo lánh nhất. Người trẻ tuổi tiểu tư sản đó trong những đêm dằng dặc nơi trại tạm cư đã suy ngẫm đến dầm dề nước mắt. Và quyết định không để cho cuộc phiêu lưu trước mặt mang một chút tàn tích nào, một vang bóng nào của những năm tháng, những thập niên, những thế kỷ suy đồi đã qua. Cứ phải mang nặng tấm hình hài tội lỗi của riêng mình, hằng ngày phải nhìn thấy nét mặt chiến bại của mình trong gương cũng đủ phát khóc rồi.
Thị trấn Tài lựa chọn để tới định cư gồm ba nông trại với một dân số tổng cộng mười chín người lớn và bốn trẻ nhỏ. Ba chòm trang trại ngó thấy nhau tụ lại thành thị trấn bên lề con lộ hai chiều trải đá. Mở xòe cánh quạt ở bên này là vùng đất đai canh tác của ba nông trại, mé bên kia xa lộ thuộc về thị trấn khác. Chủ nhân của chòm trang trại nằm gần xa lộ nhất cũng là chủ nhân của cây xăng kèm một tiệm bách hóa bỏ túi, cơ sở thương mại duy nhất trong vùng. Nông gia kiêm thương gia này cũng kiêm luôn chức vụ chính trị của một thị trưởng.
Ông thị trưởng nhận bảo trợ cho Tài vì đọc thấy thành tích của Tài là một sĩ quan công binh, trẻ tuổi, độc thân, một người đáp ứng đúng nhu cầu địa phương hiện đang thiếu một chuyên viên về máy nổ và nông cơ. Nhưng ông bảo trợ đã lầm, sĩ quan công binh không rành công việc của sĩ quan quân cụ. Tài đã thẳng thắn nói thật như vậy ngay buổi đầu tiếp xúc, nhưng cũng nhìn nhận rằng có khả năng về cơ khí. Gia đình bảo trợ sơ kiến đã có cảm tình với người tị nạn trẻ tuổi ít tham vọng nhưng tỏ ra nhiều nghị lực và nhiệt tình. Ông bảo trợ từ chối đề nghị của Tài bảo sẵn sàng đi kiếm nơi định cư khác, hẹn sẽ thu xếp để Tài có thể học nghề thích hợp với tương lai mà ông đã trù liệu Tài sẽ thực hiện được tại đây. Vậy mà cũng phải mất nhiều tháng sau, khi Tài trở nên khá thông thạo công việc ở nông trại, ông thị trưởng mới liên lạc xong và ghi tên cho Tài theo học khóa huấn luyện chuyên môn tại một thành phố lớn cách đó gần bốn trăm dặm. Bây giờ Tài nắm hết sinh mạng của những dụng cụ cơ khí thuộc ba nông trại trong vùng, có trục trặc không phải đưa đi hay gọi người tới sửa ở cách đó hơn hai mươi dặm. Trạm xăng trở thành một xưởng sửa xe bất thường mỗi khi có xe cộ nào trên xa lộ bị hư hỏng ở gần đó và người lái xe ngỏ lời cầu cứu.
Ông bảo trợ và gia đình rất hài lòng và tỏ ra sòng phẳng với Tài. Riêng Tài cũng bằng lòng với hoàn cảnh mới. Tương quan giữa Tài và gia đình bảo trợ đã tốt đẹp, Tài cũng đã quen hết mọi người trong thị trấn. Có một vài cô gái đã đặt vấn đề về người trai trẻ phương xa dễ hòa nhập với xã hội mới. Tài có nhiều giờ hằng ngày một mình làm việc và tha hồ nói tiếng Việt một mình.
Chiếc xe màu trắng bụi đường không làm mờ bớt nước kền bóng loáng chạy vòng tới mé sau quán xăng không đậu lại bên hai cây bơm phía trước. Không phải du khách ghé đổ xăng thì đúng là thằng bạn đã hẹn đến. Chiếc xe mới và lịch sự gợi nhớ lại sự thừa thãi hồi nào của bạn, Tài uể oải đứng lên bước ra giữa nắng trưa đổ lửa. Khoảng trống mênh mông hừng hực ánh sáng. Thằng bạn từ trong xe mới chui đầu ra vội la lên một tiếng. Tài hiểu sự khác biệt đập vào mặt như thế nào giữa không khí máy lạnh trong xe và nhiệt độ
102 của vùng trung nguyên giữa trưa nắng cháy này, và thấy thương cho bạn đã lặn lội tới thăm, Tài thốt gọi tên bạn– "Khánh!" rồi chạy tới ôm lấy lưng bạn. Trong vòng tay Tài Khánh phải ngửa cổ lên mới ngó thấy mặt Tài và hỏi:
– Tại sao mày lại nhè cái lò lửa này để chui vô ở? Tài cười vang, chậm rãi đáp:
– Gần hai năm nay tao không hề có ai tới thăm, nhưng tao đã đợi thế nào người đến cũng sẽ hỏi một câu như mày. Quả đúng vậy! Riêng tao thấy đã chọn đúng ý muốn, tao vừa ý với nơi này lắm, ở đâu quen đó.
Khánh xì một tiếng đáp:
– Quen sướng chứ ai muốn quen khổ! Tao nghĩ mày có dư điều kiện để chẳng khổ như thế này.
Tài không đáp, kéo bạn đi tới ngôi nhà nhỏ mái bằng nhô dài ra phía trước, hình thể quen thuộc của những trạm xăng, chỉ khác một điểm bề mặt không sáng nước sơn như những trạm khác nơi thị tứ. Ông thị trưởng đứng đợi hai người ở trước cửa. Sau câu giới thiệu của Tài, Khánh không ngạc nhiên bao nhiêu với bàn tay thô mạnh bóp đến đau tay mình, với hình thù và trang phục như một nhân vật từ trong phim chăn bò miền Tây bước ra, với cú vỗ vai niềm nở Khánh phải đứng tấn mới chịu nổi.
Chẳng trao đổi một câu khách sáo nào với người mới đến, ông thị trưởng kéo Tài và Khánh đi vòng ra mé sau quán, đi ngang qua căn nhà gỗ nhiều bề dài dựng liền sau lưng quán xăng, qua một khu bóng mát với những gốc bách hương đại thụ, tới ngôi nhà lớn nền cao. Bước lên nhiều bậc thang gỗ rồi tới một hàng ba rộng chạy dài suốt mặt tiền, ông thị trưởng ngừng bước trước khung cửa rộng hai cánh lớn một mở một khép. Bà vợ ý hẳn đã biết và đang chờ khách lạ, từ trong nhà bước ra. Tài giới thiệu bạn một lần nữa. Bà chủ trại cũng đưa tay bắt, sự chào đón không vũ bão như ông chồng. Liên tiếp sau, cô con gái ông thị trưởng, rồi hai cậu con trai lớn mồ hôi nhễ nhại, đều chạy ra chào đón người bạn của Tài.
Ông thị trưởng kết thúc cuộc giới thiệu, nói với Tài và Khánh:
– Bây giờ hai người trở lại quán xăng nói chuyện. Tôi phải đi một lát. Chiều nay gia đình tôi sẽ mời ông khách ăn bữa tối.
Cuộc tiếp xúc đơn giản có vậy. Đưa bạn trở lại quán xăng Tài nín lặng bước, chẳng muốn do mình hướng dẫn câu chuyện vì thật tình sau bao lâu không gặp lại cảm thấy chẳng có gì đáng nói với bạn, càng không muốn đề cập tới đời sống hiện tại mà Tài coi như một lựa chọn hoàn toàn riêng tư. Khánh khôn ngoan chờ Tài tâm sự rồi mới dẫn bạn tới mục đích đã định, cho nên cũng nín thinh không khơi chuyện. Tài đành hỏi một câu xã giao:
– Gia đình mày đi được hết chứ? Tao để ý thấy phần đông người có phương tiện đều thoát cả.
Khánh đáp:
– Gia đình tao có bốn người lúc chạy đi cũng dễ. Ông anh cả tao đã ở đây từ trước. Thế còn gia đình mày?
– Ông cụ bà cụ tao đã mất từ mấy năm trước. Các ông anh bà chị người chạy được người không. Tao cũng chẳng quan tâm mấy, rằng ai đi được ai không. Nếu có tổ chức thì ai cũng muốn đi hết, không có tổ chức nó thành ra một vụ rút số may rủi, có ý nghĩa gì trong sự may rủi mà thắc mắc tìm hiểu!
– Đành rằng thế, quan tâm đến nhau vẫn hơn. Tới đây tao lo liên lạc kiểm điểm những bà con anh em ai thoát ai không. Tao cứ đinh ninh mày kẹt lại vì chẳng thấy ai nói gặp mày ở đâu. Mãi hôm kia tình cờ tao mới biết mày ở đây. Vội đến thăm, xem nơi ăn chốn ở của mày ra sao.
Tránh tâm sự, Tài bỏ qua không bắt chuyện với Khánh, dẫn bạn vô trong quán, lấy cho bạn một lon nước lạnh. Mỗi người ngồi duỗi dài trên chiếc ghế bành gọng thép, tay cầm lon nước lạnh, quay lưng ra bên ngoài nắng chói.
Nhận thấy khó khơi chuyện, Khánh đành phải tấn công trước:
– Mày biết không? Tao chưng hửng khi biết mày đã ở ngay tại thành phố của tao tới ba tháng mà tao chẳng gặp.
– Dễ hiểu lắm. Tao tới đó học một khóa CETA, chỉ lo học, còn thì giờ nào ngoài thì tao vùi vào đọc sách, đến thư viện thấy sách mà mê, đọc làm sao cho hết những sách muốn đọc. Ông bảo trợ của tao mướn được cho tao một căn phòng nhỏ bỏ không ở ngay gần nơi học, đủ tiện nghi tối thiểu. Hơn ba tháng ở đó tao cứ đều đều, ngày thì hot dog, hamburger, fried chicken hay pizza, chiều tối về chui vô sleeping bag đọc sách tới khuya. Chẳng phiền nhiễu đến ai hết. Suốt ba tháng chỉ xảy ra có một vụ tao thấy có hơi bất nhẫn nhưng chẳng thế nào khác hơn được. Một hôm bất ngờ tao gặp cô em gái một thằng bạn, cô bé du học rồi gia đình bị kẹt ở lại Sàigòn, trơ vơ có một mình ở đây, gặp tao cô bé mừng qua cứ túm lấy, chắc tại tao đáp lại nhạt nhẽo quá cho nên cô bé giận.
Khánh vội ngắt:
– Hoài?
Tài gật đầu. Khánh tiếp:
– Chính Hoài chỉ cho tao tới đây. Hoài còn can ngăn tao đừng đi. Mày bảo cô bé giận là đúng. Hoài bảo mày... điên.
Tài phá lên cười:
– Không phải chỉ một mình cô bé ấy bảo thế, nhiều người khác gặp tao hồi đó cũng nghĩ rằng tao điên, tao điên thật không chừng.
Khánh đưa mắt dọ mãi xem Tài có lộ vẻ bi phẫn qua câu vừa nói không. Thấy nét mặt Tài vẫn bình thản Khánh nói tiếp:
– Có hai điểm tao không thể hiểu được mày ––mày đừng quên rằng tao chơi với mày đã lâu và dám tự hào là biết cái tính của mày. Tao không hiểu tại sao chạy qua đây mày lại đến cái vùng sa mạc này để sống; thứ hai, có dịp tới thành phố đông đảo đồng bào mà mày lại ẩn núp chẳng tiếp xúc với ai, như thế kéo dài tới hơn ba tháng?
Tài không đáp liền, ngần ngại mãi mới nói:
– Có thể là tao điên thật, cũng có thể là tao chủ trương khác với số đông, thiên hạ bèn cho là điên. Tao chỉ nghĩ rằng, một khi tao không phiền nhiễu đến ai thì không ai cần quan tâm tới tao.
Khánh nhổm lên:
– Nhưng tao thì có quyền, tao vừa nhắc lại, tao chơi với mày đã khá lâu, ít nhất mày cũng cần giải thắc mắc cho một thằng bạn cũ.
– Tao không đợi mày phải gọi đến tình bạn để ép tao phải nói, tại vì có nói ra cũng vô ích. Mày đòi biết, tao không từ chối. Ba tháng ở thành phố tao đã mua đọc hầu hết sách báo tị nạn, nhiều người nói đến đổi đời. Bỏ chạy ra khỏi nước trong trường hợp những người tị nạn đúng là đổi đời. Tao khác số đông những người đồng cảnh vì tao muốn hiểu sự đổi đời đến cái mức tuyệt đối. Tao muốn đổi thật sự, không bấu víu lấy một cái gì cũ, ngoại trừ một điểm, tao không bao giờ quên tao là người Việt Nam. Tao tuyệt đối rũ bỏ hết những cái hình thức mà người ta ôm lấy để lừa dối mình, ru ngủ mình, cho rằng không quên. Tao chọn cuộc sống ở đây vì nó giúp tao luôn trực diện với tao, con người thảm hại phải bỏ chạy. Nó giống như một người trần truồng đứng ở trước gương mà soi mói từng chút. Muốn đổi đời, tao tìm một cách thế thích hợp với tao nhất, tao làm cách gì, mà cũng cần gì phải thế, để giải thích với kẻ khác cái thái độ đặc biệt của tao? Như thế đã đủ trả lời hai điểm thắc mắc của mày chưa?
Khánh gật gù ngẫm nghĩ một lát rồi mới nói:
– Tao hiểu, trong cương vị cá nhân của mày. Nhưng mày đừng quên rằng đa số những người khác cần dựa vào nhau để cố giữ lấy cái thực thể của mình.
– Tao không phủ nhận điều đó. Nhưng đọc rất nhiều báo chí tị nạn –tao không có dịp tiếp xúc với nhiều cá nhân cho nên phải lấy báo chí coi như phản chiếu sinh động nhất cái thực tế tị nạn–đọc báo tị nạn và quan sát đồng bào trong thời gian ở trại, tao thấy rằng đổi đời chỉ thu gọn trong ý niệm bỏ nhà, bỏ của cải, bỏ đời sống, khung cảnh quen thuộc cũ, để nhảy vào một hoàn cảnh sống mới lạ, với những điều kiện khó khăn, một ý niệm rút ra từ những sự kiện. Đổi đời như vậy chưa phải là đổi, phải đổi con người của mình trước đã. Con người không đổi, chỉ đổi cái đời chung quanh, những con người đó tụ lại sẽ tái diễn cái đời cũ với một ít hình thức mới. Đọc báo tao buồn cười nhất là thấy những ông có tên tuổi lắm, cũng bỏ chạy như ai, nhận định về hoàn cảnh đất nước toàn đề cập tới những yếu tố khách quan, quên đứt đi yếu tố chủ quan cơ bản của vấn đề, đó là con người Việt Nam đầu mối của bao nhiêu suy đồi chồng chất đưa tới cảnh cả nước biến thành một trại tập trung phục vụ cho Quốc tế Cộng sản.
Thuyết một hơi, Tài tự nhiên ngưng bặt, kinh ngạc tại sao lại hăng nói đến thế. Chính Tài hằng ngày còn thấy khó khăn chế ngự con người của mình, hi vọng gì thuyết phục được những con người khác mà hăng nói! Khánh càng không phải là người để thuyết phục. Tài bèn vội vã rút về trong nỗi sa mạc mênh mông nắng cháy của mình.
Thái độ đột ngột thay đổi của Tài cũng khiến cho Khánh bỗng dưng cảm thấy cái nóng ở chung quanh lên đến một độ chịu không nổi. Khánh ngửa cổ uống hết lon nước ngọt, rồi quay lại với bạn:
– Thôi, gặp lại nhau, nhìn thấy nhau đủ sức khỏe, đời sống yên ổn, thế là tao yên tâm. À, em Kim Chi của tao có gửi lời thăm mày. Về tao sẽ báo cáo là mày sống ở đây sung sướng lắm, chỉ phải cái tội nóng thôi. Mày cho tao về. Nói hộ với ông bà chủ trại tao có lời chào và cám ơn đã định cho tao ăn tối nay.
Tài không ngỏ lời giữ bạn ở lại chơi, đứng lên theo, cùng bước ra ngoài nắng, đưa bạn trở lại chiếc xe đậu dưới tàn cây. Tài nói với bạn:
– Chịu khó mở kính một lát cho thoáng gió. Cũng phải chạy một thôi xa máy lạnh mới làm mát trở lại được.
Khánh được ông chủ tịch đặc biệt cho dự một phiên họp của ban quản trị để báo cáo về chuyến du thuyết không thành. Khánh tỉ mỉ kể lại từng chi tiết. Địa thế nơi Tài chọn đến ở thì ai cũng đã biết. Chi tiết về cuộc nói chuyện ngắn ngủi giữa hai người bạn cũ Khánh lập lại không thiếu một lời.
Kết luận, Khánh giải thích tại sao đã đột ngột bỏ ý định thực hiện dự tính làm một thiên phóng sự về người tị nạn trẻ tuổi cô đơn:
- Con phải bỏ về vì có hai điểm con chợt thấy không thể giải đáp được: Ở lại thêm với Tài liệu con có chịu nổi cái nóng và khung cảnh sống ở đó không? Và giả thử con chịu được biết đâu con sẽ chẳng bị Tài thuyết phục ngược lại, vì con biết con hãy còn trẻ lắm, trẻ như Tài.
Ông chủ tịch đang bị vụ thất bại của con đẩy trở lại ngõ bí, nghe thấy con nói vậy bèn nổi xung:
- Thôi im đi! Nó đã điên như thế mày cũng điên theo ư!
Mặc Đỗ