
Những người phụ nữ làm thay đổi thế giới
Tổng số chương: 52
Tôi đã không hề phân vân bỏ ra hẳn hai buổi liền để đọc một mạch bằng hết năm mươi câu chuyện trong cuốn sách Những người phụ nữ làm thay đổi thế giới của soạn giả Nguyễn Bích Lan. Không phải chỉ vì tôi có may mắn đã ít nhiều quen biết soạn giả, mà những câu chuyện ở đây quả thực có sức hấp dẫn, mỗi câu chuyện đều đem lại cho tôi thêm hiểu biết, thêm niềm tin tưởng vào lòng tốt của con người, cái đẹp của cuộc sống, và niềm tự hào cùng với yêu kính, trân trọng đối với người phụ nữ - người mẹ của nhân loại. Lại nữa mỗi câu chuyện ở đây đều được kể một cách ngắn gọn, hàm súc, không trùng lặp, nhàm tản…
Cho đến nay, hình như nhiều người trong chúng ta mới chỉ ít nhiều biết đến tên tuổi cũng như sự nghiệp sáng tác của nhà thơ lớn thế kỷ XIX trong văn học Anh George Gordon Byron ( Bairơn, 1788- 1824). Có lẽ, cũng như tôi, ít ai lại ngờ rằng con gái nhà thơ, Augusta Ada Byron (1815- 1852), với cống hiến khoa học đáng kể cho tiến bộ của nhân loại, có thể nói, cũng là một nhân vật lớn. Hóa ra con gái của nhà thơ chính là người đã đóng góp khá nhiều để chúng ta ngày nay có được cái máy tính hiện đại- với nó ta “có thể giải phóng những phép tính phức tạp nhất, có thể đánh máy tài liệu, vẽ những bản vẽ thiết kế, lưu hóa đơn, soạn giáo án, nghe nhạc, chơi trò chơi, gửi thư hoặc trò chuyện trực tiếp với bạn bè hoặc người thân của bạn đang ở cách xa hàng nghìn cây số, thậm chí sản xuất một bộ phim v.v…”. Chính câu chuyện mở đầu tập sách này cho ta được biết điều đó.
Lần lượt các câu chuyện khác trong sách kể cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ tương tự, hoặc có nhắc lại đôi điều, có thể mọi người từng biết ở dâu đó, nhưng đọc lại trong một tổng thể vẫn làm ta xúc động.
Ngoài Augusta Ada Byron, ta được biết bao nhiêu người phụ nữ khác cũng thật sự là tài giỏi, quả cảm, có một tấm lòng nhân ái bao la: Sofia Kovalevskaia (1850- 1891), nhà toán học người Nga, vượt bao nhiêu khó khăn của lề thói lạc hậu phân biệt đối xử nam nữ của xã hội đương thời, trở thành nhà khoa học- tác giả công trình “Nghiên cứu áp dụng toán học vào giải bài toán chuyển động của khối chất rắn ngay cả khi trọng tâm của nó không nằm ở trục của khối”. Thành tựu nghiên cứu của bà đã giải quyết được bao nhiêu khó khăn trong ứng dụng khoa học vào đời sống. Những năm qua nhiều nhà khoa học nữ của Việt Nam hàng năm được nhận giải thưởng Kovalevskaia chính là một trong những biểu hiện của người đời ghi công và tôn vinh bà. Marie Curie (1867- 1934), một phụ nữ tiêu biểu khác, người Ba Lan, cùng với chồng là Pierre Curie là hai nhà vật lý nguyên tử, xác định được khối lượng nguyên tử của radium, mở ra một triển vọng lớn lao cho loài người sử dụng năng lượng vì mục đích cuộc sống con người. Baulah Louise Henry (1887- 1973), người phụ nữ Mỹ có tới 110 phát minh và 49 bằng sáng chế. Lise Meitner (1878- 1968), nhà khoa học nữ người Đức, đóng góp lớn vào phát minh lý thuyết về quá trình phân giải hạt nhân,v..v…
Hai câu chuyện về hai em gái nhỏ tuổi có lẽ sẽ để lại ấn tượng đặc biệt cho người đọc: Anne Frank, cô bé con một gia đình Do Thái phải trốn tránh cuộc vây giáp, đàn áp của chế độ phát xít, đã qua đời vi bệnh tật và đói khát, không đợi được đến ngày giải phóng, nhưng đã để lại cho loài người những trang nhật ký đầy lạc quan tin tưởng ở ngày mai. Và Sadako Sasaki, cô bé người Nhật đã bị nhiễm phóng xạ do quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima vào những ngày cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai. Nằm trên giường bệnh, tin vào truyền thuyết, cô bé đã kiên nhẫn ngày ngày gập những con nhạn giấy. Bé gập được hơn một nghìn con nhạn giấy mà vẫn qua đời ở độ tuổi mười hai. Cô bé đã không cưỡng nổi số mệnh của mình, nhưng để lại cho thế giới này ước nguyện lớn lao lao về hòa bình.
Nhưng làm người đọc xúc động và ghi nhớ hơn cả có lẽ là những câu chuyện trong sách kể về những tấm gương cao cả vốn có của những người phụ nữ - những người mẹ của nhân loại. Mẹ Teresa (1910- 1997) người gốc Anbani, từ năm mười tám tuổi đã gia nhập nhóm nữ tu ở Ireland và bắt đầu các hoạt động nhân đạo, đi suốt cuộc đời cứu vớt những người nghèo đói, bệnh tật. Công nương Diana Frances Spencer (1961- 1997) tình nguyện nhân đạo giúp đỡ các bệnh nhân AIDS…
Tất cả những người phụ nữ tuyệt vời được nói trong các câu chuyện ở tập sách, trước hết đều là những người có một nghị lực phi thường cùng với một trái tim bao dung, đầy ắp tình yêu, tình yêu đối với đồng loại, tình yêu với cuộc sống, tình yêu với trái đất tươi đẹp này…
Gấp tập sách này lại tôi nghĩ đến người soạn ra nó. Tôi được biết đến nữ soạn giả trẻ tuổi này từ một bài báo đăng từ năm 2001. Dưới tiêu đề Những mảnh đời khuất lấp bài báo hé mở cho người đọc biết về cuộc đời của một cô bé tật nguyền: Cô bé Nguyễn Bích Lan. Đang học dở lớp 8 ở trường phổ thông Minh Tân ( Hưng Hà, Thái Bình), Lan phải bỏ dở học vì một căn bệnh hiểm nghèo. Buộc phải quanh quẩn, xê dịch rất khó khăn trong căn phòng có 10 m2, cô bé Lan ở tuổi mười bốn không chịu an phận: với một nghị lực, một quyết tâm lớn đã tìm ra lẽ sống “có ích cho đời”. Không còn đến được trường cùng chúng bạn, một mình Lan xoay xở tìm mọi cách tự học. Cô tự học tiếng Anh. Có được vốn tiếng Anh cô mở lớp dạy học, lúc đầu cho khuây khỏa, dần dà cô thực sự trở thành cô giáo với 3,4 lớp, hàng trăm học trò. Học trò của cô giáo Lan đều trưởng thành, thi đỗ vào đại học, vào cao đẳng, trong số đó có tám em giờ đây cũng đã thành cô giáo dạy Anh ngữ ở các trường phổ thông. Đến một lúc bệnh tật nặng thêm, không còn đủ sức dạy học, Nguyễn Bích Lan lại tìm được một công việc thích hợp với năng khiếu văn từ nhỏ, cộng với vốn tiếng Anh rèn rũa được trong những năm qua- Bích Lan chuyển sang dịch sách.
Chỉ trong vòng ba, bốn năm, từ cuốn sách dịch đầu tiên, được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 2001- Đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu của em (tác phẩm của nhà văn nữ người Scotland Daisy Thompson), tính đến nay Nguyễn Bích Lan đã có tới mười đầu sách. Hầu như sách của Bích Lan đều được Nhà xuất bản Phụ nữ tín nhiệm xuất bản và được đông đảo bạn đọc hoan nghênh.
Việc dịch sách của Nguyễn Bích Lan mỗi ngày một thêm thuần thục, bài bản. Với công cụ là chiếc máy tính, dịch giả không chỉ dùng thay cây bút, mà tìm tòi học hỏi thêm, tra cứu và giao lưu với cả thế giới bên ngoài rộng lớn. Nhờ nó chất lượng bản dịch dần được nâng cao. Dịch văn học thực ra cũng là một thể loại sáng tạo ngôn từ. Người dịch văn học cũng là cây bút sáng tạo văn chương. Giờ đây điều này tốt đối với Nguyễn Bích Lan đã gần như trở thành sự thật. Cuốn sách biên soạn Những người phụ nữ làm thay đổi thế giới của Nguyễn Bích Lan có thể coi là một minh chứng bổ sung thêm.
Xin vui mừng giới thiệu với bạn đọc một thành công mới của dịch giả Nguyễn Bích Lan, một con người vượt khó đầy nghị lực, đầy tài năng triển vọng, từ một người tưởng như tàn phế đã trở thành cô giáo, rồi thành một dịch giả được bạn đọc yêu mến.
Thúy Toàn
Danh sách chương
- Đôi lời về soạn giả- Dịch giả Nguyễn Bích Lan
- Augusta Ada Byron --(1815- 1852) -CON GÁI CỦA THI SĨ BYRON ------
- Sofia Kovalevskaya (1850- 1891)-TOÁN HỌC – NIỀM KHÁT KHAO BẤT DIỆT -
- Aletta Jacobs (1854 – 1929)-NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN Ở HÀ LAN
- Edith Cavell (1865 – 1915)-CHUYỆN KỂ Ở QUẢNG TRƯỜNGTRAFALGAR
- Emmeline Pankhurst (1858- 1926)-CON ĐƯỜNG TỚI HÒM PHIẾU
- Marie Curie (1867- 1934)-VĨ NHÂN TỪ PHÒNG THÍ NGHIỆM
- Julia Morgan (1872-1957)-NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỂ ĐỜI
- Amelia Mary Earhart (1897-?)-MỘT MÌNH VƯỢT ĐẠI TÂY DƯƠNG
- Maria Montessori (1870-1952)-NHỮNG CON ĐƯỜNG GIEO CHỮ
- Anne Frank (1929- 1945)-MỘT MẢNH TRỜI XANH
- Mary Harris Jones (1830-1930)-HIỆP SĨ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
- Anna Pavlova (1881 - 1931)-THIÊN NGA BẤT TỬ
- Dorothy Crowfoot Hodgkin (1910-1994)-NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẾN TỪ CAIRO
- Agnès Gonxha Bojaxhiu (1910-1997)-MẸ TERESA
- Simone de Beauvoir (1908-1986)-GIỚI THỨ HAI
- Beulah Louise Henry (1887-1973)-MỘT CUỘC ĐỜI VỚI 110 PHÁT MINH
- Helen Keller (1880- 1968)-TÂM HỒN TỎA SÁNG-
- Gabrielle Chanel (1883 – 1971)-NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM ĐẸP CHO THẾ GIỚI
- Lise Meitner (1878-1968)-NHÀ KHOA HỌC CHÂN CHÍNH
- Amy Biehl (1967-1993)-CHẾT CHO MỘT NAM PHI MỚI
- Chiaki Mukai (sinh năm 1952)-HAI LẦN CHINH PHỤC VŨ TRỤ
- Rosa Parks (1913-2005)-NGƯỜI PHỤ NỮ DA ĐEN VÀ CHIẾN DỊCH TẨY CHAY XE BUÝT LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ
- Judy Feld Carr (sinh năm 1939)-LỜI HỨA TỪ TRÁI TIM NHÂN ÁI
- Diana Frances Spencer (1961-1997)-BÔNG HỒNG NƯỚC ANH
- Frieda Fromm Reichmann (1889-1957)-NGÔI SAO CỦA THẾ HỆ F-2
- Alison Hargreaves (1963-1995)-CHINH PHỤC NHỮNG ĐỈNH CAO
- Maryam Bibi (Sinh năm: 1955)-TỰ CỨU MÌNH ĐỂ GIÚP NGƯỜI
- Wangari Maathai (Sinh năm 1940)-NGƯỜI ĐÀN BÀ XANH
- J.K. Rowling (Sinh năm 1965)-PHÉP THUẬT CỦA J.K ROWLING
- Catherine Phiri (1963-2003)-TIẾNG NÓI GIỮA IM LẶNG
- Jerri Nielsen (Sinh năm: 1952)-THỬ THÁCH Ở NAM CỰC
- Judit Polgar (Sinh năm 1976)-NỮ HOÀNG CỦA LÀNG CỜ VUA THẾ GIỚI
- Trương Thụ Cầm (Sinh năm 1949) -NGƯỜI ĐÀN BÀ TRONG HOẠN NẠN
- Julia Hill (Sinh năm: 1974)-THẦN HỘ MỆNH CỦA RỪNG
- Marguerite Barankitse (Sinh năm 1955)-THIÊN THẦN CỦA BURUNDI
- Evangelina Villegas (Sinh năm 1924)-MANG NIỀM VUI ĐẾN NHỮNG CÁNH ĐỒNG
- Adi Roche (Sinh năm 1955)-XOA DỊU NHỮNG NỘI ĐAU
- Anita Roddick (Sinh năm 1942)-MẸ ĐẺ CỦA BODYSHOP
- Wardah Hafidz (Sinh năm 1953)-TẤM LÒNG VÌ NGƯỜI NGHÈO
- Zahra Kazemi (1949-2003)-SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHẾT
- Bethany Hamilton Sinh năm 1990-TRỞ LẠI VỚI NHỮNG CON SÓNG
- Sadako Sasaki (1943-1955)-CÒN ĐÓ ƯỚC NGUYỆN HOÀ BÌNH
- Monica Caison Sinh năm 1970-NHỮNG CUỘC TÌM KIẾM CỦA MONICA
- Inge Genefke Sinh năm 1938-BÁC SĨ KHÔNG BIÊN GIỚI
- Sarah Flannery Sinh năm 1982-CÔ GÁI VỚI NHỮNG THUẬT TOÁN
- Mihiri Tillakaratne Sinh năm 1987-MỘT NGƯỜI VÌ MỌI NGƯỜI
- Ada Aharoni CẦU NỐI HOÀ BÌNH
- Olya Melen Sinh năm 1980-GÌN GIỮ CHO HÔM NAY VÀ MAI SAU
- Mory Sanberg Sinh năm: 1980-THIÊN THẦN TRÊN ĐƯỜNG PHỐ CHICAGO
- Annalena Tonelli (1943-2003)-“TÔI CHẲNG LÀ AI CẢ”
- Hope Bevilhymer Sinh năm 1978-CÔ GÁI MANG TÊN HY VỌNG