
Tam Quốc Diễn Nghĩa
Tổng số chương: 120
Bài Ca Mở Đầu
(Và cũng là bài ca kết thúc)
Sông dài cuồn cuộc ra khơi,
Anh hùng: sóng dập, cát vùi thiên thu...
Dở hay, thành bại nào đâu?
Bể dâu chớp mắt, nghoảnh đầu thành mơ!
Non xanh còn đó trơ trơ,
Tà dương lần lửa sưởi hơ ánh hồng.
Lão tiều gặp lại ngư ông,
Bên sông gió mát, trăng trong, kho trời.
Rượu vò lại rót khuyên mời,
Cùng nhau lại kể chuyện thời xa xưa...
Kể ra biết mấy cho vừa?
Nói cười hỉ hả, say sưa quên đời...
hàm thế cuộc trong thiên hạ (#1), chia rồi lại hợp, hợp rồi lại chia. Tỷ như nhà Châu mất vận, bảy nước phân tranh, sau đó nhà Tần lại gồm thâu về một mối. Rồi khi nhà Tần bị diệt vong, để cho Hán, Sở tranh hùng, và cuối cùng Hán đã diệt Sở để thu về một mối.
Nhà Hán kể từ vua Cao Tổ là Lưu Bang trảm xà khởi nghĩa thống nhất được thiên hạ, giữ lấy ngai vàng cho Đến khi vua Quang Vũ là Lưu Tú quật khởi, giết loạn thần là Vương Mãng, phục hưng cho nhà Hậu Hán (#2), rồi truyền Đến đời vua Hiến Đế thì bị chia làm ba nước. Cái nguyên do rối loạn sau này là do tới hai ông vua Hoàn Đế và Linh Đế.
Vua Hoàn Đế giam cầm các bề tôi trung trực, lại tin dùng bọn hoạn quan, làm cho thế nước bị suy vị Khi vua Hoàn Đế băng hà, vua Linh Đế lên nối ngôi, có quan Đại Tướng Quân Đậu Vũ và quan Thái Phó Trần Phồn cùng giúp việc trị nước. Hai vị tôi thần nầy vốn một lòng trung nghĩa, nhưng bên cạnh lại có bè lũ hoạn quan Tào Tiết chuyên quyền làm bậy. Đậu Vũ và Trần Phồn lập mưu tru diệt bọn này để trừ tai họa cho nước, chẳng may cơ mưu bị bại lộ, hai vị tôi thần nầy đều bị chúng hãm hại.
Từ đó, bọn hoạn quan càng lộng quyền, chúng liên kết với loạn thần tác yêu, tác quái.
Năm Kiến Ninh thứ hai (niên hiệu của vua Linh Đế), tháng tư ngày rằm, nhà vua ngự ra điện ôn Đức, vừa ngồi xuống ngự ỷ, bỗng có một trận cuồng phong rất lớn nổi lên, rồi một con rắn xanh to tướng từ trên sà ngang cung điện rơi xuống nằm ngang trên ngự ỷ. Vua thất kinh ngã lăn ra bất tỉnh, các quan hầu cận phải đưa vua vào nội cung cứu cấp.
Nhưng chỉ trong giây lát, con rắn biến đi đâu mất, trời lại nổi lên một trận cuồng phong dữ dội, mưa tuôn như trút nước. Kế đó, mưa đá lại rơi theo tới hơn nửa ngày, nhà cửa bị hư sập vô số.
Vào tháng hai, năm Kiến Ninh thứ tư, kinh đô Lộc Dương lại bị động đất, rồi nước biển dâng lên tràn ngập cả một miền duyên hải. Dân cư, làng mạc, của cải bị sóng cuốn ra khơi mất tích.
Cũng vào đời vua Linh Đế, vào năm Quang Hòa thứ nhất, tại một vùng thôn dã, có một con gà mái hóa gà trống, rồi đến ngày mồng một tháng sáu, một luồng hắc khí dài hơn mười trượng bay thẳng vào điện ôn Đức.
Cũng vào mùa thu năm đó, trước nhà Ngọc Đường bỗng hiện lên một cầu vồng sáng chói. Sườn núi Ngữ Nguyên bị sụp lở, đất đá đè chết người.
Chỉ trong thời gian mấy năm mà không biết bao nhiêu sự việc ly kỳ xảy ra. Vua buồn bã hạ chiếu hỏi các quan triều thần tới sao có những hiện tượng quái gở như vậy?
Quan Nghị Lang Thái Ung dâng sớ tâu, đại ý nói: "Rắn sa, gà mái hóa gà trống là điềm đàn bà và hoạn quan làm loạn nước... "
Lời tâu rất thống thiết, khiến nhà vua xem xong cũng phải não lòng. Vua chỉ thở dài rồi quay vào thay áo.
Bấy giờ Tào Tiết đứng núp đằng sau vua, xem trộm được tờ biểu, thấy thế tức giận vô cùng, liền bàn mưu với bè đảng của hắn, lập kế gieo tội cho Thái Ung, và cách chức đuổi Thái Ung về làm thứ dân nơi điền lý.
Sau đó bọn Trương Nhượng, Triệu Trung, Phong Tư, Tào Tiết, Hầu Lãm, Kiển Thạc, Trình Khoáng, Hạ Huy, Quách Thắng, tất cả mười người họp nhau xưng là "Thập Thường Thị" chuyên làm điều gian ác.
Vua Linh Đế lại nhu nhược, tin dùng Trương Nhượng như một kẻ tôi trung, việc triều chính đều giao cho Trương Nhượng quyết đoán, Đến nỗi kêu Trương Nhượng bằng "á phụ".
Triều đình càng bê tha thối nát, lòng người muốn nổi loạn, giặc giã khắp nơi dấy loạn lên như ong vỡ tổ.
Bấy giờ, tại quận Cự Lộc có ba anh em họ Trương là Trương Giác, Trương Bảo, và Trương Lương. Trương Giác thi hỏng Tú Tài, không quản đèn sách nữa, ngày ngày vào núi hái thuốc. Bỗng một hôm, Trương Giác gặp một ông lão mặt đỏ như hài đồng, mắt xanh như nước biếc, tay chống gậy lê, kêu Trương Giác vào một hang núi, rồi trao cho ba quyển "thiên thư" và dặn:
- Đây là bộ "Thái bình yêu thuật" ta ban cho con để học. Học được sách này, con phải thay trời mà tuyên hóa, cứu dân độ thế. Còn nếu manh tâm đổi dạ thì sẽ gặt lấy quả báo không nhỏ.
Trương Giác tiếp lấy Thiên thư, bái tạ rồi yêu cầu xin được biết tên ông lão. Ông lão nói:
- Ta chính là Nam Hoa Lão Tiên đây.
Dứt lời hóa thành luồng gió mát bay đi mất.
Trương Giác được bộ sách ấy, ngày đêm tập luyện, chẳng bao lâu đã biết cách kêu mưa gọi gió, và tự xưng hiệu là "Thái Bình đạo nhân".
Vào tháng giêng năm Trung Bình thứ nhất (cũng đời vua Linh Đế), có bệnh thời khí nổi lên, lan rộng khắp vùng. Trương Giác đem bùa phép đi trị bệnh cho dâng gian, lấy hiệu là "Đại Hiền lương sư". Lúc đó Trương Giác lại có dạy thêm được hơn năm trăm đồ đệ, cũng học rành phép bùa chú, nên cả thầy trò chia nhau vân du khắp nơi.
Thấy việc chữa bệnh của Trương Giác có hiệu quả, thiên hạ đồn ầm lên, và rủ nhau theo làm đồ đệ của Trương Giác mỗi ngày một đông thêm.
Trương Giác đem tất cả tín đồ trong thiên hạ chia ra làm ba mươi sáu phường, mỗi phường có hơn một vạn người, và có cử một viên Cừ Soái để cai quản. Rồi Trương Giác lại tự xưng mình là Tướng Quân, coi cả ba mươi sáu phường đó.
Chưa hết, Giác còn phao ngôn để mê hoặc dân chúng rằng: "Trời xanh đã chết, trời vàng nên lên thaỵ Đến năm Giáp Tý, thiên hạ đại cát".
Giác lại truyền cho các tín đồ dùng đất sét trắng viết lên nơi cửa lớn hai chữ "Giáp Tý", và dân cư khắp tám châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, ai muốn được hưởng phước phải viết danh vị "Đại Hiền lương sư Trương Giác" mà thờ.
Trương Giác đã có ý làm phản, nên mật sai đồ đệ là Mã Nguyên Nghĩa đem vàng bạc gấm vóc vào triều lo lót với tên hoạn quan Phong Tư, để nhờ tên này làm nội ứng.
Trương Giác lại bàn với hai người em rằng:
- Cái khó đạt nhất là lòng dân. Nay dân đã thuận theo mình rồi, nếu không thừa cơ đoạt thiên hạ thì đáng tiếc lắm.
Rồi Trương Giác vội vã sắm cờ vàng, khăn vàng để hẹn ngày khởi sự. Giác sai một tên đệ tử là ựường Châu mang mật thư đưa cho Phong Tư, nhưng chẳng may Đường Châu không thích hành động của Giác cho nên chạy thẳng vào tòa Thượng Thư cáo biến.
Thế là việc làm của Trương Giác bị bại lộ. Vua hay tin phản loạn liền triệu Đại Tướng Quân Hà Tiến vào triều, truyền bắt Mã Nguyên Nghĩa đem chém, và hạ ngục cả gia quyến Phong Tư hơn ngàn người.
Trương Giác thấy vậy liền gấp rút khởi binh, tự xưng là Thiên Công Tướng Quân, phong cho Trương Bảo làm Địa Công Tướng Quân, Trương Lương làm Nhân Công Tướng Quân.
Giác lại rêu rao với bá tánh rằng: "Nay vận Hán đã hết, có đại thánh nhân xuất thế, ai nấy thuận trời theo chính, để hưởng thái bình an lộc."
Thế là khắp bốn phương có hơn bốn, năm mươi vạn người đội khăn Vàng hưởng ứng theo Trương Giác làm phản. Thế giặc rất mạnh, quan quân nghe gió đã chạy dài.
Hà Tiến liền tâu với vua cấp tốc sai sứ đến các Châu, Quận truyền lệnh phòng ngự, ngăn địch lập công. Đồng thời sai Trung Lang Tướng Lư Thực, Hoàng Phủ Tung, và Châu Tuấn dẫn ba đội tinh binh chia ra làm ba đường dẹp giặc.
Bấy giờ, giặc Khăn Vàng một đạo do Trương Giác cầm đầu, kéo thẳng đến U Châu xâm lấn. Quan Thái Thú châu này là Lưu Yên vốn dòng tôn thất ở đất Cảnh Lăng, vùng Giang Hạ, là con cháu Lỗ Cung Vương nhà Hán.
Lưu Yên thấy tình thế khẩn trương vội triệu quan Hiệu úy Châu Tĩnh vào bàn kế.
Châu Tĩnh nói:
- Quân giặc đông như nước lũ, quân ta ít không thể nào ngăn nổi. Minh công nên gấp rút chiêu mộ nghĩa binh mới giữ nổi Châu này.
Lưu Yên nghe lời liền treo bảng khắp nơi chiêu mộ nghĩa binh.
Ngày kia, bản văn đưa đến Trác Huyện, dân chúng ra xem đông nghịt. Trong số dân chúng ấy có một vị anh hùng tánh tình khoan hòa, ít nói, mừng giận không lộ ra sắc mặt, nhưng lại có chí lớn, thường kết giao với các anh hùng, hào kiệt trong thiên hạ. Người này mình cao tám thước, hai tai lớn như chày, môi đỏ như thoa son, họ Lưu tên Bị, tự là Huyền Đức, vốn cháu chắt Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu Thắng, tức dòng dõi vua Hiếu Cảnh Hoàng Đế nhà Hán.
Nguyên trước kia, thời Hán Vũ Đế, con trai Lưu Thắng là Lưu Trinh được phong tước Trác Lộc Đình Hầu. Về sau, nhân một buổi tế tông miếu, Lưu Trinh vào dâng vàng hành lễ, chẳng may vàng sắc xấu, bị mất tước Hầu (#3), và từ đấy con cháu mới có một chi dời về Trác Quận lập nghiệp.
Lưu Huyền Đức tức là cháu Lưu Hùng, con Lưu Hoằng. Lưu Hoằng có thi đậu Hiếu Liêm, rồi làm chức Lại, nhưng mất sớm.
Huyền Đức mồ côi cha, thờ mẹ rất có hiếu. Tánh ham đọc sách, nhưng nhà nghèo, Huyền Đức phải làm nghề đóng dép, dệt chiếu để sinh sống. Nhà ông ở tới thôn Lâu Tang, phía Đông Nam có một cây dâu rất lớn, cao hơn năm trượng, đứng xa trông như một chiếc lọng vậy.
Đã có nhiều người đi qua trông thấy câu dâu kỳ dị ấy, từng nói:
- Nhà này ắt sanh quý tử.
Lúc còn nhỏ, Huyền Đức thường chơi đùa với trẻ con trong làng, và thường đứng dưới gốc cây dâu mà nói:
- Tao làm Thiên tử, nên ngự cỗ xe có lọng nầy!
Người chú là Lưu Nguyên Khởi nghe nói thường mắng:
- Cháu chỉ nói bậy.
Tuy vậy, Nguyên Khởi cũng nói rằng:
- Thằng bé này phải là một người phi thường mai sau.
Nhân thấy nhà Huyền Đức nghèo, Lưu Nguyên Khởi tìm cách giúp đỡ để Huyền Đức ăn học. Năm Huyền Đức mười lăm tuổi, được mẹ cho đi du học, thụ giáo Trịnh Huyền và Lư Thực, lại kết bạn với Công Tôn Toản.
Đến nay, Huyền Đức đã được hai mươi tám tuổi, và ngày hôm ấy, khi đọc bản chiêu quân của Lưu Yên, Huyền Đức cảm khái thở dài một tiếng.
Bỗng nghe đằng sau có tiếng người nói lớn:
- Đại trượng phu phải vì quốc gia mà ra sức, chứ than thở có ích gì?
Huyền Đức quay đầu lại, thấy người vừa nói mình cao tám thước, mặt dữ như cọp, mắt ốc tròn xoe, hàm én râu hùm, tiếng nói rền như sấm. Biết không phải là người thường, Huyền Đức liền hỏi thăm tên họ.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Trương tên Phi, tự là Dực Đức, ông cha mấy đời ở nơi Trác Quận nầy làm nghề bán rượu, mổ thịt, vì vậy tôi cũng có chú ít ruộng vườn, thích kết giao những anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, nay thấy ông xem bảng chiêu quân mà than thở nên hỏi thử một lời.
Huyền Đức nói:
- Tôi vốn là người trong thân tộc nhà Hán, họ Lưu tên Bị, đáng lẽ trong lúc giặc "Khăn Vàng" dấy loạn cũng phải góp một phần cứu nước an dân, nhưng vì sức chưa làm được nên đau lòng than thở.
Trương Phi nói:
- Nhà tôi cũng có chút ít của cải, tôi muốn bỏ ra để tuyển mộ một đoàn hương dũng, rồi cùng ông cử đại sự, ông thấy có nên chăng?
Huyền Đức rất mừng, nắm tay Trương Phi dắt vào trong quán rượu đàm đạo. Trong lúc hai người đang đối ẩm bàn thế sự thì bỗng thấy một đại hảo hán đẩy một chiếc xe để ngoài cửa rồi bước vào thét tửu bảo, nói:
- Đem rượu thịt ra đây! Hôm nay ta uống say sưa cho một bữa để ngày mai đầu quân giết giặc.
Huyền Đức liếc nhìn ra cửa thấy người này mình cao lớn chín thước, mặt đỏ như thoa son, mắt phượng mày ngài, tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt.
Biết người ấy cũng là một cái thế kỳ nhân, nên Huyền Đức vội đứng dậy tiếp mời vào ngồi chung bàn và hỏi thăm danh tánh.
Người ấy đáp:
- Tôi họ Quan tên Vũ, tự là Thọ Trường, sau đổi là Vân Trường, người đất Giải Lương, tỉnh Hà Đông. Nhân vì vùng tôi ở có một tên thổ hào ỷ thế hiếp đáp dân lành, tôi nổi giận giết chết nó rồi bỏ đi lánh nạn. Tôi phiêu bạt trong giang hồ đã hơn năm năm, nay nghe có giặc "Khăn Vàng" nổi lên khấy nhiễu, nên muốn đầu quân trừ giặc, cứu an bá tánh.
Huyền Đức cũng đem chí nguyện của mình tỏ bày. Vân Trường mừng rỡ uống ba chung rượu rồi theo Huyền Đức và Trương Phi dắt nhau về trang trại để bàn bạc.
Trương Phi nói:
- Muốn làm nên việc lớn, cốt nhất phải hiệp sức đồng tâm mới được. Sau nhà tôi có một vườn đào đang tiết hoa nở rất nhiều, ngày mai chúng ta đến đó tế cáo trời đất, kết làm anh em.
Huyền Đức và Vân Trường đồng thanh khen phải.
Ngày hôm sau, Trương Phi sai gia nhân mổ trâu đen, ngựa trắng bày đủ lễ trong vườn đào. Ba người đứng trước hương án, vái mỗi người hai cái rồi cùng thề rằng:
"Ba chúng tôi là Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, tuy khác họ nhưng kết làm anh em, quyết đồng tâm hiệp lực, cứu khổn phò nguy, trên báo đáp quốc gia, dưới giúp yên bá tánh. Chúng tôi không mong được sanh cùng năm cùng tháng cùng ngày, chỉ nguyện được chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Hoàng thiên, hậu thổ chứng giám lời này. Ai bội nghĩa bị trời tru đất diệt."
Thề xong, ba người đem so tuổi nhau thì Huyền Đức được làm anh cả, Vân Trường làm thứ, Trương Phi làm em út.
Trương Phi lại sai gia nhân bắt trâu dê trong chuồng đem mổ làm tiệc tới vườn đào, tập trung tất cả dũng sĩ trong vùng đến ăn uống. Dũng sĩ tề tựu có tới hơn ba trăm người, vui say một bữa thật no nê.
Hôm sau, mọi người chia nhau đi thu thập khí giới, mọi việc tạm yên, chỉ hiềm một nỗi còn thiếu ngựa để cỡi.
Trong lúc đang lo tính, bỗng có một người chạy vào báo:
- Có hai người khách thương, cùng đoàn tùy tùng dẫn bầy ngựa khá đông, đang đi về hướng trang trại này.
Huyền Đức nói:
- Đây là trời giúp ta!
Ba anh em vội ra khỏi trại đón tiếp hai người khách thương mời vào trang trại.
Hai người này chính là hai thương gia lớn ở đất Trung Sơn, một người là Trương Thế Bình, một người là Tô Song, hàng năm thường lên mạn Bắc mua giống ngựa khỏe đem về Tràng An bán. Nay vì miền này có giặc nên không thể đem ngựa đi qua được.
Sau khi đã mời được hai vị khách thương vào trại, Huyền Đức hối dọn tiệc đãi đằng, rồi đem ý muốn cứu dân độ thế của mình ra bày tỏ. Hai người khách thương vui lòng hiến cho năm mươi con ngựa khỏe, lại tặng thêm năm trăm lượng vàng bạc, một ngàn cân thép tốt để rèn binh khí và giáp trụ.
Khách cáo từ, Huyền Đức tạ Ơn tiễn chân vài dặm rồi trở về cậy thợ giỏi chế một đôi song cổ kiếm. Vân Trường cũng đánh một cây đại đao "Thanh long yểm nguyệt", gọi là "Lãnh diễm cứ" nặng tám mươi hai cân. Trương Phi rèn một cây trượng "Bát điểm cương mâu".
Ai nấy đều trang bị cương giáp, rồi kéo năm trăm quân hương dũng đến ra mắt quan Thái Thú Lưu Yên.
Lưu Yên hỏi đến danh tánh, ba anh em đều xưng rõ tên họ, riêng Huyền Đức còn nói cho Lưu Yên biết mình là tông phái Hoàng Gia. Lưu Yên mừng rỡ nhận Huyền Đức làm cháu (So theo vai vế thì Lưu Yên thuộc vai chú bác).
Vào thành chưa được vài hôm thì đã có tin quân thám thính về báo:
- Tướng giặc Khăn Vàng là Trình Viễn Chí thống lãnh năm vớn quân kéo đến quấy nhiễu Trác Quận.
Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh dẫn ba anh em Huyền Đức cùng năm trăm quân hương dũng đi trước phá giặc. Anh em Huyền Đức không hề ngần ngại, lãnh quân tiền đạo trực chỉ đến chân núi Đại Hưng, và trông thấy quân giặc cũng vừa kéo đến đó.
Huyền Đức thúc ngựa ra trước trận, bên tả có Vân Trường, bên hữu có Trương Phi yểm hộ.
Huyền Đức giơ roi thét mắng quân giặc:
- Phản loạn, đừng hòng múa rối, hãy xuống ngựa đầu hàng cho sớm.
Trình Viễn Chí nổi giận sai Phó Tướng Đặng Mậu ra đánh. Đặng Mậu vừa nhảy ra đã bị Trương Phi xông đến đâm một xà mâu trúng ngay giữa ngực, ngã lăn xuống ngựa.
Thấy Phó Tướng mình chưa ra tay đã bị hại rồi, Trình Viễn Chí liền múa đao đến đánh Trương Phi, nhưng Vân Trường đã vung Thanh Long Đao cản lại. Uy lực của Vân Trường rất mạnh, Trình Viễn Chí kinh hãi run sợ, trở tay không kịp bị Vân Trường chém một đao đứt làm hai đoạn.
Người sau có thơ khen Vân Trường và Trương Phi như sau:
Anh hùng xuất trận buổi đầu tay,
Một thử xà mâu, một thử đao.
Khí tiết rạng ngời oai lực khét,
Chia ba thiên hạ rạng anh hào.
Quân giặc bị mất chủ tướng hoảng hốt chạy dài. Huyền Đức xua quân đuổi đánh, chúng đầu hàng vô số.
Đoàn quân đắc thắng kéo về thành được Lưu Yên thân hành ra tận bên ngoài tiếp đón và ủy lạo quân sĩ.
Sáng hôm sau, lại có tin giặc "Khăn Vàng" Đến vây phá Thanh Châu, và quan Thái Thú Thanh châu là Cung Cảnh cho người sang cầu cứu. Lưu Yên liền cho mời Huyền Đức đến thương lượng.
Huyền Đức nói:
- Giặc cậy thế đông chia quân khuấy rối, nay U châu đã tạm yên, Bị này xin tình nguyện đem quân để cứu Thanh Châu.
Lưu Yên liền sai Châu Tĩnh đem năm ngàn quân cùng ba anh em Huyền Đức kéo đi.
Giặc thấy cứu binh tới liền chia làm ba đạo, bao vây rất ngặt. Huyền Đức thấy mình ít quân quá, không thể nào cự nổi liền cho lệnh rút quân ngoài ba mươi dặm hạ trại. Đoạn nói với Quan, Trương:
- Muốn phá giặc phải thi hành kỳ binh mới được.
Rồi chia cho Vân Trường một ngàn quân dọn ra phục bên tả nơi chân núi, Trương Phi cũng lãnh một ngàn quân phục bên hữu nơi chân núi.
Sáng hôm sau, Huyền Đức cùng Châu Tĩnh dẫn quân gióng trống tiến đến trới địch. Quân giặc ra nghênh chiến, Huyền Đức giả thua kéo quân chạy về.
Tưởng mình đắc thế, quân giặc ồ ạt đuổi theo. Khi đuổi đến chân núi, bỗng nghe mấy tiếng chiêng báo hiệu, hai toán quân phục của Vân Trường và Trương Phi đồng kéo ra một lượt đánh bộc hậu. Đạo quân của Huyền Đức quay lại tác chiến. Ba mặt đánh dồn, quân giặc đại bại, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng bỏ kết cờ xí, mạnh ai nấy chạy. Huyền Đức xua quân truy kích, đuổi đến thành Thanh Châu thì quan Thái Thú Cung Cảnh hay được tin thắng trận vội mở cửa thành thúc quân tràn ra tiếp ứng.
Nhờ đó mà Thanh Châu được giải vây, quân giặc tản mác hết. Người sau có thơ khen Huyền Đức:
Mưu hay tỏ rõ sức thần công,
Hai cọp suy ra kém một rồng.
Gặp lúc cô cùng, người mới rõ,
Tam phân thiên hạ, xứng anh hùng
Cung Cảnh đón tiếp ba anh em Huyền Đức và Châu Tĩnh vào thành bày tiệc khao thưởng ba quân. Tiệc xong, Châu Tĩnh muốn trở về U Châu, Huyền Đức nói:
- Gần đây, nghe quan Trung Lang Tướng Lư Thực đánh nhau với Trương Giác, chúa giặc Khăn Vàng tới Quảng Tôn. Bị tôi xưa đã từng theo học Lư tiên sinh, nay muốn đến đó giúp ân sư một phen.
Châu Tĩnh bằng lòng, dẫn quân trở về một mình. Ba anh em Huyền Đức đem năm trăm quân bản bộ thẳng đến Quảng Tôn, vào dinh ra mắt Lư Thực, và nói rõ ý kiến mình tình nguyện phá giặc. Lư Thực mừng lắm, lưu ba anh em Huyền Đức dưới trướng để đợi lệnh.
Bấy giờ, Trương Giác có hơn mười lăm vạn quân, chia ra quấy nhiễu nhiều chỗ. Phần Trương Giác thì giữ năm vạn, đang cầm cự tới Quảng Tôn, chưa phân thắng bại.
Lư Thực bảo Huyền Đức:
- Nay Trương Giác bị ta vây ở đây chưa thể làm gì được, nhưng hai người em của nó là Trương Lương, Trương Bảo đang quấy rối ở Dĩnh Xuyên, đối trận với Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn. Nếu quân giặc ở Dĩnh Xuyên mà thắng thế được thì nơi đây ắt bị nguy hiểm. Vậy ngươi hãy dẫn binh mã bản bộ, và thêm một ngàn quân ta cấp, đến Dĩnh Xuyên dò thám tình hình, sau sẽ hẹn ngày cùng đánh.
Huyền Đức lĩnh mệnh, kéo quân đi suốt ngày đêm mới đến Dĩnh Xuyên.
Bấy giờ Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn đang đánh nhau với quân giặc. Giặc núng thế phải rút lui vào Trường Xã, dựa thế một rừng lau rậm rạp để lập doanh trại.
Hoàng phủ Tung bàn với Châu Tuấn:
- Giặc tuy đông, nhưng khờ khạo. Chúng lập doanh trại trong rừng lau, vậy ta nên dùng hỏa công mà đốt.
Liền đó Hoàng Phủ Tung ra lệnh cho quân sĩ mỗi người đem theo một bó cỏ khô kéo đi mai phục. Đêm ấy gặp gió lớn, quân Hán nhất tề phóng hỏa đốt trại. Giữa lúc đó Hoàng phủ Tung và Châu Tuấn dẫn hai ngàn kỵ binh xông vào chém giết. Trại giặc lửa cháy ngợp trời, quân giặc hoảng hốt không kịp mặt giáp lên yên, bỏ chạy tứ tán.
Quân Hán chém giết cho đến lúc trời mờ sáng thì mới thấy Trương Lương, Trương Bảo thu thập tàn quân cướp đường chạy thoát chết.
Quân giặc chạy chưa đầy ba mươi dặm thì lại gặp một tướng mắt nhỏ, râu dài, mình cao bảy thước, đang cầm đầu một đạo quân cắm toàn cờ đỏ, đổ ra chận đánh. Bị trận phục kích thứ hai này, quân giặc bạt vía kinh hồn, lớp thì chết, lớp ôm đầu chạy trốn không còn một manh giáp.
Vị tướng nhỏ vừa xuất hiện chính là quan Kỵ Đô úy, người Tiêu Quận, nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự là Mạnh Đức.
Trước kia, cha Tào Tháo vốn họ Hạ Hầu tên là Hạ Hầu Tung, nhưng sau làm con nuôi quan Trung Thường Thị Tào Đằng nên Hạ Hầu Tung mới đổi ra là Tào Tung. Tào Tung sanh ra Tào Tháo có đặt cho Tháo tiểu tự là A Man, lại có thêm một tên nữa là Cát Lợi.
Lúc thiếu thời, Tào Tháo thích chơi bời, săn bắn, hát xướng, nhưng bản lãnh lại rất mưu mô xảo quyệt. Người chú của Tào Tháo thấy cháu mình du đãng, ham chơi bỏ học nên có nhiều lần phiền trách nói cho Tào Tung biết.
Mỗi lần như vậy, Tào Tung kêu con vào quở mắng, Tào Tháo đem lòng giận chú, mới nghĩ ra một kế.
Một hôm, thấy chú đến chơi, Tào Tháo giã vờ ngã lăn xuống đất, ngất lịm như trúng gió. Người chú thấy vậy thất kinh vội chạy đi tìm Tào Tung báo lại. Lúc Tào Tung chạy ra xem, thì thấy Tháo vẫn đứng chơi không có việc chi cả. Tào Tung ngạc nhiên hỏi:
- Kìa, sao chú con bảo là con trúng gió?
Tào Tháo thản nhiên thưa:
- Từ trước đến nay con có bệnh tật gì đâu? Có lẽ con đã làm điều gì mất lòng chú, nên chú giận rủa con như vậy.
Tào Tung nghe lời con, nên về sau Tào Tháo có lỗi gì người chú phiền trách, Tào Tung đều bỏ qua, không trách mắng Tháo nữa.
Tháo được thế càng chơi bời phóng đãng hơn. Thời ấy, có người tên là Kiêu Huyền bảo Tháo rằng:
- Thiên hạ loạn to đến nơi rồi, nếu không phải là người có tài tái thế, không ai xoay loạn ra an được. Người tài ấy có lẽ là ông đấy.
Lại có một người nữa ở Nam Dương, tên Hà Ngung, có dịp gặp Tào Tháo về nhà, tỏ ý nói:
- Nhà Hán sắp mất, Tào Tháo sẽ là người an định thiên hạ vậy.
Tào Tháo thấy có nhiều người nói đến mình, nhưng chưa vừa ý. Tháo lại nghe ở vùng miền Nam có Hứa Thiệu nổi danh là xem tướng biết người, liền tìm đến yết kiến và hỏi:
- Ông thấy tôi là người như thế nào?
Hứa Thiệu nhìn Tháo một lúc rồi lặng thinh không đáp. Tào Tháo gặn hỏi đôi ba lần, Hứa Thiệu mới nói:
- Đời trị, ông là bầy tôi giỏi. Thời loạn, ông là kẻ gian hùng.
Nghe nói thế, Tào Tháo mừng vô cùng. Năm hai mươi tuổi, Tào Tháo đã đỗ Hiếu Liêm, làm quan Lang rồi được thăng Đô úy Lộc Dương. Lúc vừa Đến nhậm chức, Tháo đã sai treo mười cây roi ngũ sắc ở bốn cửa thành. Ai phạm đến luật cấm tức thì sai quân nọc cổ ra đánh liền, bất kể kẻ có thế lực, hay quyền quí.
Có một lần người chú ruột của quan Trung Thường Thị Kiển Thạc cầm dao đi đêm, Tháo đi tuần bắt gặp, lập tức truyền lệnh bắt đem đến trước nha môn mà đánh, chẳng kiêng nể gì hết. Bởi vậy, trong ngoài đều sợ Tháo, không ai dám phạm luật nữa.
Uy danh của Tháo nhờ đó lừng lẫy, nên được thăng làm Quan Lệnh ở Đốn Khâu. Nay giặc Khăn Vàng nổi lên, Tháo lại được thăng chức Trị Đô úy, dẫn năm ngàn quân mã kéo đến Dĩnh Xuyên trợ chiến.
Vừa đến nơi, gặp lúc Trương Lương, Trương Bảo bị trận hỏa công, thua chạy xiểng liểng, Tháo nhân cơ hội chặn đường giết giặc, chém hơn một vạớn đầu giặc, đoạt được người ngựa, khí giới vô số. Trương Lương và Trương Bảo gặp thế cùng, mở đường máu chạy thoát. Tháo liền kéo quân vào thành ra mắt Hoàng Phủ Tung và Châu Tuấn, rồi lại dẫn binh truy kích Trương Lương và Trương Bảo.
Bấy giờ, Huyền Đức cùng Quan, Trương cũng vừa tới Dĩnh Xuyên, nghe xa xa có tiếng hò reo đánh giặc, lại thấy lửa cháy rực trời vội dẫn binh tới thì giặc đã tan rồi. Huyền Đức vào yết kiến Hoàng Phủ Tung, Châu Tuấn, và nói rõ ý kiến của Lư Thực.
Hoàng Phủ Tung nói:
- Hai thằng giặc Trương Lương, Trương Bảo bị một trận hỏa công, thế cùng lực tận, chắc là chúng chạy sang Quảng Tôn hợp lực với Trương Giác. Các ngươi hãy tức tốc trở về đó mà giúp Lư tướng quân dẹp giặc.
Huyền Đức lĩnh mệnh, lại dẫn quân trở về. Khi đến nửa đường, bỗng thấy một toán quân mã áp giải một chiếc tù xa, người ngồi bên trong lại là Lư Thực.
Thất kinh, Huyền Đức vội tụt khỏi yên ngựa, chạy đến hỏi duyên cớ.
Lư Thực nói:
- Tôi vây Trương Giác sắp phá được binh giặc, thì bỗng triều đình có sai một viên Huỳnh Môn quan là Tả Phong ra mặt trận thám thính tình hình. Tả Phong đòi ăn hối lộ, tôi nói với hắn: "Đến như quân lương hiện còn chưa đủ, lấy đâu ra tiền dư mà đãi sứ nhà vuả". Tả Phong tức giận về triều vu tấu rằng tôi không chịu tiến quân, cứ đắp lũy đào hào cố thủ, khiến lòng quân trễ nãi. Triều đình nổi giận, sai quan Trung Lang Tướng Đổng Trác đến thay tôi cầm quân, và bắt tôi giải về kinh trị tội.
Trương Phi nghe dứt lời, máu giận sục sôi, toan rút gươm chém mấy tên quân hộ tống tù xa để cứu Lư Thực, nhưng Huyền Đức đã kịp ngăn lại và nói:
- Việc của Lư tướng quân ngay gian sẽ có công luận xét đoán, chúng ta không nên bạo sát người của triều đình mà mang tội.
Trương Phi trợn mắt, nhìn chiếc tù xa cho đến khi mất hút. Vân Trường nói:
- Lư Trung Lang bị bắt, người khác cầm quân, chúng ta trông cậy vào ai mà trở lại Quảng Tôn? Chi bằng trở về Trác Quận là hơn.
Huyền Đức nghe lời, cùng với hai em dẫn quân về phía Bắc. Đi chưa được hai ngày, bỗng nghe sau núi có tiếng quân reo tở mở, ba anh em Huyền Đức liền trèo lên một đỉnh núi cao, xem thấy quân Hán bị thua cuốn cờ chạy trốn, còn đằng sau giặc Khăn Vàng đông đặc, đang đuổi theo rất hăng. Trên cây đại kỳ của giặc có đề bốn chữ: "Thiên Công Tướng Quân".
Huyền Đức đưa tay chỉ bọn giặc, nói với Quan, Trương:
- Chính thằng này là Trương Giác, kẻ cầm đầu giặc Khăn Vàng gây rối. Chúng ta tham chiến ngay.
Ba anh em Huyền Đức đồng phi ngựa dẫn quân lướt tới. Bấy giờ Trương Giác đã đánh bại Đổng Trác, nên kéo binh truy kích rất ngặt. Đang lúc hăng thế, bỗng gặp toán quân của ba anh em Huyền Đức chặn lại, chúng rối loạn người ngựa đạp nhào lên nhau, mất cả hàng ngũ, bị quân Huyền Đức chém giết một trận, làm cho chúng quay đầu bỏ chạy hơn năm mươi dặm.
Ba người cứu được Đổng Trác về trại. Sau khi hỏi thăm, biết được ba anh em Huyền Đức chưa có chức vụ gì, hiện còn là chân trắng, Đổng Trác làm mặt khinh khỉnh, không thèm thi lễ và tiếp đãi.
Huyền Đức bước ra ngoài, không nói gì, nhưng Trương Phi thì hầm hầm nét mặt, tỏ ý bất mãn:
- Hừ! Chúng ta lăn mình vào địch quân để cứu hắn, mà hắn lại dám vô lễ như thế! Phải giết hắn đi mới đã giận.
Mắng rồi, Trương Phi cầm xà mâu quay vào trướng định giết Đổng Trác.
Đó chính là:
Nhân tình thế thái đáng buồn than,
Ai biết anh hùng lúc trắng chân!
Nếu được muôn người như Dực Đức,
Trên đời đã hết giống vong ân
Chú thích:
(1-) Thiên hạ tức là Đế quốc Trung Hoa cổ gồm chín châu: Thanh, U, Từ, Ký, Kinh, Dương, Duyện, Dự, và ích. Dưới mỗi Châu có Quận và Huyện
(2-) Vua Hán Cao Tổ đóng đô ở Tràng An (phía Tây) cho nên gọi là nhà Tây Hán. Nhà Tây Hán truyền đến đời vua Bình Đế thì bị Vương Mãng giết và cướp ngôi. Lưu Tú giết được Vương Mãng, khôi phục lại cơ đồ nhà Hán, nhưng lại dời đô về Lộc Dương (phía Đông) cho nên từ vua Quang Vũ về sau gọi là nhà Đông Hán.
(3-) Đời vua Hán Vũ Đế mỗi khi có cuộc tế Tông Miếu, các vị có tước Hầu trong họ Lưu đều phải vào dâng vàng làm lễ. Nếu vàng của ai có sắc xấu, không được sáng đẹp thì người đó bị mất tước Hầu.
Danh sách chương
- Hồi 1 Hội Ðào Viên Anh Hùng Kết Nghĩa-Ðánh Huỳnh Cân Hào Kiệt Lập Công
- Hồi 2 Nổi Giận Trương Phi Ðánh Khâm Sai-Lập Mưu Hà Tiến Trừ Phản Loạn
- Hồi 3 Bàn phế lập Ðổng Trác mắng Ðinh Nguyên-Tặng Xích thố Lý Túc dụ Lữ Bố
- Hồi 4 Phế Hán Ðế Trần Lưu lên ngôi-Lừa Ðổng tặc Mạnh Ðức dâng kiếm
- Hồi 5 Tiếp Hịch Văn, Các Trấn Ứng Tào Công-Phá Quan Ải, Tam Anh Chiến Lữ Bố
- Hồi 6 Ðốt Kim Quyết, Ðổng Trác Làm Càn.-Giấu Ngọc Tỷ, Tôn Kiên Trái Ước
- Hồi 7 Viên Thiệu Qua Cầu Ðuổi Công Tôn Toản-Tôn Kiên Sang Sông Ðánh Lưu Cảnh Thăng-
- Hồi 8 Vương Tư Ðồ Khéo Dụng Liên Hoàn Kế.-Ðổng Thừa Tướng Náo Lộng Phượng Nghi Ðình.-
- Hồi 9 Trừ Hung Bạo, Lữ Bố Giúp Tư Ðồ-Chiếm Trường An, Lý Thôi Nghe Giả Hủ. -
- Hồi 10 Giúp Nhà Vua, Mã Ðằng Khởi Nghĩa.-Báo Thù Cha, Tào Tháo Cất Quân.
- Hồi 11 Lưu Hoàng Thúc Cứu Khổng Dung ở Bắc Hải-Lã Ôn Hầu Phá Tào Tháo Tại Bộc Dương.-
- Hồi 12 Cung Tổ Ba Lần Nhượng Từ Châu-Mạnh Ðức Một Phen Ðánh Lữ Bố.
- Hồi 13 Lý Thôi, Quách Dĩ Một Trận Giao Tranh-Dương Phụng, Ðổng Thừa Hai Lần Cứu Giá.-
- Hồi 14 Tào Mạnh Ðức Rời Giá Đến Hứa Ðô-Lữ Phụng Tiên Đang Đêm Cướp Từ Quận.-
- Hồi 15 Thái Sử Từ Ham Đả Tiểu Bá Vương-Tôn Bá Phù Hăng Đánh Nghiêm Bạch Hổ-
- Hồi 16 Cửa Nha Môn, Phụng Tiên Bắn Kích-Sông Vị Thủy, Mạnh Ðức Thua Quân-
- Hồi 17 Viên Công Lộ Hưng Binh Bảy Đạo-Tào Mạnh Ðức Hội Tướng Ba Miền-
- Hồi 18 Giả Văn Hòa Liệu Mưu Quyết Thắng Giặc-Hạ Hầu Ðôn Rút Tên Nuốt Con Ngươi-
- Hồi 19 Ðánh Hạ Bì, Tào Tháo dùng kế,-Lầu Bạch Môn, Lữ Bố vong thân-
- Hồi 20 Tào Tháo Ra Săn Ruộng Hứa Ðiền-Ðổng Thừa Vâng Chiếu Trong Nội Các-
- Hồi 21 Tào Tháo Uống Rượu Luận Anh Hùng-Vân Trường Lừa Mưu Giết Xa Trụ-
- Hồi 22 Viên, Tào Khởi Ba Quân Mã Bộ-Quan, Trương Bắt Hai Tướng Vương, Lưu-
- Hồi 23 Nễ Danh Sĩ Lõa Thân Mắng Quốc Tặc-Cát Thái Y Đầu Độc Chịu Thảm Hình -
- Hồi 24 Quốc Tặc Hành Hung Giết Quý Phi-Hoàng Thúc Thua Chạy Ðầu Viên Thiệu-
- Hồi 25 Núi Thổ San, Quan Công Giao Ba Việc-Thành Bạch Mã, Tào Tháo Mở Trùng Vây -
- Hồi 26 Viên Bản Sơ hao binh tổn tướng-Quan Vân Trường treo ấn tìm anh-
- Hồi 27 Qua ải, Quan Công chém sáu tướng-Ðưa chủ, Xích Thố lướt ngàn trùng-
- Hồi 28 Chém Thái Dương, anh em đoàn tụ,-Ðến Cổ Thành, tôi chúa an vui-
- Hồi 29 Tôn Sách bất bình giết Vu Kiết -Tôn Quyền nối nghiệp trấn Giang Ðông-
- Hồi 30 Viên Thiệu Thất Trận Tại Quan Ðộ-Tào Tháo Thiếu Lương Cướp Ô Sào-
- Hồi 31 Tào Tháo Ðại Phá Viên Bổn Sơ-Huyền Ðức Tạm Lánh Bên Lưu Biểu
- Hồi 32 Viên Thượng Tranh Dành Ðất Ký Châu-Hứa Nhu Ðịnh Kế Khơi Chương Hà-
- Hồi 33 Tào Phi ham sắc nạp Danh Thị-QuáchGia tính kế định Liêu Ðông -
- Hồi 34 Thái Phu nhơn lén nghe chuyện mật-Lưu Huyền Ðức qua vực Ðàn Khê-
- Hồi 35 Huyền Ðức vui mừng gặp ẩn sĩ-Ðơn Phước có dịp hầu anh quân-
- Hồi 36 Lưu Bị định kế đoạt Phàn Thành-Từ Thứ tiến cử Gia Cát Lượng-
- Hồi 37 Tư Mã hai lần cử danh sĩ-Lưu Bị ba Phen tới thảo lư-
- Hồi 38 Chia Thiên Hạ, Long Trung Vạch Kế-Ðánh Trường Giang, Tôn Thị Báo Thù-
- Hồi 39 Thành Kinh Châu, Lưu Phong Cầu Kế-Ðồi Bác Vọng, Gia Cát Dụng Binh -
- Hồi 40 Thành Kinh Châu, phu nhơn muốn hiến-Nơi Tân Giả, Gia Cát lửa thiêu-
- Hồi 41 Huyền Ðức đưa bá tánh sang sông-Triệu Vân liều chết cứu minh chúa-
- Hồi 42 Trương Dực Ðức Đại Náo Cầu Trường Bản-Lưu Dự Châu Thua Chạy Cửa Hán Tân-
- Hồi 43 Gia Cát Lượng Trổ Tài Hùng Biện-Lỗ Tử Kính Ra Sức Luận Bàn-
- Hồi 44 Khổng Minh Dùng Trí Khích Châu Du-Tôn Quyền Quyết Chí Đánh Tào Tháo
- Hồi 45 Cửa Tam Giang, Tào Tháo thất trận-Quần Anh Hội, Tương Cán mắc mưu-
- Hồi 46 Dùng Chước Lạ, Khổng Minh Mượn Tiễn-Dâng Kế Mật, Hoàng Cái Chịu Đòn-
- Hồi 47 Hám Trạch vì bạn dâng hàng thư-Bàng Thống khéo lập kế Liên Hoàn-
- Hồi 48 Trên Trường Giang, Tào Tháo ngâm thơ-Tỏa chiến thuyền, Bắc quân diệu võ-
- Hồi 49 Ðàn Thất tinh cầu gió phương Nam-Cửa Tam Giang lửa thiêu quân Bắc
- Hồi 50 Gia Cát Lượng khéo tính Huê Dung-Vân Trường vì nghĩa tha Tào Tháo-
- Hồi 51 Tào Nhơn hỗn chiến binh Giang Ðông-Khổng Minh chọc tức Châu Công Cẩn-
- Hồi 52 Khổng Minh từ chối khéo Tử Kính-Triệu Vân kế giỏi đoạt Quế Dương-
- Hồi 53 Vân Trường thả lão tướng Huỳnh Trung-Tôn Quyền đại chiến với Vă n Viễn -
- Hồi 54 Trước cửa Phật , Quốc Thái được rễ-Em Tôn Quyền , HoàngThúc nên duyên-
- Hồi 55 Lưu Huyền Ðức nói khích phu nhơn-Gia Cát Lượng chọc giận Công Cẩn
- Hồi 56 Tào Tháo mở hội đền Ðồng Tước-Khổng Minh chọc chết Châu Công Cẩn-
- Hồi 57 Gia Cát Lượng khóc viếng Châu Du-Bàng Sĩ Nguyên chung lo việc nước-
- Hồi 58 Báo phụ thù, Mã Siêu khởi binh-Tào Mạnh Ðức cắt râu bỏ áo-
- Hồi 59 Cẩm Mã Siêu đại chiến Hứa Chữ-Thắng Tây Lương, Tào Tháo dương danh-
- Hồi 60 Trương Tòng đi sứ gặp Dương Tu-Bàng Thống nghị kế lấy Tây Thục-
- Hồi 61 Giữa sông, Tử Long đoạt A Ðẩu-Tôn Quyền hòa hoãn với Tào Man-
- Hồi 62 Ải Phù Quan, Cao Dương táng mạng-Ðánh Lạc Thành , Hoàng Ngụy đua tranh-
- Hồi 63 Ngọa Long thương khóc Bàng Phượng Sồ-Dực Ðức vì nghĩa tha Nghiên Nhan-
- Hồi 64 Dùng kế Khổng Minh bắt Trương Nhiệm-Mượn binh Dương Phụ đánh Mã Siêu-
- Hồi 65 Mã Siêu vây khổn Hà Mạnh Quan-Lưu Bị lãnh chức Ích Châu Mục-
- Hồi 66 Quan Vân Trường một đao phó hội-Phục Hoàng Hậu vì nưóc bỏ mình-
- Hồi 67 Tào Tháo dẹp yên đất Hán Trung-Trương Liêu một trận oai vang dậy-
- Hồi 68 Với trăm quân, Cam Ninh cướp trại-Quăng chén rượu, Tả Từ bỡn chơi-
- Hồi 69 Bói Kinh Dịch, Quản Lộ tiên tri-Ðánh gian hùng, trung thần tuẫn tiết-
- Hồi 70 Trương Phi lấy Ngọa Khẩu ải-Huỳnh Trung đoạt Thiên Ðản san-
- Hồi 71 Huỳnh Trung lấy Ðối San-Triệu Vân lấy Hán Thủy-
- Hồi 72 Gia Cát Lượng dụng mưu lấy Hán Trung-Tào A Man rút quân về Tà Cốc-
- Hồi 73 Huyền Ðức lên ngôiHán Trung Vương-Quan Vân Trường đánh chiếm Tương Dương quận-
- Hồi 74 Bàng Ðức khiêng hòm tử chiến-Vân Trường xổ nước thắng quân
- Hồi 75 Vân Trường nạo xươngtrị độc-Lữ Mông áo trắng qua sông-
- Hồi 76 Từ Quáng đại chiến Miên Thủy-Vân Trường bại tẩu Mạch Thành-
- Hồi 77 Núi Ngọc Tuyền , QuanCông hiển thánh-Lạc Dương thành , Tào Tháo cảm thần-
- Hồi 78 Chữa chứng đầu nhức, Hoa Ðà uổng đời-Trăn trối việc sau, Tào Tháo hết kiếp-
- Hồi 79 Anh chẹt em , Tào Thực phải làm thơ-Cháu bỏ chú, Lưu Phong đành thọ tội-
- Hồi 80 Phế Hán chúa, Tào tặc đoạt ngôi cao- Kế nghiệp Lưu, Hán Vương lên Ðế vị-
- Hồi 81 Nóng thù anh , Trương Phi bị ám hại-Rửa hờn em, Tiên chúa khởi binh hùng-
- Hồi 82 Tôn Quyền hàng Ngụy , chịu nhục xin Cửu Tích-Tiên chúa đánh Ngô , vui vẻ thưởng ba quân-
- Hồi 83 Ðánh Hào Ðình, Tiên Chúa diệt quân thù-Giử Giang Khẩu, thư sinh làm đại tướng
- Hồi 84 Lục Tốn đốt bảy trăm dậm trại-Khổng Minh bày
- Hồi 85 Tiên Chúa di chiếu gửi Cô nhi-Khổng Minh án binh cự Man Quốc
- Hồi 86 Thử Trương Ôn, Tần Bật khẩu tranh-Phá Tào Phi, Từ Thạnh đốt lửa-
- Hồi 87 Dẹp giặc Rợ, Hán Thừa Tướng thân chinh-Chống binh Trời, Nam Man Vương bị bắt-
- Hồi 88 Vượt Lư Thủy, Khổng Minh bắt Man vương-Biết trá hàng, ba phen trói Mạnh Hoạch-
- Hồi 89 Hán Thừa Tướng bốn lên dụng mưu-Nam Man Vương năm phen bị bắt-
- Hồi 90 Dùng thú máy, sáu bận phá quân Man-Ðốt giáp mây, bẩy lần bắt Mạnh Hoạch-
- Hồi 91 Tế Lư Thủy , Hán Thừa Tướng rút lui-Ðánh Trung Nguyên, Võ Hầu dâng biểu -
- Hồi 92 Triệu Vân sức già chém ba tướng-Khổng Minh dùng trí lấy ba thành-
- Hồi 93 Khương Duy về đầu Thục chúa-Khổng Minh múa lưỡi giết gian thần-
- Hồi 94 Mã Tắc trái lời khuyên, Nhai Ðình thất thủ-Khổng Minh ôm đàn gảy, Tư Mã chạy dài-
- Hồi 95 Khổng Minh gạt lệ chém Mã Tắc-Châu Phương cắt tóc dụ Tào Hưu-
- Hồi 96 Khổng Minh dâng biểu xuất Kỳ Sơn-Khương Duy tráo thư giết binh Ngụy-
- Hồi 97 Theo Hớn binh , Vương Song bị chém-Lấy Trần Thương , Gia Cát đề binh-
- Hồi 98 Gia Cát Lượng tấn binh đến Kỳ Sơn-Tư Mã Ý đem quân vào đất Thục-
- Hồi 99 Không hiểu kế Tào Chơn thất trận-Ra trận tiền tai mắt gặp nhau-
- Hồi 100 Khổng Minh ngũ xuất Kỳ Sơn-Trương Hấp lâm nơi Kiếm Các-
- Hồi 101 Khổng Minh sáu lần ra Kỳ Sơn-Tư Mã Ý đại chiến nơi Vị Kiều-
- Hồi 102 Tư Mã Ý bị khốn Hồ Lô Cốc-Khổng Minh cầu sao Ngũ Thượng Nguyên-
- Hồi 103 Tướng tinh rơi , Khổng Minh chầu trời-Nhìn tượng gỗ, Tư Mã Ý vỡ mật-
- Hồi 104 Khổng Minh chết, còn trừ Ngụy Diên-Ngụy Chúa đày dân cất đền đài-
- Hồi 105 Tào Tuấn hết số qui thiên-Tư Mã Ý giả bịnh gạt Tào Sảng-
- Hồi 106 Tư Mã Ý vấn tội Tào Sảng-Khương Duy bại trận núi Ngưu Ðầu-
- Hồi 107 Tôn Quyền hết số qui Thiên-Tôn Tuấn giữa tiệc bày kế-
- Hồi 108 Vây Tư Mã, Khương Duy dùng mưu cao-Phế Tào Phương, Ngụy gia mang quả báo-
- Hồi 109 Văn Anh đơn kỵ lui binh-Khương Duy bối thủy phá giặc-
- Hồi 110 Ðặng Ngãi dụng mưu địch Khương Duy-Gia Cát Ðản nghĩa thảo Tư Mã Chiêu-
- Hồi 111 Cứu Thọ Xuân, Vu Thuyên liều thác-Lấy Trường Thành, Bá Uớc án binh-
- Hồi 112 Mắc kế Ðinh Phụng, Tôn Lâm thác-Khương Duy so tài cùng Ðặng Ngãi-
- Hồi 113 Trừ Tư Mã, Ngụy Chúa bị hại-Bỏ lương thảo, Khương Duy cả thắng-
- Hồi 114 Triệu Khương Duy , Hậu Chúa cả tin-Xin khẩn điền , Tướng Quân tránh họa-
- Hồi 115 Chung Hội tiến binh vào Tây Xuyên-Võ Hầu hiển thánh, núi Ðịnh Quân-
- Hồi 116 Qua âm Bình, Ðặng Ngãi tiến binh-Nơi Miêng Trước tận trung Thục tướng-
- Hồi 117 Trước Tổ Miếu, Lưu Thầm tự vận-Lấy Tây Xuyên, Ngụy Tướng thành công-
- Hồi 118 Mưu sự bại, Khương Duy tuẫn tiết-Trời quả báo, Ngụy Chúa mất ngôi-
- Hồi 119(hết) Bình Ðông Ngô, Ðổ Dự thành công-Hết phân cách tới hồi thống nhứt-