
Trà Thất
Tổng số chương: 3
Trà Thất.
- Chưa ngủ sao? Thế mà nằm yên lặng từ nãy đến giờ bắt người ta cũng phải yên lặng theo.
Giọng người đàn ông tỉnh táo trách vợ, âu yếm, một thứ âu yếm quen thuộc, nói lên sự hạnh phúc bình yên, không hề gợn sóng của một gia đình may mắn trên nhiều phương diện.
- Còn anh? Em cứ tưởng anh cũng ngủ rồi, hơi ngạc nhiên, sao ngủ mà ngoan thế, không nghe tiếng ngài ngáy như mọi khi.
- Tại em đấy, ai bảo đã chiều rồi mà còn dụ dỗ người ta uống trà, bắt người ta thức.
- Dụ dỗ, nói nghe đến phát ghét, tại mình đòi uống cho được, không tự kiềm chế nổi, còn đi trách người ta.
- Kiềm chế gì, ma vương cám dỗ Bồ Tát.
- Sao Bồ Tát không giỏi từ chối đi, làm anh hùng thử coi, để em uống một mình, em đã nhường cho, chia đôi chén trà thứ nhất, thế mà không biết cảm ơn. Mấy đời mới có một chén Bạch Trà ngon nhứ thế nhỉ, phải chịu là quá sức ngon phải không anh?
Duyên như còn nghe hương vị ngọt ngào, thanh khiết của chất trà thoang thoảng trên môi, trong lưỡi, trong cổ. Nàng nuốt nước miếng, tưởng chừng như đang nuốt hương trà, vị trà thoáng ngọt, thanh khiết.
- Thơm chi lạ lùng, đến nước thứ mấy chục vẫn còn thơm... Anh nhỉ?
- Ừ khá thơm, phải chịu là đặc biệt.
Hai vợ chồng kể tiếp tục câu chuyện, cãi qua cãi lại bằng một giọng cố hạ trầm, sợ làm thức giấc các con ở phòng bên cạnh, chỉ cách có một bức tường.
- Nhưng hình như anh vừa nghe Duyên nói gì phải không? Em nói gì vậy?
Suỵt, khẽ chứ, em nói gì, em có nói gì đâu?
- Có mà, hình như em đang nói trà thất trà thiết gì đó, em có nói anh mới biết là em còn thức.
- À... ờ nhỉ, em đang mơ đến một ngôi trà thất.
Người đàn bà định trả lời cho qua chuyện rồi bỏ lửng không nói thêm nữa, vì đêm đã khuya, lại thêm sợ nói nhiều sẽ không tránh được sự tố cáo những ý nghĩ riêng tư của mình với chồng chăng.
Ấn không chịu thua, tuy rất cưng và chiều vợ, tuy biết rằng đêm đã khuya cả hai đều cần phải ngủ nhưng chàng vốn ghét những câu chuyện, những ý kiến nào nói ra rồi bỏ dở sau đó. Ai nói gì với chàng là phải nói cho hết, làm việc gì cũng phải làm cho xong chàng mới chịu.
- Nhưng sao em lại nói lên hai chữ ấy?
- Thì em đã bảo với anh là em đang mơ đến một ngôi trà thất mà lạị..
- Nhưng sao lại một ngôi trà thất mới được chứ?
- Tại vì... trà thất, tại vì trà thất là cái trà thất...
Duyên lúng túng trả lời, chưa tìm ra lối thoát.
- Biết rồi cái ghế là cái ghế, cái bàn là cái bàn, cô nầy đến vớ vẩn, ai chẳng biết trà thất là cái trà thất.
Người chồng vừa nói vừa kéo dịch chiếc gối của mình lại gần vợ, nhất định bắt Duyên phải giải thích cho hết ý tưởng của mình, nhưng lại sợ nằm hơi cách xa nhau, phải nói cao giọng làm thức giấc các con. Ấn nhận thấy vợ mình mỗi ngày một đặc biệt hơn, độc đáo hơn, không phải như bao nhiêu người đàn bà khác, cậy có chồng con rồi là bỏ bê. Không chịu trau dồi thêm tư tưởng, không chịu học hỏi tìm hiểu, để cùng ngang một nhịp với chồng, không cho chồng được cái hân hạnh kiêu hãnh sung sướng vì vợ. Các bà cứ dùng những đứa con làm hậu thuẫn để rồi sau đó lại đi phàn nàn rằng chồng bỏ bệ..
Duyên biết tính chồng, thôi thì nhượng bộ, giải thích cho ông ấy yên lòng, nếu không thì rồi đến sáng cả hai cũng còn chưa ngủ. Duyên vẫn nói đùa là chồng mình chọn nhầm nghề, chàng đáng phải là công an mật vụ hoặc cảnh sát chuyên lấy khẩu cung mới đúng, chẳng bao giờ tha cho ai một câu.
Vẫn bằng một giọng thì thầm, Duyên giảng giải, kể lể bên tai chồng, cho chồng nghe câu chuyện trà thất... Tại Nhật Bản, những gia đình khá giả ngoài ngôi nhà chính là tư thất người ta còn cất thêm một ngôi trà thất trong góc vườn. Nếu không có vườn thì chọn lấy một gian phòng riêng biệt ngay trong nhà dành làm trà thất.
Bước chân vào trà thất, tâm hồn sẽ thanh thản, quên hết tất cả mọi sự tranh dành tính toán dơ bẩn của cuộc sống. Khách vào, phải bỏ dép đi chân đất cũng như chủ nhân, vũ sĩ cũng phải cởi bỏ vũ khí. Cửa vào trà thất không xây cao, bắt người phải cúi mình tỏ sự khiêm tốn, đoạn tục. Phần trang trí bên trong cũng phải đơn giản, do những bàn tay chuyên môn có đầy đủ kiến thức đảm nhận. Bình hoa cắm với tất cả nghệ thuật cổ truyền, đi cùng một bức tranh, hoặc hòa nhịp, hoặc tương phản với đầy dụng ý. Âm thanh của trà thất chỉ là tiếng nước sôi reo u ẩn như tiếng suối từ xa vọng về. Câu chuyện trao đổi giữa chủ và khách cũng không phải là thứ chuyện trần tục, một vài chữ, đôi ba lời đủ để hiểu nhaụ.. Được mời đến dự một buổi trà đạo là cả một sự hân hạnh, không phải ai cũng được cái hân hạnh ấy.
Ngôi trà thất bé nhỏ không chứa quá năm người, chủ và khách đều ý thức rõ rệt, từng lời nói, từng cử chỉ, từng hành động của mình. Trà thất khơi nguồn từ những ngôi đền thanh bạch của các vị thiền tăng. Con đường từ bên ngoài dẫn vào trà thất là những bước đầu của sự suy tư nhập thiền, dứt bỏ mọi ưu phiền, quên hết mọi hỗn tạp của cuộc thế...
- Ngủ rồi saọ..
Duyên ngừng. Tiếng ngáy nhè nhẹ bắt đầu, có lẽ chàng đã đi vào giấc ngủ từ lâu và giọng nói của người vợ như một giọng ru, hay giọng kể chuyện cổ tích mà ngày còn là chú bé, Ấn hay được nghe u già kể những câu chuyện cổ tích thần tiên. Đây cũng là một trong những điểm làm cho Ấn say mê vợ, Duyên khẽ gỡ cánh tay chồng nằm lùi ra xa, Ấn cũng trở mình quay ra phía quen thuộc của thân thể con người trong khi say ngủ.
Duyên mừng thầm, thế là yên, chồng đã ngủ, nếu không thì ngày mai làm sao chịu nổi. Ngày mai lại là ngày xem mạch đặc biệt dành cho nhà nghèo mà Ấn đã bỏ ra mỗi tuần lễ một lần. Người nghèo đến đông, Ấn sẽ mệt, Duyên sẽ ân hận đã vô tình không cho chồng ngủ.
Tuy nhiên, ân hận thì ân hận, Duyên vẫn hài lòng đã cho Ấn nếm được thứ trà ngon, dùng chữ của Quốc tức là đã "văn hóa" được chồng thêm chút nữa. Duyên vẫn thích được chia xẻ với chồng, cái gì cũng phải hưởng chung, có như vậy câu chuyện mới dồi dào, một bí quyết để bảo vệ hạnh phúc mà hình như có nhiều người đã bỏ quên.
Theo lời Quốc, người bạn thân của gia đình thì đây là thứ Bạch Trà đã được Huy Tông Hoàng Đế phẩm định là Thiên hạ đệ nhất danh trà. Ông vua nầy là người đã chịu xuất ra rất nhiều tiền trong kho để tiêu dùng vào việc lùng kiếm những thứ trà quý. Thứ Bạch Trà nầy ngày trước chỉ mọc ở vùng Hổ Khâu, nơi chôn vua Ngô Hạp Lư, người ta mang giống đi trồng khắp các nơi đều không bằng. Ngày nay nhờ có những cố gắng của khoa học, người Đài Loan đã tìm cách gò gẫm ép buộc thiên nhiên chọn một vài vùng có không khí tương tự, cùng với sức lực trí tuệ của các chuyên gia, rồi nào chăm bón, hái trà, sấy trà, để gọi là cố giữ cho đúng cái hương vị của giống Bạch Trà tại Hổ Khâu ấy. Năm nào cũng có những nhà giàu đặt tiền mua hết cả đồi trà để uống riêng một mình chia với các bạn thân, đồng đạo, đồng chí.
Của quý nghìn năm một thuở mà Quốc phải là người sành lắm mới được một ông bạn già ở Chợ Lớn nhường cho mấy ấm, chứ đâu phải dễ.
Câu chuyện Trà Thất cũng do Quốc đã nhiều lần kể đi kể lại cho Duyên nghe và Duyên đã vui thích, nhớ mãi. Nhận thấy một ý nghĩa sâu sắc mà mọi người đều cần phải suy nghĩ lâu dài mới đủ sức lĩnh hội. Phải đọc, phải học, phải chịu khó tìm kiếm thêm để bổ túc cho sự hiểu biết nhỏ bé của mình.
Ngày mai biết trước sẽ dậy muộn, mỗi lần gặp Quốc, uống trà vào là khó ngủ, Duyên đã cắt đặt công việc cho người làm, nấu món gì cho chồng con ăn sáng.
Ấn ngủ say lắm rồi, Duyên có thể tự do thả tâm tư lang thang, tìm đến những nơi thầm kín có thể gọi là u ẩn mà ban ngày, hoặc những lúc còn đèn sáng, chưa chắc Duyên đã dám cho mình được với tới, giờ phút nầy Duyên có thể cho phép mình đi tìm ngôi trà thất.
Mỗi người ai cũng phải cần một ngôi nhà để che nắng mưa, nhưng giá có thêm được một ngôi trà thất để tìm đến mỗi khi buồn, mỗi khi nghẹn ngào, cho tâm hồn được lắng đọng, gột bỏ mọi ưu tư, thì mới thật là lý tưởng.
Cuộc sống sẽ sáng tươi, sẽ bớt nặng nề... Đây cũng chỉ là những ý kiến của Quốc mà Duyên chỉ nhắc lại với mình, hoặc với chồng một vài khi. Quốc như một vị thầy, một đạo sĩ, ra đề tài và Duyên là cô bé học trò, là một tín đồ ngoan ngoãn, chỉ biết theo đó mà làm bài, mà suy tư, hành động, nhắm mắt không dám cãi.
Quốc, Nguyễn Kinh Quốc, hình ảnh người đàn ông ấy hiện ra rõ rệt trong đêm tối. Dẫu cho Duyên có đang nhắm mắt hay mở mắt, mà có lẽ khi nhắm mắt hình ảnh như lại càng sáng tỏ hơn, tưởng như chàng đang đâu đây. Duyên có thể nghe, có thể hỏi, có thể nhìn thẳng vào mắt, cho cái nhìn của mình được đắm chìm vào trong đôi mắt kia, dễ dàng như Duyên vẫn làm một vài khi.
Mười hai năm trước. Mười hai năm qua rồi, ngày ấy Duyên là một nữ sinh trường bà Sơ. Mười bảy tuổi, tuổi của yêu đương của mơ mộng, mọi người đều bảo thế, nhưng Duyên không chịu tin, không tin cho tới ngày gặp tình yêu.
Độ ấy là độ vừa thi xong phần tú tài thứ hai, cô nữ sinh có mái tóc uốn nhẹ, dài ôm bờ vai, hay buộc thêm cái nơ nhung đen như đôi cánh bướm. Mỗi khi trời nóng bức, để lộ chiếc gáy tinh khiết với vài sợ tơ măng.
Duyên nổi tiếng là vừa xinh đẹp, vừa chăm học, lại vừa đứng đắn ngoan đạo nhất trường. Những yếu tố mâu thuẫn thường chẳng mấy khi đi cùng trong một người, vì nhan sắc và trí não là một sự sâm thương mà Duyên là một trường hợp đặc biệt để khẳng định cái luật ấy chăng?
Hạnh kiểm nhất, học hành nhất, thể thao bóng rổ nhất, cái gì hay là Duyên phải nhất. Mỗi lần nhắc đến Kim Duyên là từ giáo sư đến học trò đều biết, đều hình dung ra được ngay cái dáng dấp đoan trang lại vừa duyên dáng của cô gái.
Cô nữ sinh chưa hề làm một cử chỉ, một hành động nào để có thể bị phê bình hoặc mất lòng các Dì, các Mẹ, ngay cả các bạn trong lớp, ai cũng quý mến. Cuộc đời và tâm hồn cũng trong trắng như cánh hoa Huệ ngày chủ nhật trên bàn thờ. Trong khi các bạn gái đồng lứa chỉ thích mộng mơ, gặp nhau không trao đổi bài vở, không nói chuyện học hành mà chỉ khoe với nhau những bức thư hồng thư xanh, đo tầm quan trọng của nhau bằng những cánh thư chồng chất. Bàn bạc khen chê, nói lên những lời rên siết than niềm đau tuổi dại, hời hợt đi tìm những tác phẩm tâm tình dễ dãi đặt làm thần tượng, làm chủ đích của cuộc đời. Các cô cho Duyên là quê mùa. Là chưa biết sống, là thiếu kinh nghiệm, nói chuyện thiếu hấp dẫn, kém về thời trang!
Mặc. Ai muốn chê thế nào thì chê, nói gì thì nói, Duyên cần học trước đã, vì tình yêu và học vấn là hai sự kiện khó song song. Hẳn vì tự biết tính mình cuồng nhiệt, học cũng cuồng nhiệt thì khi yêu chắc cũng phải không kém. Hơn nữa, Duyên muốn dành tất cả tình yêu để trao trọn cho một người, chỉ một lần mà thôi. Người ấy sẽ là chồng, là cha của các con mình. Không nên phung phí tình cảm vì Thượng Đế chỉ cho phép mỗi người được một lần yêu. Sau đó chỉ là tạm bợ, sống cho xã hội, đóng kịch cho vui lòng xã hội, vui lòng gia đình mà thôi. Người con gái ấy nhất quyết bước lên xe hoa với tâm tình nguyên trinh.
Lý thuyết cả.
Đêm văn nghệ ấy, Duyên vẫn như còn hình dung rõ, là một đêm đặc biệt của mấy trường hợp nhau tổ chức, cô gái được đề cử việc tiếp khách. Vì có sự bán quà giúp trẻ em mồ côi nên phải mời loại quan khách ngoại quốc lắm tiền. Cần phải chọn những nữ sinh nào vừa xinh đẹp, vừa biết ăn nói, Duyên được đề cử không còn lý do để từ chối.
Mỗi lần nghĩ đến sự đứng đón từng người khách đưa vào tận chỗ ngồi Duyên còn rùng mình, thế mà có những người phải sống bằng nghề đưa chỗ, cũng như có những cô phải sống bằng nhan sắc, tức là lúc nào cũng phải xinh đẹp, như một đóa hoa không được phép tàn, không được phép khép cánh để nghỉ ngơi, thật là phản thiên nhiên.
Đêm văn nghệ ấy không ngờ đã định đoạt được cả một đời người con gái. Làm sao quên, những màn kịch, đơn ca do các nam nữ nghệ sĩ trình bày thì cũng như tất cả các buổi đại nhạc hội khác. Độc đáo nhất chỉ có màn ngâm thơ dành cho người Việt và chỉ những người Việt nào biết thưởng thức, không mang tâm hồn đá cuội.
Hai giọng ngâm điêu luyện, một giọng nam, một giọng nữ và tiếng sáọ.. Tiếng sáo sao mà tuyệt vời.
Bài thơ của một tác giả không đưa tên phỏng theo bài Hạng Vũ biệt Ngu Cơ.
Lực bạt sơn hề chí cái thế
Thời bất lợi hề truy bất thệ
Truy bất thệ hề, hà nại hà
Sức phá núi chí anh hùng bao quát
Nhưng hôm nay trời đã phụ tình ta
Truy mã ngập ngừng, giang sơn đổ nát
Ngu Cơ ơi, thôi hết rồi giấc mộng nguy nga
Giọng ngâm thơ cảm động nói lên niềm đau của người anh hùng khi thất thế. Nhưng tất cả mọi sự, nếu đạt được kết quả, thu hút được hầu hết khán giả đều nhờ có tiếng sáo đệm. Tiếng sáo thiết tha u ẩn ngay từ khúc tiền tấu làm cho người nghe như tê dại. Khúc tiền tấu đưa đẩy theo giọng ngâm rồi cứ thế có lúc buông thả giọng ngâm mà vút lên, vút lên, lơ lửng trong không gian, có khi nghe như một tiếng thở dài, có khi là những tiếng nức nở nghẹn ngào, như oán, như hờn, hợp với lời thơ. Cuối bài thơ, giọng ngâm đã ngừng mà tiếng sáo vẫn tiếp tục dìu người vào cõi mê, tưởng chừng như đâu đây, Ngu Cơ đang về khóc lóc bên Hạng Vũ hay người anh hùng thất thế đang vuốt mắt cho người yêu được siêu thoát... Đại Vương ý khí tận. Tiện thiếp hà liêu sinh?
Chí anh hùng đã đến hồi phải tận
Thiếp xin chàng một chết vẹn trung trinh
Màn hạ. Các nghệ sĩ ra chào quan khách, một số ở lại chuyện trò với ban tổ chức, với các nam nữ sinh, Duyên chỉ mong được nhìn mặt người thổi sáo nhưng chờ mãi, chờ mãi. Trong đám người được gọi là tài hoa xuất chúng, chẳng thấy bóng dáng nào có thể tạo nên giọng sáo đau xót ấy. Duyên đã thất vọng ra về, suốt đêm chập chờn với tiếng sáo, không làm sao ngủ trọn giấc.
Duyên hỏi thăm mãi, quả như thế, ngươi thổi sáo đã bỏ về ngay sau đó, không thèm ở lại để đón nhận những lời hoan hô chúc tụng, những tràng vỗ tay phàm tục vô nghĩa. Duyên cũng nhận thấy sự vỗ tay là phàm tục chỉ dành cho những loại nghệ sĩ còn ngụp lặn trong đám lợi danh. Trái lại, đối với loại nghệ sĩ siêu đẳng như người thổi sáo nầy thì sau khi nghe trình diễn xong, mọi người đều phải cúi đầu như để mật niệm sự linh thiêng của vị thần sáo, rồi lặng lẽ ra về để cho âm thanh quyện quanh mình, theo dõi mình suốt đêm hôm ấy, ngày hôm sau, như thế mới đúng nghi thức của sự ngưỡng mộ.
Duyên nhất quyết phải tìm gặp cho được con người nghệ sĩ không cần hư danh ấy, phải làm quen, phải xin nhận mình làm học trò. Con người đã có tiếng sáo điêu luyện như thế tất phải còn nhiều điểm cao siêu khác mà Duyên cần phải học.
Hỏi thăm các bạn, càng biết thêm về người thổi sáo, Duyên càng ân hận, càng nóng ruột, tự trách mình sao hôm ấy không chạy ngay vào hậu trường khi màn vừa hạ, có phải không để lỡ mất cơ hội, và biết đâu ngày giờ nầy người ấy đã là thầy của Duyên rồi.
- Đây là Kim Duyên, một cây chăm học, và đây là anh Quốc, tự Tiêu Lang, anh họ của tui. Một cây sáo phi chuyên gia nhưng đã từng làm cho bao nhiêu con tim héo hắt rụng rời, "phi" mà con hơn gấp mấy lần "không phi", và rất coi rẻ những tràng pháo tay. Phải không anh Quốc, không ghét pháo tay sao hôm ấy lại bỏ về ngay, báo hại làm cho bao nhiêu người ngơ ngẩn đốt đuốc đi tìm suốt đêm mà "Tìm anh như thể tim trâu, rừng xanh núi đỏ biết đâu mà tìm".
Duyên hơi mỉm cười cắn môi để dấu sự ngượng nghịu.
Câu chuyện giới thiệu đôi bên quá dài dòng của Phi Lan, em họ Quốc, câu giới thiệu còn được kèm theo câu ca dao lạ lùng khá hợp tình, hợp cảnh mà Duyên chưa bao giờ được nghe. Duyên phục Phi Lan, sao cùng học một trường mà Lan có vẻ thành thạo biết nhiều hơn mình, chẳng kém gì các cô học chương trình Việt. Một cảm giác mơ hồ thoáng qua, quan niệm của gia đình mình từ bao nhiêu năm nay đã sai lầm rồi chăng, đâu có phải chỉ vào trường Pháp mới là giỏi.
Biết Phi Lan là em họ của người thổi sáo, Duyên đã cố tình làm quen, Phi Lan cũng thấy Duyên thắc mắc, muốn được biết người thổi sáo nên cô gái chịu về năn nỉ ông anh họ. Tuy không quen nhiều nhưng trong trường ai cũng biết tiếng Duyên, nhờ thế Lan mới chịu khó, chứ gặp các cô gái khác thì chưa chắc Lan đã chịu mất thì giờ về ca ngợi bắt ông anh phải xiêu lòng, phải chịu đi gặp cô bạn mình chiều hôm nay. Lan cũng rất mến Quốc, vì tính cô gái hay dùng chữ phi trong câu chuyện nên các bạn đặt ngay thành tên. Lúc làm thẻ kiểm tra cô gái cũng giữ luôn chữ Phi Lan cho nó lạ, khác người. Các bạn có người giảng rằng đó là bông hoa lan biết bay, nhưng cũng có người bảo Phi Lan tức là không phải Lan, mà không phải Lan thì chỉ có thể là Huệ. Lan chỉ cười, ai muốn hiểu sao thì hiểu.
Thì ra con người ấy là Quốc. Người đã có tiếng sáo bắt Duyên phải bỏ ăn bỏ ngủ, thao thức, quằn quại cả hai ba tuần lễ nay. Tiếng sáo đã thu mất hồn của cô gái trong trắng, cũng là người mà giờ phút nầy đang bắt Duyên phải cúi mặt chớp đôi mi, lúng túng, thừa tay dư chân, tim đập như trống vào hội.
Phải ăn nói thế nào, phải đi đứng làm sao đây, tìm cho được gặp để lúc gặp lại biến thành tượng đá hay sao? Quốc mới chỉ vào độ dưới ba chục tuổi, không lấc cấc, không thời trang, không bắt chước thứ kép chiếu bóng Hoa Kỳ như có một số con trai ngày nay.
Anh chàng cũng đang nhìn Duyên, chưa biết nói câu gì, còn phải nhận định, đánh giá xem nên liệt vào hạng nào hạng tiểu thư nhõng nhẽo, hay là hạng búp bê để đưa đi dạo phố, hay là hạng con nhà thầu, sắp sửa bước theo chân bố đi thầu từ tình cảm đến sắt vụn và đống rác ở chợ Bến Thành. Kể cũng khó đánh giá vì ngày nay tiền bạc và các thứ mỹ phẩm đã giúp cho người quá nhiều để dối trá nhau.
- Ê, nầy Phi Lan không có xuyên tạc đấy nhé, người ta về là vì người ta không có giấy đi đêm giới nghiêm nghe chưa, làm gì mà trách mãi, các cô thật là rắc rối.
Duyên ngước mắt nhìn chàng trai như thầm đặt câu hỏi, còn em có rắc rối không? Cái nhìn đã được đưa vào ống kính của nhà nhiếp ảnh, nếu bảo tâm tư con người là cái máy ảnh. Duyên càng thấy mến Quốc, càng thấy gần và càng muốn gần hơn nữa.
Duyên mến sự khiêm tốn, sự trầm tĩnh toát ra từ con người ấy, không cần đếm xỉa đến những phù phiếm bên ngoài. Kể cũng lạ, tại sao mới gặp Quốc, Duyên có thể mến ngay được, hẳn vì quãng thời gian chờ đợi đã xây cho tình cảm một cái đài cao, hay quả thật cái thuyết bảo rằng có những luồng điện là đúng. Hay định mệnh đã xếp đặt vì có thể là con người và tiếng sáo khác hẳn nhau, như những nhà thơ, những họa sĩ, nghe và nhìn tác phẩm thì thanh tao mà sự thực khi gặp con người thì quả là một khối thịt cân được những mấy tạ.
Người ta bảo nghệ sĩ cũng giống như rượu có rất nhiều hạng mà thứ hạng nhất quả là khó kiếm, chỉ nhan nhản hạng nhì hạng ba, tuy nhiên khi nghe họ nói thì cứ tưởng như đó là hiện thân của nghệ thuật. Quốc không ở vào thứ hạng nhì hạng ba ấy, có thế nên Duyên mới cảm thấy êm ả, thoải mái ngay. May mắn nhất là cũng không phải như hoàn cảnh của Mỵ Nương và Trương Chi, Duyên mừng thầm, nếu Quốc là Trương Chi để cho Duyên phải đóng vai Mỵ Nương thì khổ tâm biết mấy, mặc dầu nếu xét cho kỹ thì Trương Chi mới quả thật là nghệ sĩ chân chính.
Duyên vẫn chưa hết vụng về, lệ thường đâu có tệ quá như vậy, Duyên cũng như ai, cô gái học trường Tây, hoa khôi của vùng mặc đầm, từ thuở bé. Mới năm ngoái mẹ thấy lớn rồi, nếu không tập mặc áo Việt Nam sợ về sau mặc vào sẽ cứng người, khó trông. Nhờ thế mới có áo để mặc đi dạ hội đêm hôm ấy và đi gặp Quốc hôm nay.
Nếu Quốc biết rằng Duyên đã sửa soạn, trang điểm từ tâm hồn đến nhan sắc như thế nào, chắc Quốc sẽ thương lắm. May nhờ Phi Lan có lòng đã nói qua về tính nết và ý thích của Quốc cho Duyên nghe, để Duyên còn chuẩn bị. Vả lại, với tiếng sáo ấy thì nhất định là tâm hồn phải khác đời. Qua tiếng sáo, Duyên cũng định được vị trí tâm hồn của chàng trai một phần nào, và sự trang điểm mất rất nhiều công của Duyên từ mấy hôm nay không phải là phí.
Trước hết phải gội bỏ cái lối học trường Tây của mình, cái lốt nầy chỉ dành cho những dân tộc quen làm con dân thuộc địa mới ham thích.
Thời buổi loạn ly, ở xứ nào cũng thế, chỉ có những anh chị chàng trọc phú, mới nổi lên, giàu trong mấy năm nhờ có chiến tranh, nhờ đi thầu hàng ngoại quốc mà phát lên, mới cần phải mang nó vào để còn mong che dấu những ai không quen phân biệt.
- Có người muốn xin làm học trò, anh Quốc nhận không? Bằng lòng thì bảo ngay để mai còn xem ngày ra chợ mua xôi gà mang đến làm lễ khai tâm.
- Ai vậy?
Quốc đã biết mà cũng giả vờ hỏi. Phi Lan đã thay Duyên nói hộ, mở đầu câu chuyện, lý do của buổi gặp gỡ hôm nay. Trông thấy cô bạn gái của mình có vẻ lúng túng, vụng về đáng tội nghiệp nên Lan đâm thương hại hơn. Mấy hôm rồi Lan phải tả tình tả cảnh mãi, ông anh họ mới chịu đi gặp cô bạn gái. Chàng vốn sợ rắc rối, dính vào đàn bà con gái thường hay làm cho cuộc đời trở nên rắc rối. Kinh nghiệm đã cho biết một vài lần, và chữ rắc rối là chữ mà Quốc dùng để kết thúc cái hoàn cảnh bị yêu hay bị mất thì giờ, bắt phải suy nghĩ, cân nhắc của mình.
Quốc cũng đồng ý với cô em họ, Duyên rất xinh. May ra thì cô gái nầy sẽ ít rắc rối hơn chăng, tức là nhan sắc đã làm dịu giùm đi những mối suy tư, Duyên không lộng lẫy, không mang vào mình một tấm nhan sắc búa tạ, ai gặp thì như bị búa giáng vào đầu làm xây xẩm mặt mày. Nhưng Duyên dễ thương, mặn mà, khuôn mặt đặc biệt Á Đông mà không bị những nét khiếm khuyết của người Á Đông. Học trường Âu, trường Tây từ thuở bé, nói tiếng Pháp như gió, ngôi sao bóng rổ, hoa khôi của trường, thế mà vẫn còn giữ được cái dáng dấp dịu dàng của người con gái miền Bắc. lại không có cái lối trề môi, nhún vai của loại con gái tân tiến, mới học đòi thói lai căng của đào chiếu bóng Âu Mỹ, ngỡ rằng phải như thế mới không bị chê là nhà quê.
Quốc thuộc phái bảo thủ, tuy xứ Việt Nam sau bao nhiêu năm nô lệ với nội chiến liên miên, có muốn giữ cái vai trò bảo thủ cũng khó, còn gì nữa mà giữ gìn, mà bảo, mà thủ. Còn gì nữa đâu, từ những di sản ở bên ngoài đến những tư tưởng thuần khiết ở bên trong đều đã bị ăn cắp, bị chà đạp, bị mang đi, bị dày vò gần hết, còn gì nữa Quốc vẫn thường tự hỏi.
Chiều nay Duyên mặc chiếc áo dài mầu tím than, cổ kính thuần túy, quần hàng trắng, chân đi dép trắng có vài chiếc quai đan đơn sơ, tất cả đều mong manh lả lướt, tơ nội hóa trang nhã mà đẹp vô cùng. Con gái Bắc quả là biết cách trang điểm, hình như mười hai bà mụ đã cầm tay dạy các cô ngay từ thuở mới lọt lòng mẹ hai điểm chính, thứ nhất là trang điểm, thứ hai là làm ăn buôn bán. Cưới con gái xứ Bắc mà số tử vi không bị hãm, hoặc bị những vì sao xấu số nó đóng nó chiếu vào thì tha hồ mà làm ăn nên. Dầu có vừa bị tra tấn ra mà cho các cô lấy một vài phút là các cô vẫn có thể chỉnh đốn y thường và nhan sắc lại ngay, không để cho điêu tàn xốc xếch như những người miền khác. Khi sa cơ lỡ vận, các cô vẫn có thể buôn bảo bán tần, buôn từ ông Tổng Thống cho đến tấm áo cũ, tùy giai cấp, tùy khả năng, hoàn cảnh để rồi phát triển lại, chẳng mấy chốc mà xây cơ đồ, nói gì đến thứ nuôi nổi năm con với một chồng của các bà Tú ngày xưa.
Mầu áo mặc trong buổi hẹn đầu tiên tức là mầu gặp gỡ đầu tiên, mang một tầm quan trọng rất đáng kể, liệu có bao nhiêu cô ý thúc được. Tóc Duyên buộc gọn ra sau bằng một khúc lụa mầu tím nhạt, hòa nhịp với mầu tím than của chiếc áo, làm nổi bật làn da trắng hồng và ánh mắt đen ngơ ngác. Một lớp phấn mỏng phủ lên da, một thoáng son nhạt trên môi gọi là tiếp tay với thiên nhiên, chứ không cần thêu vẽ đủ năm sắc như các cô gái làm mẫu của thời đại.
Tất cả đều thanh thoát, Quốc chợt nhớ đến thi sĩ Hàn Mặc Tử, đã gọi người yêu là người lụa, thì ra con người lụa vẫn là con người của muôn thuở không phải chỉ được xuất hiện có một lần. Giá Quốc là họa sĩ chàng sẽ nhờ Duyên làm mẫu cho mình vẽ, cố nhiên là vẽ loại tranh lụa. Quốc rất thích loại tranh ấy, nhất là lối vẽ thanh thoát của các họa sĩ Á Đông, lối vẽ mà quãng trắng mang tầm quan trọng không kém gì những quãng có mầu sắc đường nét.
- Hai cô xong hết phần thi cử chưa, thoát nạn rồi đấy chứ, còn gì ưu tư nữa không?
- Thưạ.. xong cả rồi.
Duyên trả lời run rẩy, chưa nén hết xúc cảm, Phi Lan thấy tội nghiệp phải hứng nói đỡ cho bạn.
- Nhất định là Duyên sẽ có điểm tưởng lệ đó anh ạ, tha hồ xin đi ngoại quốc. Học giỏi quanh năm, cả trường đều phải nể, nói đến Kim Duyên là phải thêm ba chữ Ngôi Sao Sáng để cho mọi người khỏi lầm.
Duyên nhìn Lan, hơi cau mặt như muốn trách, sao đã biết mình đang trong tình trạng bối rối như thế nầy mà còn không tha. Ở vào lúc khác thì Duyên cũng có thể cãi vài ba câu nhưng hôm nay quả thật là Duyên đành chịu thua, và rất thèm được cái thái độ tự nhiên của bạn, người đứng ngoài có khác.
- Chiều nay các cô làm gì? Có chương trình gì. Có thì giờ để đi khao với tôi không?
Nghe Quốc hỏi luôn mấy câu, Duyên chưa biết phải trả lời thế nào, biết rằng mình chỉ mong có thế, mong cho cánh thời gian đừng bay nữa, để mình sẽ được ở mãi bên con người độc đáo nầy. Chưa quen mà đã thấy yêu, đúng với câu thơ của nhà thơ tiền chiến. Tập thơ mà Lan đã cho Duyên mượn để xem trước, gọi là trang điểm tâm hồn. Sửa soạn cho cuộc gặp gỡ được hoàn hảo.
- Hoan nghênh ý kiến độc đáo và rất xây dựng của anh Quốc, đưa chúng em đi khao chiều hôm nay thì còn gì bằng, nhưng khao ở đâu đây?
- Tùy đấy, các cô muốn đi đâu cho chọn.
Duyên đưa mắt liếc về phía bạn hỏi ý kiến, vì giờ phút nầy thì quả là Duyên hoàn toàn xin đầu hàng, Quốc đưa tay lên nhìn đồng hồ rồi nhìn lên từng người, đợi ý kiến, mới có năm giờ chiều, còn khá nhiều thì giờ. Trời bên ngoài chưa tắt hết nắng, mầu nắng tuy đã nhạt bớt trên mấy ngọn cây, trên mầu lá, nhưng hơi nóng cả ngày vẫn còn hừng hực, từ mặt đường từ những bức tường của hai dãy phố toát ra. May nhờ một vài làn gió nhẹ thỉnh thoảng thổi tới như hơi thở nhẹ của người mẹ hiền, có thế mới làm cho dân Sài Gòn chịu nổi và mặc dầu sức nóng của mùa hè vẫn nhớ thương, vẫn chỉ muốn được trở về nếu có việc phải đi đâu xa.
- Em đề nghị tụi mình đi ăn món Huế, có một nơi mới mở ở hẻm Phạm Ngũ Lão gần chợ Thái Bình, ngon dễ sợ, anh Quốc chắc chưa biết chỗ nớ nỉ.
Phi Lan nhanh nhẩu đề nghị không cần hỏi ý kiến nhưng Quốc có vẻ ngập ngừng, có ai khao nhau mà mang vào đường hẻm bao giờ, nhất là những con đường hẻm ở Sài Gòn lắm khi phải đi qua nhiều vũng lầy, nhiều đống rác nhỏ, sợ mất phần hào hứng đi chăng.
- Cô Duyên chắc thích món chả cá, ở Tân Định có biết hàng ấy không?
- Không ạ, đâu cũng...
Còn một chữ nữa mà Duyên nói chẳng ra, Duyên còn làm gì dám có ý kiến, ăn gì cũng được, đưa đi đâu cũng đi, chỉ cầu mong cho những giờ phút quan trọng nầy đừng mau chấm dứt. Duyên cũng không thấy cần ăn, một tuần nay Duyên đã ăn rất ít. Duyên không ăn được thức ăn cay, nghe bảo món ăn Huế cay lắm, người Trung làm món gì cũng có bỏ ớt, như người Nam nấu món gì cũng không quên bỏ nước dừa, nhưng Duyên sẽ cố gắng tập ăn cay.
Làm sao để có thể giống như Phi Lan, vui vẻ, hồn nhiên, luôn luôn sẵn sàng đưa ý kiến, không có ý muốn dọa ai và không bao giờ sợ ai, giá lúc nầy Duyên cũng được như thế.
- Sợ thức ăn Huế cay, cô Duyên không ăn nổi đâu, ăn xong mà khóc cả buổi, về nhà sưng mắt rồi lại oán...
- Oán ra tận cửa phòng, nói cho mà biết.
Duyên cau mặt nhìn Phi Lan, chẳng hiểu ý cô bạn muốn nói gì, sao lại oán ra tận cửa phòng. Cả ba cùng cười nhưng giọng cười của Duyên như lạc lõng, ngờ nghệch. Duyên hơi thấy mặc cảm, biết mình thua kém, giá Lan nói về Ronsard hoặc Musset hay ai ai đó trong những chương trình học ở nhà trường thì Duyên hiểu chứ những thứ ngôn ngữ nầy sao nghe lạ lùng, gần đấy, tưởng chừng như hiểu cả mà trái lại sao như xa vời không với tới, tuy cũng là tiếng Việt cả.
Duyện tự hứa sẽ cố gắng, Quốc như đoán biết, chàng nói thêm có ý muốn giải thích, nhưng, với Phi Lan, câu giải thích đã trở thành một câu hứa hẹn, cô em họ nheo mắt cười chế rễu sau câu nói của Quốc.
- Ô hay người ta có làm cho ai phải "sầu lên ngọn ải" đâu mà dọa oán người ta ra tới cửa phòng.
- Có chắc không đây, chắc thì đưa tay móc quéo thề đi coi nào, và phải hứa rằng: "tui xin thề, không làm cho ai phải sầu lên ngọn ải" nữa cả.
Câu hỏi vặn của Phi Lan cho Duyên một ánh sáng, có lẽ Quốc đã từng làm cho nhiều người khổ vì chàng lắm.
- Rắc rối, Phi Lan sao hay rắc rối.
Quốc lại trốn sau hai chữ rắc rối cho khỏi phải đi sâu vào vấn đề. Duyên cũng hẹn thầm sẽ tìm người nào để hỏi kỹ tại sao lại có hai câu ấy, tại sao lại có câu sau là oán ra cửa phòng hay đó chỉ một câu đùa mà thôi. Nói xong hai chữ quen thuộc của mình, Quốc đưa tay vẫy gọi người hầu bàn đến để trả tiền, xong đâu đấy, cả ba cùng đứng lên. Duyên liếc mắt nhìn số tiền nước để lại khá nhiều, cô gái càng mến phục Quốc hơn, biết bao nhiêu người đàn ông của thời đại, nuôi mộng làm lãnh tụ cả nước mà tính nết bần tiện, làm sao cho con dân nhờ, đó là một ý nghĩ mà có vài khi Duyên nghe các anh nói chuyện với nhau.
Một chiếc xe tắc xi sơn xanh, trần xe mầu vàng, cũ kỹ nhưng vẫn còn chạy được, vừa lướt ngang, Quốc vẫy tay, Phi Lan đưa hai ngón tay lên môi làm bộ ta đây anh chị, biết cách gọi xe theo lối huýt còi làm Duyên bật cười. Xe ngừng, ba người đi vội đến, Quốc mở cửa cho hai cô gái lên ngồi ở phía sau, còn mình thì lên ngồi cạnh tài xế. Phi Lan nói địa chỉ rồi lên mặt thành thạo chỉ đường cho bác tài xể để tránh nạn kẹt xe.
Suốt buổi ngồi trong xe cũng như ở quán Huế, Duyên chỉ biết lắng nghe câu chuyện giữa hai anh em Phi Lan. Duyên ăn thật nhỏ nhẹ, thỉnh thoảng lại chống đũa ngước nhìn ra chung quanh, trong lòng rộn ràng, tưởng chừng như ai cũng đoán biết được tâm trạng của mình, mải vui sướng mà quên cả ăn. Bàn nào cũng có từng chồng chén bánh bèo chất cao đợi người đến tính tiền.
Tuy Quốc đã dặn bà chủ ngay từ đầu là làm món gì cũng phải có một đĩa, một bát đừng cho ớt, thế mà mấy lần cô gái phải mở ví lấy khăn tay ra chấm nước mắt, hẳn một phần vì xúc cảm, vì thấy mình được người ấy săn sóc đến, không chờ đợi, không hẹn trước.
- Duyên khóc đấy ư, uống nước vào đi cho đỡ.
- Không sao đâu anh, để Duyên tập dần cho quen.
- Ấy chưa gì mà đã khóc rồi sao Duyên?
Duyên xấu hổ vì bị bạn trêu, lại thêm có mấy bàn chung quanh hình như ai đang chú ý tới mình, không phải dân Huế mà cũng dám xung phong vào đây.
- Tại sao cái dân miền Trung ăn gì cũng phải đòi cho thật cay mới thấy ngon nhỉ?
Phi Lan hỏi xong vội tự trả lời, chắc tại trời hành, miền Trung là miền bị đọa đày, kẻ nào kiếp trước có nhiều tội lỗi thì kiếp nầy phải bị đầu thai sinh làm dân miền Trung chăng? Quốc không muốn đề cập đến những câu chuyện mà có lẽ chàng thấy hơi không đúng lúc, ai lại đi khao mà nói những câu chuyện gay cấn ấy bao giờ.
- Bao giờ có cơ hội, cô Duyên về Huế mà ăn bánh bèo, phải chịu khó lên tới Nam Giao gần núi Ngự Bình kia, mới thật là chính hiệu. Ngày tôi còn đi học, mỗi lần lết chân lên khỏi hai cái dốc đến được ngã tư bánh bèo rồi là bao nhiêu mỏi mệt tiêu tan hết.
- Đố anh tại sao bánh bèo xứ Huế ngon?
- Chịu, biết thì Lan nói đi.
- Tại tôm sông Hương uống nước sông Hương là con sông trong nhất thế giới.
- Thật không Lan?
- Đừng tin Duyên ơi, Lan hay đặt chuyện, cũng như câu chuyện dân miền Trung bị trời hành, trời không phải hành đâu mà là trời muốn thử thách đó.
- Thử thách để làm gì cơ?
Duyên đã bớt ngại ngùng bắt đầu đặt câu hỏi lại Quốc, cô gái như chợt gặp một ánh hào quang đang tuông tràn khắp cả cái quán nhỏ bé nghèo nàn nầy, trước mắt Duyên đây không còn là một cái quán ăn trong hẻm mà đã biến thành một chốn cung điện rực rỡ, câu trả lời của Quốc làm Duyên giật mình.
- Thử xem sức chịu đựng của dân miền Trung đi đến đâu, có bền, có kiên nhẫn...
- Để làm gì cơ? Duyên hỏi vặn thêm, Phi Lan cướp lời Quốc trả lời thay.
- Để trao cho một sứ mệnh quan trọng.
Quốc cau mặt, câu chuyện ra khỏi tầm một buổi ăn khao trong một căn nhà quá nhỏ bé. Chàng không muốn nó cứ tiếp tục như thế, đấy là những ý nghĩ mà Quốc như chỉ muốn dành lấy cất riêng một mình, để làm gì, không để làm gì cả, như anh chàng nuôi con bọ ngựa để chơi một mình, nhìn nó bò ra bò vào trong chiếc hộp sắt, thế thôi.
- Nầy thôi, ăn đi không nói vớ vẩn, chẳng tại làm sao cả, tại cái dân miền Trung khá khôn ngoan, biết rằng ai ăn được ớt thì sống lâu, vì ớt làm an ninh cái dạ dày.
- Thật không anh, thế thì Duyên phải tập ăn thật cay mới được.
Nước chè có bỏ chút gừng ngon chi lạ, Duyên uống thử đi mà xem, chịu là ngon chưa?
Duyên nâng cốc nước lên uống luôn một hơi rồi đặt cốc xuống bàn trả lời bạn.
- Chịu, quả là đặc biệt, ai ngờ nhỉ.
Quốc nhìn Duyên, Duyên cũng ngước mắt nhìn lại, cô gái đang thầm phục cái dân mà, như Quốc vừa nói nghèo mà khôn, chẳng biết có phải vì quá nghèo nên trời cho trí khôn để sống chăng. Ngày mai Duyên sẽ dặn riêng chị bếp đi chợ phải nhớ mua thật nhiều ớt cho Duyên ăn, hẳn cả nhà sẽ ngạc nhiên, Duyên sẽ giải thích bảo ăn ớt sống lâu, chắc là rồi cả nhà cũng sẽ dành ăn vì ai chẳng muốn sống lâu mà hưởng sự sung sướng.
Phi Lan còn muốn trở lại với cái dân tộc Do Thái được trời chọn và cả dân tộc miền Trung cũng đang được trời chọn nhưng bị Quốc gạt đi.
- Thôi xin cô cất cái dân tộc "được chọn" của cô lại để dành vào hôm khác.
Phi Lan nhìn Duyên rồi nhìn ông anh họ mỉm cười, nụ cười tinh quái, trêu ghẹo, biết rằng cô bạn gái đã bị ông anh thu mất hết hồn vía, bị ngay từ hồi mới nghe tiếng sáo, Phi Lan quay lại nói thầm với Quốc, một câu mà nếu có nghe được, chắc Duyên cũng không hiểu.
- Ba hồn chín vía con về ăn cơm cá cha mẹ...
Quốc cau mặt mắng cô em họ.
- Nói bậy nhé, người tạ..
Bị mắng, cô em gái lại càng tin chắc hơn là lần nầy ông anh cũng đã cắm câu, không còn dám tỏ ra gỗ đá nữa. Con người nổi tiếng là "Thiên hạ đệ nhất vô tình" mà hôm nay cũng biết kiêng cữ. Câu hú hồn nầy chỉ dành khi nào trẻ con bị ngất đi, bố mẹ mới phải dùng đến để hú hồn về, chứ ngày thường chẳng mấy ai nói.
Tiếng sáo mà Lan vẫn gọi là phi chuyên gia ấy, đã từng làm ướt cá chục tá khăn tay của bao nhiêu đàn bà con gái. Thế mà người thổi sáo lúc nào cũng như có bàn tay bịt mắt che tai, không lấy đó làm điều kiêu hãnh như những người khác. Trái lại, Quốc vẫn trốn những buổi văn nghệ, những buổi hội họp của các hội thơ nhà giàu, tổ chức để ăn uống với nhau cho thỏa thích rồi sau đó mới bắt các nghệ sĩ nghèo ra ca ngâm những tác phẩm của mình, bắt mọi người phải thưởng thức, và cố nhiên là phải trầm trồ khen ngợi, nói những lời tâng bốc mà lắm khi chính tác giả cũng biết thừa ra rằng người ta chỉ làm bổn phận sau khi đã ăn bữa tiệc của mình đó thôi.
Mấy lần Quốc cũng bị đưa vào tròng, bắt phải thổi sáo để đệm những vần thơ ấy, chẳng khác nào như gấm vá áo vải bố rách. Nhà giàu vốn thích khoác thêm áo văn nghệ lên mình vì sợ người ta biết tông tích của sự giàu sang do từ đâu đến.
Sau một vài phen bị mời, Quốc nhất quyết từ chối tất cả mọi buổi họp, thế là khỏi lo. Các bạn la rầy, chê bai, bảo phải đổi tính đi chứ cứ như thế thì ai chịu nổi. Có người đặt tên Quốc là Tiêu Lang, ngôi nhà chàng ở được mang tấm biển kẻ ba chữ Thái Hoa Sơn, là tên ngọn núi của Tiêu Sứ ngày xưa đã từng ở để thổi sáo. Chỉ còn chờ Lộng Ngọc nữa là đủ bộ, hai người có thể cưỡi hạc để bay lên trời, thoát tục.
Nhưng đời nay làm gì còn có Lộng Ngọc, Quốc vẫn cãi với các bạn như thế. Nhìn ra chung quanh toàn một thứ sản phẩm của đô thị, rập theo mẫu các tờ báo Âu Mỹ gửi đi bằng đường hàng không. Họ hàng tin rằng Quốc là cốt nhà sư, vì tính chàng hiền lành không bao giờ nghe cãi nhau hoặc giận hờn nhau với ai, lại trốn đàn bà, sợ phiền phức, khác hẳn với các bạn cùng lứa.
Được Quốc hẹn cho đi xem triển lãm họa theo lối cổ Á Đông, Duyên mừng lắm, mấy đêm thao thức chờ đợi không ngủ được, lúc nào cũng chỉ mong cho chóng đến ba giờ chiều hôm ấy. Biết rằng sống trong chờ đợi vẫn có một thứ hạnh phúc thi vị khác biệt, không phải là không gợi hứng. Con người phải biết mang ơn Thượng Đế đã cho mình làm người, đã tạo ra thế giới loài người để đặt mình sống vào đấy. Liệu những hành tinh khác có được như quả đất nầy không? Nếu Thượng Đế không buồn tình, ngồi tẩn mẩn nghĩ ra sự sáng chế một thế giới loài người thì sao nhỉ? Làm gì có Quốc? Làm gì có Duyên? Làm gì có tiếng sáo hôm ấy và cuộc đi xem triển lãm hôm nay.
Tuy vẫn chưa có dịp để được nghe lại tiếng sáo, nhưng Duyên vẫn đang như ngây ngất, đang vui, đang tràn trề hy vọng. Trong cái nhìn, trong giọng nói của Quốc, như có chất chứa một chút hứa hẹn. Người con gái được trời cho nhan sắc và trực giác để làm khí giới, cũng như người con trai nhận của trời sức khỏe và ý chí, can đảm, để đánh nhau với thiên nhiên.
Duyên nghĩ như thế, và lạ lùng chưa, quả là từ ngày biết Quốc, Duyên cũng đâm ra biết suy nghĩ, biết tìm tòi các thứ sách vở hỏi thăm người nầy người khác, một câu ca dao, một vấn đề. Nhờ trực giác, Duyên tin chắc rằng Quốc cũng không thể hờ hững với mình. Lắm khi đang ở cạnh mẹ hoặc đang đọc sách hay làm một việc gì, Duyên bỗng cảm thấy nôn nao, ngỡ rằng Quốc đang nghĩ tới mình đang chờ đợi mình. Nhà lại có chị ở rất hay tin nhảm, từ trước mỗi khi nghe nói đến, đều bị Duyên phê bình là nhảm, dị đoan vì các cha ở nhà thờ hay bảo thế, chị ở có tài nghe chim mà phân biệt được chim nào là chim khách, tiếng chuột rúc cũng là để báo tin vui cho chủ nhà, mắt giật vào giờ nào thì có người xa tới, hoặc có người đang nhắc mình, Duyên rất thích hỏi chị ở để biết thêm những thứ tin nhảm ấy, ngày nay đối với Duyên nó mang một tầm quan trọng lãng mạn khác hẳn.
Mẹ Duyên, bà Mỹ Hưng vẫn bảo từ khi sinh Duyên ra thì cả nhà đều gặp may mắn các anh học hành giỏi, bà cũng buôn bán phát đạt, mỗi ngày một phát đạt hơn. Duyên là con cầu tự, bà phải đi lễ cả năm, qùy rục gối mới được Đức Mẹ ban cho, người mẹ tin rằng vì số Duyên may mắn nên mới xui bố mẹ làm ăn phát đạt, như thế có gọi là tin nhảm không?
- Sau nầy ai có phúc mới được rước con gái bà về làm vợ, tha hồ mà xây dựng cơ đồ.
Đó là câu người mẹ vẫn nói với mình, với chồng con, sự thực thì chỉ có số hồi môn và các món nữ trang bà mua để dành cho con gái cũng đủ sống mãn đời rồi. Số Duyên quả thật là may mắn, tình yêu thứ nhất mà được đền đáp lại, trong khi có bao nhiêu cô gái bước lên xe hoa về nhà chồng với một mối hận dài. Biết bao nhiêu người yêu mà bị hắt hủi, gặp tử địa để rồi sống dở chết dở. Duyên không bị rơi vào những hoàn cảnh ấy, tin rằng Quốc sẽ yêu mình tương đương với tình mình dành cho chàng.
Đứng trước cánh tủ gương lớn soi cả người, Duyên quay tới quay lui mấy lần để ngắm xem nếp áo chị ở là có thẳng, đường tà có nhăn nhúm. Duyên cảm thấy hài lòng với chiếc áo mầu cát bể rất phù hợp với ánh nắng chói bên ngoài. Trời nóng mầu cát bể gợi về tiếng sóng, tiếng gió rừng thông và sẽ dìu tâm tư người đi vào đại dương.
Quốc sẽ thích lối trang điểm, lối ăn mặc của mình, Duyên tin chắc như thế. Mái tóc nầy được buộc lên bằng một giải nhung mầu nâu đậm thanh tao, tương phản với cái gáy trắng hồng, với những sợi tóc tơ lòa xòa đen huyền. Ngày nào quen thân với Quốc, chắc Duyên sẽ đổi kiểu tóc, đố ai biết được vì sao, một lý do thầm kín, bí mật, nhưng rất dễ hiểu, kiểu tóc ấy chỉ là sự vứt bỏ giải lụa cho tóc sổ tung, xòe ra, che mặt, che cổ. Người quen sẽ không thể nhận biết, không bị ai mách với mẹ và các anh, hoặc dẫu mẹ hay các anh có bắt gặp cũng không ngờ là con em mình.
- Duyên hôm nay đi đâu mà ăn mặc, trang điểm xinh quá vậy con?
Bà Mỹ Hưng ây yếm nhìn con gái kiêu hãnh hỏi, thầm nhận rằng con gái mình càng ngày càng thêm xinh. Đã có nhiều đám nhắn nhe, nói xa nói gần, đòi làm mai làm mối. Nhưng nhìn kỹ, đám nào cũng không xứng đáng. Lại còn phải so đôi tuổi, phải xem xét gia thế. Con gái bà nào phải ươn thiu gi mà lo tống vội tống vàng, con bà là châu, là ngọc. Không dò xét cho kỹ để đi kết thông gia với cái quân bạc đức, về sau chỉ có con cháu bà khổ, tội vạ gì. Nhất là với mấy chục năm chiến chinh, biết bao nhiêu người đã nên danh nên phận nhờ ăn chặn, nhờ lọc lừa, nhờ dối trá. Ra đường thì oai vệ lắm, tiền hô hậu ủng, mà thử đưa móng tay cạo sơ cái lớp sơn bên ngoài thì nó thòi ngay lớp gỗ tạp, mối ăn rỗng cả ruột bên trong. Một số người con mang tội với dân tỵ nạn từ miền Bắc vào, lấy tiền của dân tỵ nạn, tội ấy rồi sẽ phải trả đến đời con cháu. Một vị linh mục chuyên trông nom cho dân tỵ nạn miền Bắc đã từng phàn nàn với vợ chồng bà, ngài bảo Chúa sẽ không tha đâu.
Bà Mỹ Hưng cũng không đồng ý với các bà bạn khác cứ kêu rằng có con gái trong nhà như giữ quả lựu đạn, chẳng biết lúc nào nó nổ, gặp đám nào cũng lo đánh tiếng, tìm đủ mọi cách mà bẫy cho vào tròng.
- Con đi xem triển lãm ở khách sạn Continental, vào lối sáu giờ con về, mẹ cho phép nhe.
Duyên nói cho có lệ chứ biết rằng mẹ không bao giờ từ chối, ngăn cản vì quả thật là từ xưa Duyên chưa hề dối mẹ, và người mẹ lúc nào cũng tin con gái.
- Con bảo tài xế đưa đi chứ trời nắng thế nầy mà ra đón tắc xi ngoài đường thì bụi bẩn hết cả quần áo.
- Mẹ không cần xe đưa đi đâu sao?
- Không, mẹ ở nhà chiều hôm nay, nhưng ba con cần xe đón vào lối năm giờ, con dặn tài xế đón ba con rồi ra trở lại đón con sau.
- Thôi, lúc về có tắc xi ngay đấy.
Quốc chờ Duyên ở phía cửa trước khách sạn, Duyên dặn tài xế khỏi cần đón mình, xong rồi mở cửa bước xuống xe, cố ý chậm rãi bước đợi cho xe đi khuất, chẳng muốn cho người tài xế biết có ai đang chờ mình. Người ăn người ở vốn tò mò, ngày xưa thì chẳng sao chứ bây giờ cần phải cẩn thận.
Tình cờ không hẹn mà Quốc cũng mặc chiếc sơ mi gần cùng một mầu với tấm áo dài của Duyên, thì ra anh chàng cũng thích mầu cát ướt nầy chăng?
Còn sớm, phòng triển lãm chưa có mấy người, Duyên đi sát Quốc, song song bước vào. Quốc kéo Duyên bắt dừng chân lại ở ngưỡng cửa để nhìn một lần bao quát hết tất cả mấy chục tấm tranh treo quanh tường trước khi đi đến gần, nhìn kỹ từng bức tranh.
Duyên im lặng nghe Quốc giảng giải, phê bình từng nét vẽ, từng bức tranh.
- Duyên nhìn xem, bức tranh nầy, tác giả ăn cắp ý của người xưa, nhưng ăn cắp mà cho biết cách cũng là đáng khyến khích.
Quốc vốn kỵ những luồng gió Âu Mỹ, chỉ sợ nó tràn qua xứ mình rồi bao phủ làm ngập lụt chìm đắm hết và cái giống người Việt Nam với cái văn hóa truyền thống bị mất đi để nhường cho một thứ lai căng phi Âu phi Á. Biết rằng những ý kiến nầy đưa ra thường bị một số lời chỉ trích phê bình là lạc hậu, cổ lỗ, bảo thủ nhưng Quốc vẫn lờ đi, không thèm để ý tới.
Quốc có thiện cảm với Duyên ngay từ phút đầu vì thấy cô gái biết trang điểm hợp ý mình, không mặc chiếc váy xòe, váy bó, hoặc chiếc quần nứt đùi nứt vế ra mà đến gặp chàng hôm ấy. Theo Quốc người Á Đông mà bị người Âu đô hộ là khó chịu rồi, ngột ngạt kìm kẹp rồi, nếu cùng là dân da vàng với nhau liệu có đỡ bị gò ép chăng. Có người bảo ngược lại da vàng với nhau sẽ bị đồng hóa, nhưng nhìn lại cả nghìn năm bị người Tàu đô hộ mà dân Việt Nam đâu có trở thành Trung Hoa. Dầu sao, người Việt Nam ngày nay đã tạo cho mình được một nền văn hóa vững chắc, một nếp sống, một đường huớng suy tư riêng biệt. Sự gạt bỏ nét mặt của ông cha mình để lại, đi tìm một khúc nhựa độn lên mũi cho giống hệt người dân Âu Mỹ, chẳng những nó không phù hợp với tính chất mà cả với cơ cấu, thể xác của người Á Đông... Nhưng đây chỉ là những ý nghĩ riêng tư, thầm kín của Quốc, và hẳn cũng do những ý nghĩ ấy nên mới đưa đến cuộc đi xem triển lãm hôm nay.
Quốc vẫn cáu kỉnh mỗi khi mở quyển lịch sử viết vào thời pháp thuộc, đọc đến trang Nguyễn Ánh đi cầu viện người Pháp, xin giúp tàu bè khí giới để đánh lại quân Tây Sơn, nhất là nhìn bức tranh vẽ Hoàng Tử Cảnh theo Bá Đa Lộc đứng trên chiếc thuyền quả là đáng rơi nước mắt, chỉ muốn lật trang sách qua nhanh để khỏi phải nhìn. Cũng may là khi Quốc khôn lớn thì người Pháp đã đi rồi, nếu còn, chắc suốt đời Quốc sẽ được ăn cơm tháng trong tù, dầu không có chân trong đảng phải nào cả.
- Mời Duyên đi xem buổi triển lãm hôm nay mà tôi ngại quá, chỉ sợ Duyên không thích, loại tranh nầy bây giờ ít người biết thưởng thức.
- Sao anh lại bảo thế? Em không biết thì anh giảng.
Tiếp theo câu nói là cái nhìn âm u trách móc, cô gái tự hứa sẽ cố gắng để chứng tỏ cho Quốc biết rằng mình không đến nỗi nông cạn, tầm thường như chàng tưởng.
- Sợ Duyên con quá trẻ, nhất là từ thuở bé học trường Pháp, chỉ được nghe giảng dạy về các vĩ nhân Pháp, văn thi nhân Pháp.
Quốc ngừng không nói thêm, tiếp tục nhìn tranh, có lúc chàng đứng dừng lại khá lâu trước một bức tranh. Có lúc đang đi, Quốc bỗng nắm tay Duyên kéo giật lại, làm Duyên ngơ ngác. Quốc muốn bắt cô gái cùng dừng chân ngắm với mình, chia sẽ với mình, chàng gật gù đắc ý, có khi buông tay Duyên để lùi ra xa, Duyên cũng phải lùi theo.
- Bức tranh nầy hoàn toàn bắt chước theo bức Tảo Xuân Đồ của Quách Hy, Duyên thấy không? Cũng cảnh sa mù trong núi, những khối đá mạnh mẽ như khảm khắc vẽ bằng mực đậm, trái lại, cây cỏ được vẽ rất nhẹ như bị chìm đắm trong sa mù, ngọn cây trầm mà thân cây thật mạnh, vượt lên...
Giọng phê bình rắn chắc, sành sỏi, Duyên chắc Quốc phải từng ngồi hằng giờ trước những tấm tranh để tìm tòi, so sánh, mới có thể nhớ kỹ đến thế. Duyên thành kính đi nép sát vào Quốc, như muốn ăn, muốn uống tất cả từ giáng điệu, cử chỉ đến tư tưởng của người đàn ông ấy.
Mọi sự điều mới mẻ, đối với Duyên đều chưa bao giờ được sống qua, chưa bao giờ xảy tới. Thần tiên.
- Anh Quốc có vẻ mê tranh cổ lắm nhỉ?
- Khỏi phải nói. Nhà anh có mấy cuộn tranh của ông cụ tổ để lại, chạy bao nhiêu lần tản cư mà bố anh bỏ hết chỉ ôm mấy cái bó tranh gia tài tinh thần ấy. Nếu không có bà cụ thì chắc cả nhà chết đói nằm nhìn tranh. Còn bố thì, thà chịu nhìn con cháu chết, chứ nhất định không rời tranh, nhất là mấy bức cổ tự.
- Cổ tự? Là gì hở anh?
Duyên ngơ ngác, ở trường học chẳng bao giờ nghe nói đến những thứ ấy.
- Bao giờ có dịp anh cho Duyên xem, chắc Duyên chẳng hiểu gì đâu. Cổ tự mà nếu ai không phải là chuyên gia thì đành chịu, giỏi mấy cũng chỉ có bập bẹ. Nhưng cổ tự là một nghệ thuật thượng đỉnh của hội họa.
Quốc bỗng mỉm cười sau câu nói, biết rằng Duyên đang như kẻ lạc vào đám sương mù, chàng còn muốn trêu thêm cô gái vài câu nhưng sợ Duyên dỗi nên phải vớt vát bằng mấy câu nói sau.
Đến trước một bức tranh về cành tre, Quốc lại dừng chân, lại nheo mắt, lại lùi xa đứng ngắm thật lâu.
- Tại sao anh phải lùi như thế?
- Lui để nhìn rõ cái thế của bức tranh, đứng gần chỉ nhìn thấy rõ cái chất mà thôi.
Duyên cau mặt, cô bắt chước cũng lùi xa nhưng không cảm thấy gì.
- Anh giảng cho em đi. Thế là ở đâu? Chất là gì?
- Bức tranh nầy bắt chước cả từ cái tên, cũng mang tên Mặc Trúc. Ngày xưa Văn Đổng đời nhà Tống cũng có một bức Mặc Trúc rất nổi tiếng, ông ta chỉ tài tình chuyên vẽ trúc mà thôi. Bức tranh nầy, nếu ai không biết, mới nhìn qua tưởng như là một phức bản của Văn Đổng. Cũng cái điệu vẽ cành trúc ngã cong xuống, giống hệt như cánh cung đang được dương lên, mắt tre như đuôi nhạn, không có nét luân quách và lá tre như những lưỡi kiếm, giận dữ, chen chúc...
Quốc say mê giảng, không cần biết là cô bạn gái có nghe và có hiểu hết ý mình. Những điểm nầy Quốc khỏi thắc mắc, không hiểu thì Duyên cũng khắc khám vào tâm trí để còn hỏi lại.
- Thế nào để nhận giá trị một bức tranh anh nhỉ?
- Cần nhất là bức tranh không tục, tức là không nặng nề với những khối mực thiếu quân bình, trơ trơ ra, và cố nhiên là phải nhìn thấy cái khí vận. Nếu khí vận không tỏa ra thì vứt đi.
Duyên nghe thì biết vậy thôi, chứ khí vận là gì quả là Duyên chưa hiểu nhưng không dám hỏi nhiều, sợ Quốc nản vì thấy tầm hiểu biết quá ít ỏi của mình. Đành chờ về nhà mở tự điển tra chữ khí, vận, xem nó là nghĩa gì, Duyên tự hứa như thế.
- Sao anh thạo về hội họa dữ vậy?
- Chẳng thạo đâu, chỉ họa trong tâm tư thôi, không biết quẹt lên giấy.
- Sợ tục phải không?
Duyên vừa nói giọng đùa vừa cười, Quốc cũng vui vẻ cười theo, nhận thấy cô gái khá thông minh.
- Chắc thế. Thật ra tôi chỉ chuyên về lý thuyết.
Chung quanh đã bắt đầu có nhiều người đi dạo qua dạo về, tay còn cầm thiệp mời, người ngoại quốc nhiều hơn người Việt Nam. Chẳng có ai biết nhìn tranh mà tìm hình, tìm thế, vận, tính, của một bức tranh như Quốc.
Có những đôi mắt thật hững hờ, đi đến cho có lệ, đi vì chẳng biết đi đâu, đi để chờ giờ vào tiệm ăn thì đúng hơn. Duyên nhận thấy trong đám người đi xem, chẳng có ai được cái may mắn của mình hôm nay. Được đi xem triển lãm với một người chuyên về hội họa, cổ họa, còn đòi gì hơn.
- Anh Quốc dạy em nhé.
- Dạy gì? Tôi có biết gì hơn ai đâu mà dạy.
- Anh dạy em thổi sáo, dạy em hiểu về hội họa, dạy em... Duyên ngập ngừng, đòi gì thêm nữa, tin chắc rằng Quốc còn biết nhiều và mình còn cần phải học nhiều nữa.
- Dạy cho Duyên làm người Việt Nam, yêu nước Việt Nam, không vọng ngoại, không trở thành vong quốc nộ.. chịu không?
Giọng Quốc nửa đùa nửa thật nhưng thấy Duyên ngơ ngác như từ một chân trời nào lạc tới, nên chàng tha, ngừng, không nói trêu thêm nữa. Gần một tiếng đồng hồ, Quốc và Duyên đi quanh phòng triển lãm, Duyên cảm thấy hơi mỏi chân. Có những bức tranh vừa tới là Quốc đã giữ Duyên lại, bắt dừng chân thật lâu, chỉ cho Duyên xem từng nét, giảng về cách vẽ, thế nào là nét trực lập, nét suân, loại suân nào được dùng nhiều ở thời đại nào, ở lối vẽ nào và tác giả nào.
- Duyên thấy không, bức tranh nầy tác giả đã dùng bột mầu để vẽ thân cây, chứ không dùng mực. Lối xử dụng bột nầy do Triệu Can, một họa gia của thời Ngũ Đại đã phát kiến ra, sau đó các họa gia khác đều bắt chước mỗi khi cần để vẽ cảnh núi xa xa.
Giọng Quốc giảng giải thầm thì bên tai vừa đủ cho Duyên nghe, không dám làm rộn người khác. Nhìn thấy cô gái hơi có vẻ mệt, Quốc cũng thấy áo sơ mi của mình như sát vào lưng, mặc dầu mấy cái quạt trần vẫn quay tít, mà không khí vẫn nóng bức, Quốc đề nghị sang trà đình uống nước nghỉ chân, và nghỉ cả tâm trí, vì đi xem một cuộc triển lãm với tất cả tâm trí cũng làm mệt tâm trí không kém đọc một quyển sách, đàn một bản đàn, vẽ một tấm tranh.
Duyên có vẻ ngập