Vắng Quê

Vắng Quê

Tổng số chương: 1

Chị thắp ba nén nhang. Mắt đỏ hoe, sụt sịt nói với mấy đứa con: “Tội nghiệp bà ngoại. Lúc gần “đi”, bà chỉ ước ao được ăn bữa cháo cá. Vậy mà…”. Chị nghẹn ngào. Mùi hành phi, tiêu đậm toả thơm từ tô cháo cá nghi ngút trên bàn thờ khiến khuôn mặt người trong di ảnh lung linh.

Xóm ven thị trấn vùng biên gần đây xuất hiện một bà già. Bà có dáng đi của người phụ nữ nông thôn vất vả. Đầu chúi về phía trước, lưng gập xuống, hai tay vòng ra sau ôm cái bị cói ngang hông. Bà đi chậm rải, đếm từng bước chân, chừng như sợ đoạn đường phía trước sẽ mau hết. Xóm chỉ có độc một con đường ngắn ngủn dẫn ra chợ, mà bà lại chẳng biết làm gì ngoài việc đi, lang thang cho hết thời gian. Một ngày của bà quẩn quanh chỉ có mấy việc. Quét sạch bóng trong nhà, ngoài sân, nhổ đến cọng cỏ cuối cùng mới lú nhú, tỉa tót mấy cây cà cây ớt, rải nắm thóc cho lũ gà là xong. Bà xớ rớ đi ra, vào, thẫn thờ, bồn chồn, rồi lại ôm túi cói đi. Với bà, ngày bỗng trở nên dài quá. Trống trải, im lặng đến sợ.

Giá mà còn ở dưới quê, cái xã Đại Hoà của một tỉnh miền Tây cật ruột xa tít mù, hẳn bà đã có nhiều việc phải làm. Ghé nhà chị Tư khá giả nhưng neo đơn rửa giúp mớ tô chén, sang nhà con Sáu Huê bị liệt hai chân bắc cho nó nồi cơm trên cái cà ràng nám khói, qua cậu Tám bị bệnh nám phổi nấu cho ấm nước châm trà, chụm lửa liu riu xiêu thuốc nam rồi chép miệng than tội nghiệp thằng em vô phước có con vợ tệ bạc, nhằm lúc chồng ốm đau lại bỏ đi biền biệt. Giá mà đừng có cơn bão trái nết quái ác lùa bất ngờ qua miền đất yên lành đó thì có lẽ bà vẫn còn ở đấy. Hàng ngày với những công việc linh tinh, không tên, nhưng vẫn cho bà cái cảm giác hạnh phúc, an lành trong không gian đậm đặc tình nghĩa cật ruột xóm làng. Đất quê nghèo mà thân thuộc. Tách bà ra khỏi đó, bà giống như con cá đồng bị thả vào bồn cá kiểng, buồn xơ rơ. Nhớ cái hôm bão về, tới giờ bà còn sợ.

Trong đời bà chưa bao giờ chứng kiến cảnh mưa gió bạo tàn như vậy. Gió ầm ầm thổi tung nhà cửa, lay đổ cây cối trong vườn. Mưa ào ào như trút nước, quăng quật đập tơi tả mọi thứ dưới mặt đất. Căn nhà lợp bằng lá dừa nước mỏng manh của bà bị xé tung ngay đợt gió đầu tiên. Bà run rẩy chạy sang ngôi nhà xây của bà chị kế bên, chui xuống gầm bàn thờ miệng lâm râm khấn vái “Nam mô quan thế âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn”. Bão tan, cả xóm nghèo tan hoang. Nhà trong xóm sập gần hết. Nghèo khổ chồng lên nghèo khổ, hằn lên những gương mặt xơ xác. Bà với thằng Út mót mái những gì còn lại che túp lều ở tạm. Con trai, con gái, con rễ hay tin kéo nhau về rồi thống nhất bắt mẹ phải bỏ hết lên ở với mình, sống làm chi nơi cái xứ vừa nghèo vừa buồn muốn chết.

Bà phân vân, hụt hẩng. “Đi sao được bây. Còn mồ mả ba mầy, chị Hai mầy, với lại…”. Con gái cương quyết: “Mồ mả tụi con xây đàng hoàng, mỗi năm má xuống một lần tảo mộ rồi thăm bà con. Không có “với lại” gì hết. Má không nghe lời thì tụi con bỏ…”. Bà lặng người. Trằn trọc mấy đêm, cuối cùng bà tặc lưởi: Ừ thì đi. Để thằng Út mới hai mươi tuổi đầu thôi lụ khụ như ông già, bởi ở đây chẳng có việc gì làm, ngày ngày cứ chúi đầu vào sòng rượu say sưa. Để mấy đứa ở trển không giận mà bỏ luôn bà già, khiến bà không còn chỗ lâu lâu cùm nụm cùm nịu mớ cua, mớ khô lên cho, nghe tụi nó rầy bà già lên chơi mang xách chi cho cực vậy. Rồi sau đó bà vui khi thấy tụi nó rủ bạn bè tới nhậu nhẹt ca hát om sòm, còn khen mồi ở quê ngon quá. Bà như con chim già đã bị cơn bão trái nết thổi bạt về một miền đất khác, nơi hoàn toàn xa lạ, nhộn nhịp hơn nhưng cũng buồn hơn vì thiếu bầy đàn.

Vợ chồng đứa con gái mua cho bà miếng đất. Thằng con trai công tác ở một cơ quan huyện vận động bạn bè, chiến hữu xây cho bà căn nhà tình nghĩa gần bên. Mỗi tháng trợ cấp cho bà mớ tiền đủ để sống qua ngày. Thằng Út đã đi làm dưới thành phố cả năm về một vài lần. Lâu lâu vợ chồng đứa con gái từ thị xã phóng xe lên thăm, mua sắm dầu mỡ, mắm muối, gạo đường để đầy trong tủ. Con gái cằn nhằn khi lôi ra những hủ, chai đóng mốc trắng vì lâu ngày không đụng đến, có khi là nồi cơm còn mớ cháy khô cứng dưới đáy. “Tao một mình, ăn uống bao nhiêu bây”, bà phân trần khi thấy vẻ mặt quàu quạu và cái giọng trách móc của con.

Ở đây, bà như một thứ sinh vật thừa thải, chẳng liên quan gì đến đất trời, con người, ngay cả cây cỏ cũng thờ ơ lạnh nhạt. Xung quanh toàn là cao su, những hàng cây thẳng tắp, chen chúc, vô hồn, khiến bà như ngộp thở. Bà thiếu tiếng người quê. Bà xốn xang nhớ những cơn gió biển thổi về từ cửa Đại, nồng nàn, ngai ngái mùi muối mặn. Nhớ hương lúa làm đòng thơm như hơi thở trinh nữ. Nhớ âm thanh lách tách của lủ cá đồng ăn đêm trên ao đầm. Nhớ tiếng vạc kêu chiều xao xác lòng người. Dần dần bà mất luôn cảm giác đói. Nồi cơm bé xíu ăn hai ba ngày, hạt cơm hâm đi hâm lại rệu rã, thức ăn nhiều lúc để thiu ôi chẳng đụng đến. Có bữa bới chén cơm ngồi một mình trệu trạo nhai mà nước mắt bà ứa ra vì nhớ một cái gì đó mông lung, vời vợi. Sợ con gái lên thăm cằn nhằn, gạo thóc mắm muối bà cho bớt mấy người ăn xin. Thấy mẹ sao ngày càng gầy yếu, con cái lại tíu tít thuốc bổ, sữa đường cho mẹ bồi dưỡng. Chẳng có đứa nào hiểu được thẳm sâu trong lòng điều bà cần. Mà có nói ra chắc gì chúng chịu. Bà bắt đầu nói chuyện một mình. Những màn độc thoại triền miên khiến mấy đứa cháu nội ở gần phát hoảng không dám đến chơi với bà. Chuyện nọ xọ chuyện kia, không đầu không đuôi, nhớ đâu bà nói đó, toàn là chuyện dưới quê, hệt như mọi thứ đang hiện diện trước mặt bà.

Bà đổ bệnh. Cơn đau âm ỉ trong bụng kéo dài nhiều tháng nhưng bà chẳng nói với ai. Bà càng sợ ăn. Người bà khô quắt, dáng liêu xiêu trên con đường đi mỗi ngày càng ngắn lại. Đêm đêm bà chìm trong những cơn mộng du. Nhắm mắt lại là bà thấy ông đang ngồi co rút ôm ngực ho xù xụ, con Hai tay chân quều quào tập tểnh bước ra cầu ván ngoài ao rồi chìm lỉm trong làn nước đục ngầu, tay còn vẫy vẫy với bà. Hoảng hốt bà chạy ra, nhưng trời bỗng tối sầm, giông gió nổi lên, mưa như trút nước, hình ảnh con Hai mất hút vào bóng đêm sâu thẳm. Bà hét lên rồi giật mình mở mắt mới hay mình đang đứng phía sau nhà, mặt hướng về lô cao su mịt mù. Những lần như thế bà lại thức cho đến sáng. Rồi nhiều ngày trôi qua, bà như cây chuối úng nước, rũ dần. Khi mấy đứa con hay tin, bà chỉ còn húp được chút sữa.

Hết bệnh viện này đến bệnh khác đều lắc đầu không tìm ra căn nguyên, bệnh án ghi chung chung: suy kiệt cơ thể. Mấy đứa con đưa bà về. Bà nằm đó thiêm thiếp, thỉnh thoảng thều thào vài tiếng bằng thứ hơi thở mỏng manh. Con gái túc trực bên giường mẹ chăm sóc ngày đêm. Vừa xót ruột thương vừa trách giận. Già rồi ăn uống tốn kém bao nhiêu, con cái có để mẹ thiếu thốn gì đâu, vậy mà bà lại nhịn ăn nhịn uống đến nỗi bị suy kiệt. Chiều hôm đó, bỗng dưng bà đưa mắt lờ đờ nhìn con gái rồi mấp máy môi nói khá rõ ràng: tao thèm cháo cá. Con gái quýnh quáng ra chợ tìm mua cá. Cả cái chợ chiều thị trấn miền biên này không có một cái vảy của con cá đồng. Quán ăn, quán nhậu cũng toàn là thịt. May sao gặp người đi câu từ đồng xa về, chị nài nỉ chia được hai con cá tràu nhỏ bằng chân cái. Khi mùi cháo cá lan toả trong gian phòng mờ mờ, gương mặt bà giãn ra, hơi thở trở nên nhẹ nhàng và đều đặn. Con gái định để bà ngủ một giấc rồi cho ăn sau, khi cháo nguội. Nhưng chẳng bao giờ bà còn có thể ăn được nữa. Cái mùi hương đồng quê chợt bật lên từ tiềm thức cũng chính là sự khát khao cuối cùng của bà.

Con gái dành phần thờ cúng mẹ. Đám giổ bà luôn có tô cháo cá đồng đặt trang trọng trên bàn thờ, và khi thắp nhang, lần nào chị cũng nói với mấy đứa con bằng cái giọng sụt sịt: Tội nghiệp bà ngoại…

PHƯỚC HỘI


Sách tương tự