
Vợ Người Lính Kỵ Binh
Tổng số chương: 1
I.
Sau cuộc bại trận Bourbaki tại miền Đông nước Pháp, quân đội tan rã, hao hụt và xơ xác buộc phải rút về Switzerland. Lệnh rút quân chỉ trong thời gian ngắn để một trăm năm mươi ngàn người thoát được cái chết trước mắt. Đói, lạnh thấu xương, chân không ủng lội tuyết qua những con đường núi ghồ ghề làm chúng tôi tơi tả. Khổ sở nhất là vì chúng tôi không có lều, thức ăn hầu như cạn kiệt, luôn ở vị trí tiên phong khi hành quân đến Belfort, và tụt hậu khi thê thảm quay về. Quân đoàn chúng tôi được điểm danh là một ngàn hai trăm quân vào ngày 1 tháng giêng, nay chỉ còn hai mươi hai tên yếu đuối, gầy gò, lê thành hàng dài trực chỉ biên giới Thụy Sĩ.
Nơi đây chúng tôi được an toàn và có thể nghỉ ngơi. Mọi người thông cảm với đoàn quân không may của nước Pháp, thế là chúng tôi được chăm sóc tốt. Như được hồi sinh, ngay cả người đã từng giàu có và hạnh phúc trước cuộc chiến cũng tuyên bố rằng họ chưa hề có được cảm giác thoải mái như vậy. Nghĩ coi: có thức ăn hàng ngày và được ngủ mỗi tối.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn ở miền đông nước Pháp, bất kể đang đình chiến. Besancon vẫn kiểm soát quân đội, và sau đó trả thù bằng cách cướp phá Franche Comte. Thỉnh thoảng có tin chúng đến gần sát biên giới, và Thụy Sĩ thành lập một hàng quân giám sát giữa chúng tôi và địch quân.
Điều này làm chúng tôi đau lòng, và khi đã hồi phục sức khoẻ, nỗi khát khao được chiến đấu lại cháy bỏng trong mỗi người. Thật hổ thẹn và căm phẫn khi chỉ cách chúng tôi chừng chưa đầy mười dặm Anh, quân Đức đang nghênh ngang láo xược trong khi chúng tôi, bị câu thúc, đành bất lực.
Một ngày nọ, viên đại uý gọi năm sáu tên trong bọn tôi, nói về vấn đề này, rất lâu và vô cùng căm phẫn, ông ta là một người tốt, đã từng là thiếu uý ở Zouaves, cao, gầy và rắn rỏi như thép, và trong suốt chiến dịch, ông ấy đã nhiều lần áp đảo bọn Phổ.
Ông ta chịu hết nổi tình trạng ì ạch, bực tức với ý nghĩ bị cầm chân và ở không.
“Đồ chết tiệt!” ông ta nói với chúng tôi, “tụi bây không thấy đau khi biết tụi lính kỵ binh chỉ ở cách chúng ta có hai giờ đi đường? Tụi bây không điên tiết khi tụi ăn mày dơ bẩn đó đi lại như chủ nhân ông trên đất nước chúng ta, trong khi sáu người dũng cảm bọn ta có thể giết cả bọn rác rưởi đó bất cứ lúc nào. Tao không thể chịu được nữa, tao phải đi đến đó”.
“Nhưng sắp xếp việc này như thế nào, thưa đại úy?”
“Như thế nào hả? Việc này không khó! Chỉ khó vì chúng ta quen với việc ăn không ngồi rồi suốt sáu tháng qua, và một bước ra khỏi rừng cũng bị tụi lính Thụy Sĩ canh giữ. Ngày mà tụi bây muốn trở về nước Pháp, tao sẽ sắp xếp cho”.
“Có thể đó; nhưng ở Pháp chúng ta có thể làm gì khi không có vũ khí?”
“Không vũ khí hả? Ơn chúa, chúng ta sẽ có được khi qua đến bên kia!”
“Ông đã quên hiệp ước rồi à”, một người lính khác nói; “chúng ta sẽ làm tổn thương quân Thụy Sĩ, nếu Manteuffel biết được họ đã cho tù nhân trở lại nước Pháp”.
‘‘Thôi đi”, viên đại uý nói, “toàn là lý do vớ vẩn. Ý tao muốn đi và giết tụi Phổ; đó là tất cả những gì tao quan tâm. Nếu tụi bây không muốn, tốt, nói ngay.Tao cũng chẳng sao khi đi một mình; tao không cần ai đi cùng hết”.
Đương nhiên chúng tôi phản đối, vả vì không thể làm viên đại uý thay đổi, chúng tôi buộc phải hứa là sẽ cùng đi với ông. Chúng tôi rất yêu mến ông ấy, không thể bỏ rơi ông trong khi hoạn nạn, vì ông không bao giờ để chúng tôi rơi vào cảnh khốn cùng, và thế là cuộc hành trình được xác định.
II.
Viên đại úy đã có kế hoạch riêng, và đã nghiền ngẫm từ lúc nào. Một người dân trong vùng quen biết ông ta từ trước sẽ cho mượn một chiếc xe ngựa và sáu bộ quần áo nông dân. Chúng tôi có thể trốn dưới đống rơm và sau xe, nơi chất phô mai Gruyere, thứ sẽ bán ở Pháp. Viên đại úy nói với lính gác là mình sẽ mang theo hai người bạn để bảo vệ hàng trong trường hợp có ai đó muốn cướp, điều này xem ra cũng hợp lý. Một sĩ quan Thụy Sĩ nhìn chiếc xe ngựa một cách ranh mãnh, nhưng cũng chỉ để tạo ấn tượng đối với binh sĩ của anh ta. Tóm lại, không một viên cảnh binh nào hay người nào có thể biết được.
“Lên đường”, viên đại uý hô to khi vung chiếc roi ngựa, ba người trong bọn chúng tôi yên lặng hút thuốc. Tôi gần như ngạt thở trong cái hộp chỉ có lỗ thông hơi trước mặt và suýt chết cóng vì trời lạnh kinh khủng.
“Lên đường”, viên đại uý lại nói, và chiếc xe ngựa chất đầy phô mai Gruyere đi vào nước Pháp.
Phòng tuyến của bọn Phổ canh gác rất cẩu thả, vì bọn chúng tin tưởng vào sự khám xét của quân Thụy Sĩ. Viên hạ sĩ nói thứ tiếng của miền Bắc nước Đức, trong khi đại uý của chúng tôi lõm bõm tiếng Đức của vùng Four Cantons, và thế là họ chẳng hiểu nhau. Tuy nhiên, viên hạ sĩ, giả vờ như mình thông minh, và để khiến chúng tôi tin rằng hắn ta hiểu hết, đã cho chúng tôi tiếp tục chuyến đi, và sau khi đi được bảy giờ, liên tục dừng tại các trạm kiểm soát, chúng tôi đi đến một ngôi làng nhỏ, hoang tàn vì chiến tranh, vào lúc chập tối.
Chúng tôi sẽ làm gì đây? Vũ khí duy nhất của chúng tôi là chiếc roi ngựa của viên đại úy, quân phục là những bộ đồ của nông dân, và quân lương là phô mai. Tài sản duy nhất chúng tôi có là đạn dược, những thùng đạn được giấu trong những tảng phô mai lớn. Đạn có khoảng một ngàn viên, mỗi người được hai trăm, nhưng chúng tôi cần súng, và phải là súng saxơpo. May thay, viên đại úy là người dũng cảm và đầy sáng tạo, và đây là kế hoạch ông ta vạch ra: Trong khi bọn ba người chúng tôi vẫn trốn trong một căn hầm trong ngôi làng bị bỏ hoang, ông ta và một người trong bọn tiếp tục đi đến Besancon với chiếc xe trống.
... Thị trấn đã bị phong toả, nhưng người ta vẫn có thể vào bằng cách đi qua cao nguyên rồi men theo những con đường mòn và khe núi trượt xuống vì nó nằm giữa các ngọn đồi. Họ để chiếc xe ngựa lại Omans, giữa những người Đức, và trốn ra khỏi xe vào lúc đêm tối. Qua hôm sau, họ đến Besancon, nơi có rất nhiều súng saxơpo. Có khoảng bốn mươi ngàn khẩu trong xưởng chế tạo vũ khí, và tướng Roland, một lính thủy đánh bộ dũng cảm, bật cười vì kế hoạch liều lĩnh của viên đại uý nhưng vẫn giao cho ông ta sáu khẩu và chúc “may mắn”. Tại nơi ấy, viên đại uý cũng tìm gặp vợ của mình, người
đã sát cánh với chúng tôi trong suốt cuộc chiến trước chiến dịch miền Đông, chỉ vì bệnh nên đã không tham gia trận Bourbaki. Bà ta đã bình phục. Tuy thời tiết ngày càng rét mượt và vô vàn thiếu thốn trước mắt, bà vẫn khăng khăng cùng đi với chồng. Viên đại úy đành nhượng bộ, và cả ba, viên đại úy, vợ ông ta, và một người trong bọn bắt đầu cuộc hành trình.
So với lúc trở về, lúc đi chẳng là gì cả. Họ buộc phải đi vào ban đêm để tránh gặp bất kỳ ai vì mang theo sáu khẩu súng họ sẽ bị nghi ngờ. Nhưng chỉ sau một tuần, viên đại úy và hai cộng sự đã trở về. Chiến dịch bắt đầu.
III.
Ngay đêm đầu tiên trở về viên đại úy đã hành động, và lấy cớ đi do thám quanh vùng, ông ta xuống đường lớn.
Phải nói rõ là ngôi làng nhỏ chúng tôi chọn đóng quân gồm toàn những căn nhà xấu xí nghèo nàn và hoang tàn đã lâu. Nó nằm trên một con dốc đứng, cuối làng là một khoảnh đất cây cối rậm rạp. Dân làng sinh sống bằng nghề kiếm củi. Họ thả củi rơi theo sườn dốc, xuống đồng bằng, làm thành bó và mỗi năm ba đợt bán cho những lái buôn. Chợ củi nhóm họp tại hai căn nhà nhỏ bên đường lớn, nơi sinh hoạt công cộng. Viên đại uý đi xuống đó qua một trong những khe núi.
Ông ấy đi khoảng nửa giờ. Khi chúng tôi đang mong ngóng tại đầu khe, một tiếng súng vang lên. Viên đại úy đã ra lệnh chúng tôi không được xao động, và chỉ đi về phía ông ấy khi nghe tiếng kèn trumpet. Cái kèn này làm bằng sừng dê và có thể nghe được trong vòng ba dặm; nhưng vẫn chưa có động tĩnh gì; và mặc dù đứng ngồi không yên, chúng tôi buộc phải im lặng chờ, bên cạnh súng ống sẵn sàng.
Việc đi xuống những khe sâu này chẳng thành vấn đề; chúng tôi chỉ cần nghiêng người trượt xuống; nhưng đi trở lên thì khó khăn hơn nhiều; phải rướn người lên bám vào những nhánh cây, đôi khi phải bám víu bằng cả hai tay hai chân với tất cả sức lực. Một giờ sinh tử đã qua, ông ấy vẫn chưa về; khu rừng vẫn yên ắng. Vợ viên đại úy bắt đầu mất bình tĩnh. Ông ấy đang làm gì? Tại sao ông ta không gọi chúng tôi? Có phải phát súng chúng tôi đã nghe là từ phía quân địch, và phải chăng thủ lãnh của chúng tôi, chồng của bà ta, đã bị giết hoặc bị thương? Chúng tôi không còn suy nghĩ gì được nữa, riêng tôi tưởng tượng ra rằng hoặc ông ta đã chết, hoặc việc đã thành; lo lắng và tò mò muốn biết ông ta đã làm gì.
Thình lình chúng tôi nghe tiếng kèn, và quá ngạc nhiên thay vì nó vọng từ dưới lên, như mong đợi, nó lại vang lên từ ngôi làng ở phía sau. Thế là thế nào? Thật bí ẩn, nhưng chúng tôi đều nghĩ rằng ông ta đã bị giết, và tụi Phổ thổi kèn để dụ chúng tôi vào ổ phục kích, vì vậy chúng tôi quay lại, mắt quan sát kỹ trong khi tay đặt trên cò súng, len lỏi giữa những nhánh cây. Vợ ông ấy, mặc cho chúng tôi van nài, vượt lên như một con hổ cái. Nghĩ rằng phải báo thù cho chồng, gắn thêm một lưỡi lê trên súng, bà khuất bóng vừa lúc chúng tôi lại nghe tiếng kèn. Một lúc sau chúng tôi nghe bà ấy kêu to:
“Đến đây! Đến đây! Còn sống! Là ông ấy đấy!”
Chúng tôi vội vã chạy đến, và trông thấy viên đại úy đang phì phèo tẩu thuốc vào làng, nhưng lạ chưa kìa, ông ta đang ngồi trên lưng ngựa.
“Tụi bây coi, có việc nè. Tao lại lên lưng ngựa. Tao hạ đo ván một tên kỵ binh ở đằng kia, và lấy ngựa nó; tao nghi tụi chúng nó đang canh giữ khu rừng, nhưng tụi nó lại nhậu say bí tỉ. Một đứa trong bọn, canh cửa, chưa kịp trở tay thì tao đã cho nó một viên vào bụng, và rồi, trước khi đứa khác kịp ra, tao phóng lên ngựa vọt như tên bắn. Gần một chục đứa theo sau; nhưng tao đã đi đường tắt xuyên qua rừng. Tao bị trầy sướt chút đỉnh, chẳng sao cả, và bây giờ, các đồng đội, chú ý và thận trọng! Bọn kẻ cướp sẽ không nghỉ ngơi bao giờ chúng chưa bắt được và cho ta ăn đạn. Tiến lên, chúng ta vào vị trí”.
Chúng tôi tản ra. Một người trong bọn chốt ngay tại giao lộ; tôi tại cổng con đường chính chạy từ khu đất bằng phẳng vào làng, viên đại uý và vợ, ngay trong làng, gần nhà thờ với ngọn tháp được dùng để quan sát và cũng là nơi phòng thủ cuối cùng.
Ở điểm gác chưa bao lâu chúng tôi đã nghe tiếng súng, nối tiếp là tiếng súng khác, và rồi tiếng thứ hai, thứ ba. Tiếng đầu tiên rõ ràng từ khẩu sacxơpo - âm thanh sắc cạnh như tiếng roi quất - còn ba tiếng kia là từ súng cạc bin của quân kỵ binh.
Viên đại úy giận dữ. Ông ấy đã ra lệnh cho chốt đầu để quân địch đi qua, theo sau từ xa nếu chúng đi hướng về làng, và chỉ kết hợp với tôi khi chúng đã vào. Rồi chúng sẽ lọt vào giữa hai làn đạn, không một tên chạy thoát, vì, như đã tuyên bố, sáu người bọn tôi sẽ hạ được mười tên Phổ, khi cần.
“Cái thằng chết liệt Piedelot đã khuấy động bọn chúng”, viên đại úy nói, “và tụi nó sẽ không ngu dại vô tròng. Tao chắc là nó đã bị bắn rồi vì chúng ta có được tin gì của nó đâu. Đáng đời; tại sao nó không luân lệnh tao?”. Một lúc sau ông ta càu nhàu: “Tao tiếc cho nó quá; nó thật can đảm và bắn rất cừ!”.
Viên đại úy đoán đúng. Chúng tôi đợi đến chiều, không thấy tên kỵ binh nào; bọn chúng đã rút lui sau đợt tấn công đầu; nhưng xui xẻo là Piedelot cũng chẳng thấy đâu cả. Anh ấy đã bị giết hay bị bắt làm tù binh? Đêm xuống, viên đại uý đề nghị chúng tôi đi tìm, và ba người trong bọn chúng tôi ra đi. Tại ngã tư chúng tôi tìm thấy một khẩu súng gãy và ít máu, mặt đất chung quanh bị giẫm nát; nhưng chúng tôi không tìm thấy người bị thương hoặc chết, dù đã tìm kỹ từng bụi cây, và quay về lúc nửa đêm, chẳng có thông tin gì về người đồng đội kém may mắn.
“Thật lạ”, viên đại úy càu nhàu. “Bọn chúng chắc hẳn phải giết nó rồi quăng vào bụi đâu đó; bọn chúng không thể bắt nó làm tù binh vì nó sẽ kêu cứu. Tao không hiểu gì cả’’. Ngay khi ông ấy nói, ánh lửa sáng bùng lên từ cái quán ăn trên con đường chính, rọi sáng cả một góc trời.
“Quân vô lại! Hèn nhát!”, ông ấy hét lên. “Tao cá là tụi nó đốt hai căn nhà ở khu chợ để trả thù, và rồi bỏ đi chẳng kèn chẳng trống. Chúng thoả mãn vì đã giết người và đốt nhà. Được. Không dễ vậy đâu”.
“Nếu cứu được cả Piedelot nữa thì may quá”, một người trong chúng tôi nói.
Bọn năm người chúng tôi khởi hành, lòng đầy căm phẫn lẫn hy vọng. Sau hai mươi phút chúng tôi xuống đến dưới khe, không còn nhìn thấy khi cách cái quán trên dưới một trăm thước. Đám cháy phía sau nhà, và những gì chúng tôi thấy chỉ là ánh lửa hắt vượt lên trên mái nhà. Vậy nhưng chúng tôi đi khá chậm, vì sợ lọt vào ổ phục kích, rồi thình lình chúng tôi nghe cái giọng quen thuộc của Piedelot. Nhưng nó lạ lắm, vừa buồn lại vừa run rẩy, nghèn nghẹt như anh ấy đang cố gào lớn hết sức trong khi miệng bị nhét giẻ. Giọng khàn đặc và hỗn hển, không ngừng kêu “Cứu! Cứu!”.
Không còn suy nghĩ gì nữa, chúng tôi nhảy vọt hai bước ra sau quán, chứng kiến một cảnh tượng khủng khiếp.
IV.
Piedelot đang bị thiêu sống. Anh ấy quằn quại giữa đống lửa, bị cột chặt vào cọc, ngọn lửa liếm quanh. Khi nhìn thấy chúng tôi, anh ấy không còn hơi sức để kêu nữa: đầu ngoẹo đi, trông như đã chết. Chỉ trong chốc lát chúng tôi dập tắt đống lửa, gạt mớ than hồng và cắt dây trói cho anh.
Tội quá! Trông anh ấy thật thảm thương. Chiều hôm trước anh ấy đã bị đánh gãy tay trái, và có vẻ như bị đánh rất nhiều vì khắp người đầy thương tích máu me. Lửa đã bắt đầu bén người anh ấy làm bỏng hai mảng lớn, một ở chỗ kín và một bên đùi phải, tóc và râu đều cháy xém. Tội Piedelot quá!
Căm hờn làm nghẹt thở, chúng tôi muốn liều lĩnh đương đầu với hàng trăm tên lính Phổ để trả thù cho anh ấy. Nhưng bọn hèn nhát đã cao chạy xa bay, để lại tội ác. Giờ đây biết kiếm chúng ở đâu. Vợ viên đại úy săn sóc cho Piedelot, cô băng bó vết thương thật tốt và ông ấy thì nôn nóng lay anh, vài phút sau anh ấy tỉnh dậy.
“Chào đại úy; chào các anh”, anh ấy nói. “A! tụi khốn! Hai mươi đứa bất ngờ xuất hiện”.
“Hai mươi, mày nói sao?”
“Vâng, cả một đoàn, và đó là lý do vì sao tôi kháng lệnh và bắn bọn chúng. Vì chúng có thể giết cả bọn chúng ta. Thế là tôi ngăn chúng lại. Chúng sợ và không dám vượt qua giao lộ vào làng. Chỉ là một bọn chết nhát. Bốn đứa bắn tôi chỉ với khoảng cách gần hai mươi mét, y như bắn vào bia, rồi dùng gươm chém tôi, tay gãy. Tôi chỉ sử dụng lưỡi lê bằng một tay”.
“Nhưng tại sao mày không kêu cứu?”
“Tôi không nên làm vậy, vì tất cả các anh sẽ đến; và rồi chẳng cứu được tôi cũng như bảo vệ chính mình, năm sao chọi lại hai mươi”.
“Nhưng mày biết là tụi tao không thể để mày bị bắt, người anh em khốn khổ ơi”.
‘Tôi thà chết một mình, không muốn các anh đến đây, vì cũng như lọt vào một trận phục kích”.
“Được rồi, không nói đến việc này nữa. Mày thấy đỡ hơn không?”
“Không, tôi không thở được, tôi chẳng còn sống bao lâu nữa. Đồ súc vật! Chúng trói tôi vô cây và đánh đến sống dở chết dở. Tôi thà cắn lưỡi chứ chẳng kêu la trước bọn chúng. Nay tôi có thể nói tôi đau đớn lắm và rơi nước mắt cho nhẹ lòng. Cám ơn các anh, những người bạn tốt của tôi”.
“Piedelot khốn khổ! Chúng tôi sẽ trả thù cho bạn, tin chắc như vậy đi!”
“Vâng, vâng, tôi mong như vậy. Đặc biệt, có một con mụ là vợ của tên lính kỵ binh mà đại úy giết hôm trước. Nó mặc quân phục, và hôm qua nó là người hành hạ tôi nhiều nhất, đề nghị thiêu sống tôi, và chính nó đã nổi lửa. A! Đồ phù thuỷ, đồ đốn mạt! Tôi đau đớn lắm!” và anh ta ngã vật ra hổn hển thở, co quắp trong đớn đau. Trong khi vợ viên đại úy lau mồ hôi trán cho anh ta, chúng tôi đau buồn, khóc tức tưởi như những đứa trẻ. Tôi chẳng kể những giây phút cuối đời của anh ấy. Anh ấy chết nửa giờ sau đó, và đã chỉ chúng tôi hướng đi của bọn chúng. Chôn cất xong, chúng tôi lên đường đuổi theo, lòng mang nặng oán thù.
“Nếu cần, chúng ta cũng liều mạng với hết thảy quân Phổ”, viên đại úy nói; “để trả thù cho Piedelot. Phải bắt cho bằng được bọn vô lại đó. Chúng ta phải thề, đây là lệnh, nếu tôi chết trước khi kiếm ra bọn chúng: Bắn ngay tất cả tụi tù binh, và với con mụ đó, phải hành hạ nó cho đến chết”.
“Không bắn vì nó là phụ nữ”, vợ viên đại uý nói. “Nếu anh còn sống, em chắc rằng anh sẽ không bắn phụ nữ. Hành hạ nó là đủ rồi; nhưng nếu anh bị giết trong cuộc truy đuổi này, em xin một điều là được đấu với mụ ta; chính em sẽ giết mụ, hoặc nếu em bị giết người khác có thể làm gì thì tuỳ”.
“Chúng ta sẽ lăng trì nó! Thiêu sống nó! Xé xác nó ra! Trả thù cho Piedelot!”.
“Nợ máu phải trả bằng máu”.
V.
Sáng hôm sau chúng tôi bất ngờ xông vào một tiền đồn của bọn ky binh cách đó khoảng dưới hai mươi cây số. Bị tấn công thình lình, bọn chúng không kịp trèo lên ngựa, cũng không kháng cự được, chỉ một chốc chúng tôi đã có năm tù binh, ngang bằng với lực lượng. Viên đại uý tra hỏi, và từ đó chúng tôi đoán đó là bọn hôm qua. Thế là chúng tôi lục soát. Một người được cử xác định giới tính tụi tù binh. Khỏi nói, chúng tôi quá vui khi tìm ra một trong bọn chúng là mụ đàn bà đã đày đoạ bạn mình.
Bốn tên kia bị bắn ngay; chúng tôi chú mục vào con mụ này. Xử nó thế nào đây? Mọi người đều muốn bắn nó. Căm phẫn và lòng mong muốn báo thù cho Piedelot khiến chúng tôi quên mất nó là phụ nữ. Nhưng một phụ nữ khác, vợ viên đại uý, đã nhắc nhở chúng tôi. Tạm thời quyết định cầm tù nó.
Người vợ khốn khổ ấy đã bị tổn thương sâu sắc vì hành động nhân ái này.
Hôm sau chúng tôi nghe được tin đình chiến lan rộng đến cả miền Đông nước Pháp, và thế là phải chấm dứt trận chiến nho nhỏ của riêng mình. Hai người trong bọn có quê quán ở vùng bên, đã về nhà. Chúng tôi còn lại bốn: viên đại úy, vợ, và hai gã đàn ông. Chúng tôi thuộc vùng Besancon, nơi vẫn bị bao vây cho dù đã đình chiến.
“Chúng ta nghỉ tại đây”, viên đại uý nói. “Tao không tin là chiến tranh lại kết thúc kiểu này. Quỷ tha ma bắt! Chắc chắn vẫn còn tụi Phổ ở lại Pháp, và đây là lúc để xem xem tụi nó ghê gớm tới đâu. Mùa xuân sắp về. Lệnh đình chiến chỉ là cái bẫy cho tụi nó, và một buổi sáng đẹp trời nào đó chúng ta lại tấn công chúng. Chúng ta phải sẵn sàng, chúng ta có con tin - cứ ở lại đây”.
Chúng tôi đóng quân. Trời lạnh kinh khủng, và chúng tôi không ra ngoài nhiều, luôn phải cắt ra một người canh gác con mụ tù đó.
Mụ ta mặt mày sưng xỉa, không nói một lời, ngay cả về người chồng đã bị giết. Mụ không ngừng nhìn viên đại úy với ánh mắt dữ tợn, và chúng tôi cảm nhận mụ đang khao khát báo thù. Với chúng tôi, sự yếu đuối trong việc trả thù cho Piedelot dường như đã trở thành nỗi đau nhức nhối.
Trời ạ! Chúng tôi, những người biết báo thù cho đồng đội, đáng lẽ phải nghĩ rằng mụ ta cũng biết báo thù cho chồng, và cảnh giác trước việc này. Đúng là mỗi đêm đều có cắt phiên gác. Thoạt đầu chúng tôi trói mụ bằng một sợi thừng dài vào băng ghế to bằng gỗ sồi dính vào tường. Nhưng dần dần, thấy mụ không tìm cách trốn thoát, và dù biết mụ đang căm hờn, chúng tôi không còn cẩn trọng như trước, cho phép mụ ngủ đâu đó, không còn trói nữa. Có gì phải sợ? Mụ ta ở cuối phòng, luôn có người canh gác tại cửa, giữa là vợ viên đại uý và hai người đàn ông thường nằm.
Mụ ta đơn độc và không vũ khí, sao có thể chống lại bốn người, thế chẳng có gì nguy hiểm cả.
Một đêm khi chúng tôi đang ngủ, nhằm phiên gác của viên đại úy, vợ người lính kỵ binh nằm thu mình trong góc, lặng lẽ hơn mọi hôm, và lần đầu mụ ta cười từ khi bị bắt giữ. Thình lình, vào nửa đêm, chúng tôi bị dựng dậy vì một tiếng thét thất thanh. Mò mẫm, chúng tôi chạm phải một cặp đang lăn tròn chiến đấu trên mặt đất, lập tức nhào vô tách bọn họ ra ngay. Mụ ta vừa cười vừa hét, và ông ấy nấc lên hấp hối. Tất cả xảy ra trong bóng tối.
Hai người túm mụ lại, và khi đèn thắp sáng, một cảnh hãi hùng bày ra trước mắt. Viên đại úy nằm trên sàn trong vũng máu, một vết thương toang hoác ở cổ họng. Vài phút sau, ông ta qua đời.
Vợ viên đại úy không rơi một giọt nước mắt. Mắt đã khô, cổ họng cứng lại, bà ta không rời khỏi mụ vợ tên lính kỵ binh, ánh mắt lạnh lùng dữ tợn.
“Con mụ này là của tôi”, thình lình bà ta lên tiếng. “Tuần trước các anh đã thề để tôi xử mụ ta, nếu mụ giết chết chồng tôi; nay các anh phải giữ lời. Cột chặt mụ ta ở góc lò sưởi rồi đi đi, đi cho xa. Tôi tự trả mối thù này. Để xác đại úy lại đây, chỉ có ba người, anh ấy, tôi, và mụ ta ở đây”.
Chúng tôi tuân lệnh, bỏ đi. Bà ta hứa sẽ viết cho chúng tôi ở Geneva, vì chúng tôi sẽ quay lại đó.
VI.
Hai hôm sau tôi nhận thư, được viết một ngày sau khi chúng tôi đi khỏi, tại một quán trọ trên đường lớn:
“BẠN THÂN: Như đã hứa, tôi viết thư này cho anh. Lúc này đây, tôi đang ở quán trọ, nơi tôi vừa giao nạp người tù của mình cho một viên sĩ quan Phổ”.
“Tôi phải nói anh biết, người phụ nữ khốn khổ này còn có hai con nhỏ đang sống ở Đức. Cô ta đã theo chồng, người mà cô ấy hết mực thương yêu, với mong muốn anh ta tránh được những rủi ro trong chiến tranh, và để các con lại cho ông bà chăm sóc. Hôm qua tôi đã biết được và điều này khiến lòng mong muốn trả thù của tôi chùn bước trước tình người. Chính giây phút tôi vui sướng sỉ nhục cô tạ, đe doạ cô ta bằng những cực hình ghê gớm nhất, để tưởng nhớ Piedelot bị thiêu sống, cô ta nhìn tôi lạnh lùng nói:
“Người phụ nữ Pháp, bà định xử tôi như thế nào? Bà nghĩ rằng bà đã làm đúng khi trả thù cho cái chết của chồng bà, phải thế không?”
“Đúng!” tôi trả lời.
“Được lắm, thế nên, lúc giết ông ta, tôi đã làm những gì bà sắp làm. Tôi trả thù cho chồng tôi, vì chồng bà đã giết anh ấy”.
“Thế ư”, tôi tiếp “mày đã chấp nhận sự trả thù, chuẩn bị đón lấy”.
“Tôi không sợ đâu”.
“Và quả thật trông cô ấy vẫn can đảm. Nét mặt bình tĩnh, ánh mắt nhìn tôi không hề run sợ, trong khi tôi đang chất củi cùng với lá khô và luýnh quýnh cho vào ít thuốc súng để làm cho tang lễ cô ấy thêm rùng rợn.
“Tôi ngần ngừ một lúc trước khi hành quyết. Nhưng đại uý nằm đó, tái nhợt và đẫm máu, hình như anh ấy đang nhìn tôi với đôi mắt to đờ đẫn, và tôi lại tiếp tục công việc sau khi hôn đôi môi nhợt nhạt của chồng. Thình lình, trong khi ngước đầu lên, tôi thấy cô ta đang khóc, và tôi thật sự ngạc nhiên.
‘Thế là mày sợ?” Tôi hỏi.
“Không, nhưng khi tôi nhìn thấy bà hôn chồng, tôi nghĩ đến chồng tôi, đến tất cả những người tôi thương mến”.
“Cô ấy tiếp tục khóc, nhưng thình lình nín bặt, bằng giọng nói run rẩy yếu đuối cô ta hỏi:
“Bà có con chưa?”
“Một cơn ớn lạnh chạy suốt người tôi, vì tôi đoán người đàn bà khốn khổ này đã có con. Cô ấy bảo tôi nhìn vào một cuốn sổ nhỏ cất trong áo ngực, và tôi đã thấy hình hai đứa bé, một trai và một gái, với khuôn mặt bầu bĩnh, dịu dàng và trong sáng của những đứa trẻ người Đức. Còn có cả hai lọn tóc nhỏ màu sang và một bức thư con trẻ với những chữ tiếng Đức to tướng:
“Mẹ yêu quí của con”.
“Tôi không cầm được nước mắt, bạn thân ơi, thế là tôi cởi trói cho cô ấy, và không dám nhìn mặt người chồng xấu số của mình, người không được trả thù cho cái chết tức tưởi, tôi và cô ấy đi xa khỏi nơi đó. Cô ta tự do, tôi đã thả cô ấy, và cô ấy hôn tôi, nước mắt không ngừng tuôn. Giờ tôi sẽ lên lầu với anh ấy đây, hãy đến với chúng tôi, bạn thân nhé, để trông nom hai cái xác của chúng tôi”.
Tôi lập tức lên đường, và khi tôi đến đã có một nhóm tuần tra Phổ tại đó, Khi hỏi lý do, tôi được biết có một viên đại uý và vợ đã chết trong đó. Tôi nói tên hai vợ chồng; họ nói rằng đã biết, và tôi xin được lo chôn cất cho họ.
“Có ai đó đã lo việc này”, họ trả lời. “Vào đi nếu ông muốn, vì ông biết họ, ông có thể cùng với bạn họ lo việc chôn cất”.
Tôi đi vào. Viên đại úy và vợ đang nằm bên nhau trên chiếc giường, trên người phủ tấm drap. Tôi mở ra và thấy người vợ đã cắt một vết thương lớn trên cổ giống như vết thương của người chồng đã chết.
Bên cạnh giường, đang nức nở là người đàn bà mà người ta đã nói với tôi là bạn tốt của họ. Đó là vợ người lính kỵ binh. ★