Chương 9
Thượng tướng SS Các-lơ Vôn-phơ trao bức thư cho viên phi công riêng của Him-le.
- Nếu máy bay của anh bị đối phương bắn rơi, - hắn nói bằng giọng nói mềm mỏng của mình, - trong chiến tranh, mọi việc đều có thể xảy ra, - thì anh phải đốt bức thư này, trước khi tháo dù trên mặt đất.
- Tôi không thể đốt thư trước khi tháo dù, - viên phi công có tính cầu toàn trả lời, - bởi vì tôi sẽ bị kéo lê trên mặt đất. Nhưng việc làm trước tiên của tôi sau khi tháo dù sẽ là đốt bức thư này.
- Được, - Vôn-phơ mỉm cười, - ta hãy thỏa thuận với nhau về phương án đó. Tôi cần nói thêm rằng anh có nhiệm vụ đốt nó đi ngay cả khi máy bay của anh bị bắn rơi trên đất Đức.
Các-lơ Vôn-phơ có đủ mọi cơ sở để lo lắng, nếu bức thư này rơi vào tay bất cứ người nào khác, ngoài Him-le, thì số phận hắn coi như đến đó là chấm dứt.
Bây giờ sau, bức thư được trao đến tay Him-le,
“Thưa ngài Thống chế!
Ngay khi vừa quay về Ý, tôi đã lập tức phác thảo một kế hoạch gặp gỡ Đa-lét: không phải về phương diện tổ chức, mà về mặt chiến lược thì đúng hơn. Những tư liệu mà tôi nắm được ở đây cho phép tôi rút ra kết luận chủ yếu như sau: các nước Đồng minh cũng lo ngại không kém gì chúng ta về triển vọng thực tế của việc thành lập một chính phủ cộng sản ở Bắc Ý. Ngay cả khi chính phủ này chỉ được thành lập một cách tượng trưng, Mát-xcơ-va cũng sẽ có được một con đường chạy thẳng tới eo biển La Măng-sơ qua bọn cộng sản Ti-tô, với sự giúp đỡ của các lãnh tụ cộng sản Ý và của Mô-ri-xơ Tô-rê. Như vậy là xuất hiện một nguy cơ rất gần về việc thành lập một “vành đai bôn-sê-vích” chạy từ Ben-gơ-rát; qua Giên tới Can và Pa-ri.
Người giúp việc tôi trong chiến dịch này là Ê-u-ghen Đôn-man. Mẹ anh ta là một người Ý có những mối quen biết hết sức sâu rộng trong tầng lớp quý tộc thượng lưu, tầng lớp này thân Đức, nhưng chống chế độ quốc xã. Tuy nhiên, đối với tôi, hai khái niệm “nước Đức” và “chế độ quốc xã” không tách rời nhau, và bởi vì sùng bái nước Đức là thái độ chủ yếu của bà Đôn-man, cho nên tôi thấy nên dùng Ê-u-ghen vào việc hoạch định các chi tiết của chiến dịch, bởi lẽ chúng ta có thể cần đến các mối quen biết của mẹ anh ta trong kế hoạch tác động tương ứng tới phe Đồng minh.
Tôi quyết định và Đôn-man đã bắt đầu tiến hành, thông báo cho Đa-lét biết, qua đường dây liên lạc ở Ý, rằng ý nghĩa của cuộc đàm phán có thể xảy ra là ở chỗ: để cho phương Tây có thể kiểm tra toàn bộ miền Bắc nước Ý trước khi bọn cộng sản làm chủ tình thế. Thêm vào đó, chúng tôi cho rằng cần làm sao để sáng kiến không phải là của chúng ta: tôi cảm thấy sẽ hợp lý hơn, nếu phe Đồng minh có thể “dò biết” các ý định của tôi qua các nguồn điệp viên của họ. Bởi vậy, tôi đã ra lệnh cho Đôn-man tiến hành chiến dịch sau đây: theo hồ sơ của ghét-xta-pô chuẩn úy bộ đội xe tăng SS Ghi-đô Xim-le bị ghi vào sổ đen vì đã nhiều lần trò chuyện với những người dân Ý rằng chiến tranh đã thất bại và tình thế đã tuyệt vọng. Tại một bữa tiệc thân mật, nơi Đôn-man “tình cờ” tới dự, mãi đến gần sáng, khi mọi người đã nốc rượu say mềm, Đôn-man mới bảo Xim-le rằng anh ta đã kiệt sức vì cuộc chiến tranh vô nghĩa, đáng nguyền rủa này. Tin tức các điệp viên báo về cho phép tôi xác định rằng, ngay ngày hôm sau, trong lúc trao đổi với nam tước Lu-ít-gi Pa-rin-li, Xim-le đã nói rằng, một khi Đôn-man nói tới tính chất đáng nguyền rủa của chiến tranh, thì như thế nghĩa là Các-lơ Vôn-phơ cũng nghĩ như vậy, mà trong tay Vôn-phơ là số phận của toàn bộ miền Bắc nước Ý và toàn bộ quân đội Đức đóng tại đây. Lu-ít-gi Pa-rin-li trước đây là đại điện của công ty Mỹ “Ken-vi-lây-sơn Coóc-pô-rây-sơn”, và những sự tiếp xúc giữa ông ta với Mỹ ở đây ai cũng biết, mặc dù bao giờ ông ta cũng ủng hộ chế độ của Mút-xô-li-ni. Thêm nữa, bố vợ ông ta là một chủ nhà băng lớn ở Li-băng có quan hệ gắn bó cả với tư bản Anh lẫn tư bản Pháp. Buổi trao đổi giữa Xim-le với Pa-rin-li là lý do đủ để cho Đôn-man, sau khi mời Ghi-đô Xim-le tới một căn phòng bí mật, chìa cho anh ta xem tất cả những tài liệu tố giác anh ta. “Những cái này đủ để ngay bây giờ đưa anh lên giá treo cổ, - Đôn-man nói với Xim-le - điều duy nhất có thể cứu anh là anh phải thành thật chiến đấu cho nước Đức. Mà trong cuộc chiến đấu đó, các đòn ngoại giao thầm lặng cũng rất quan trọng.” Tóm lại, Xim-le đã đồng ý làm việc cho chúng ta.
Hôm sau, khi gặp nam tước Pa-rin-li, Xim-le nói với ông ta rằng, chỉ có thủ lĩnh SS ở nước Ý là Các-lơ Vôn-phơ mới có thể cứu miền Bắc nước Ý khỏi sự đe dọa của bọn cộng sản, - sự đe đọa này do bọn du kích hoạt động ở vùng rừng núi và ở khắp các thành thị trong nước gây ra, nhưng dĩ nhiên, Các-lơ Vôn-phơ chỉ có thể làm được điều đó một cách nhanh chóng và chắc chắn, nếu như ông ta cùng hành động với phe Đồng minh. Nam tước Pa-rin-li, người có những quyền lợi tài chính khổng lồ ở Tu-rin, Giên và Mi-lăng, đã chăm chú nghe Xim-le nói và đã đồng ý giúp chúng ta bố trí các cuộc tiếp xúc với các đồng minh phương Tây. Dĩ nhiên, Xim-le đã viết báo cáo về buổi trao đổi đó gửi cho tôi, và như vậy là toàn bộ chiến dịch từ giờ phút ấy đã được bảo hiểm - nó sẽ giống như một trò chơi được tiến hành với phe Đồng minh dưới sự kiểm soát của cơ quan SS, vì quyền lợi của Đức Quốc trưởng và của nước Đức.
Ngày 21 tháng hai, nam tước Pa-rin-li đáp máy bay sang Duy- rích. Ở đó, ông ta bắt đầu liên lạc với một người quen của ông ta tên là Mắc Uýt-man, Uýt-man đã giúp ông ta tiếp xúc với thiếu tá Vai-ben, một sĩ quan tình báo của Thụy Sĩ. Vai-ben đồng ý giúp việc bố trí các cuộc tiếp xúc giữa lực lượng SS với người Mỹ, lấy cớ là anh ta xuất phát từ lợi ích cá nhân của một người dân Thụy Sĩ. Vấn đề là ở chỗ Giên là một hải cảng chủ yếu do các hãng sản xuất Thụy Sĩ sử dụng. Nếu nước Ý rơi vào ách thống trị của bọn cộng sản, thì các hãng sản xuất của Thụy Sĩ cũng sẽ bị thiệt hại. Cần nói thêm rằng tôi đã điều tra và được biết thiếu tá Vai-ben từng tốt nghiệp hai trường đại học Ba-đen và Phờ-răng-phua ở Đức.
Trong câu chuyện với nam tước Pa-rin-li, Vai-ben nói rằng cần phải thận trọng đến mức tối đa, bởi vì anh ta đã liều mạng khi nhận giúp ta bố trí các cuộc tiếp xúc. Điều đó, theo lời anh ta, vi phạm sự trung lập của Thụy Sĩ, mà hiện nay vị trí của bọn Nga mạnh đến mức việc tiết lộ bí mật sẽ buộc chính phủ của anh ta loại bỏ anh ta và dồn toàn bộ tội lỗi lên đầu một mình anh ta. Pa-rin-li thuyết phục thiếu tá Vai-ben rằng, ngoài bọn Nga và bọn cộng sản ra, thì không một ai muốn điều bí mật này bị tiết lộ cả, “Bởi vì, - Pa-rin-li nói tiếp, - trong số chúng ta, tôi hy vọng không có bất cứ tên cộng sản nào, nói gì đến một tên Nga. Bởi vậy, ông khỏi phải lo tin tức bị rơi rụng”.
Theo tin báo của Vai-ben, một ngày sau khi nói chuyện với Pa-rin-li, anh ta đã mời A-len Đa-lét và người giúp việc của Đa-lét là Hê-véc-nít tới dự tiệc. “Tôi có hai người bạn muốn đề xuất một ý kiến hay, - Vai-ben nói, - nếu ngài muốn, tôi có thể giúp các ngài làm quen với nhau”. Song A-len Đa-lét trả lời rằng ông ta muốn gặp hai người bạn của Vai-ben muộn hơn một chút, nghĩa là sau khi người giúp việc của ông ta trao đổi với họ.
Vậy là Pa-rin-li đã gặp và trao đổi với Hê-véc-nít. Như tôi đã báo tin để Ngài rõ, tay Hê-véc-nít này không phải là con trai của Ê-gôn Hê-véc-nít, mà là con của Éc-hác phôn Sun-sơ Hê-véc- nít, giáo sư kinh tế học trường đại học Tổng hợp Béc Lanh. Sau khi bảo vệ luận án tiến sĩ ở Phờ-răng-phua (nhân tiện nói thêm rằng, tôi nghĩ không biết có phải Vai-ben và Hê-véc-nít lần đầu tiên gặp nhau ở Đức hay không, bởi vì cả hai đều tốt nghiệp cùng một trường đại học), Hê-véc-nít liền sang Mỹ và bắt đầu làm việc trong các công-xéc ngân hàng quốc tế tại Niu Y-oóc, nơi chính A-len Đa-lét từng hoạt động.
Trong lúc nói chuyện, Pa-rin-li nêu câu hỏi: “Ngài có muốn gặp đại tá SS Đôn-man để thảo luận cụ thể hơn về vấn đề này và hàng loạt vấn đề khác hay không?”. Hê-véc-nít đã đồng ý với lời đề nghị đó, tuy rằng, theo ý Pa-rin-li, ông ta tỏ ra có phần nào nghi ngờ và thiếu tin cậy - một thái độ cơ hữu của những tay trí thức đi vào nghề tình báo - trước đề nghị đó.
Tôi đã ra lệnh cho Đôn-man sang Thụy Sĩ. Tại đó, bên hồ Tri-a-xô, Đôn-man đã được Uýt-man và Pa-rin-li đón tiếp. Khi họ tới Lu-ga-nô, và bước vào khách sạn nhỏ “Bi-an-ki”, như đã dặn ở nhà, Đôn-man tuyên bố: “Chúng tôi muốn thương lượng với các nước Đồng minh phương Tây để phá tan kế hoạch của Mát- xcơ-va định thành lập chính phủ cộng sản ở Bắc Ý. Nhiệm vụ ấy buộc chúng tôi vứt bỏ những sự khó chịu trước đây để nghĩ đến ngày mai, sau khi xóa sạch toàn bộ nỗi đau của ngày hôm qua đối với cả hai bên. Hòa bình phải công bằng và xứng đáng”.
Uýt-man trả lời rằng những cuộc thương lượng duy nhất có thể có là những cuộc thương lượng về sự đầu hàng vô điều kiện.
“Tôi không bao giờ chịu phản bội, - Đôn-man nói, - và lại, cũng không một ai ở Đức chịu như thế cả”.
Tuy Uýt-man khăng khăng giữ quan điểm “đầu hàng vô điều kiện”, song ông ta vẫn tiếp tục trao đổi, mặc dù bắt gặp thái độ phản đối cứng rắn của Đôn-man. Thái độ này đã được tôi và Đôn-man chuẩn bị sẵn ở nhà.
Kế đó, người giúp việc của A-leni Đa-lét là Pôn Bờ-lum đã ngắt lời Uýt-man và tham gia cuộc trao đổi. Chính Pôn Bờ-lum đã nói tên họ hai nhà lãnh đạo phong trào kháng chiến Ý là Phéc-ru-tri Pác-ri và U-xơ-mi-a-ni với Đôn-man. Hai người này đang bị chúng ta giam giữ. Họ không phải là cộng sản, và điều đó cho phép chúng ta kết luận rằng, cũng như chúng ta, người Mỹ rất lo ngại về hiểm họa cộng sản ở Ý. Phía Mỹ cần đến những anh hùng của Phong trào kháng chiến không phải là cộng sản, những người khi cần có thế cầm đầu một chính phủ trung thành với các lý tưởng của phương Tây.
“Nếu hai người ấy được trả lại tự do và được đưa sang Thụy Sĩ, - đại diện của Đa-lét nói, - thì chúng ta có thể tiếp tục gặp nhau”.
Khi Đôn-man trở về gặp tôi, tôi hiểu rằng những cuộc đàm phán đã bắt đầu, bởi vì không thể giải thích yêu cầu trả lại tự do cho hai người Ý kia theo bất cứ cách nào khác. Đôn-man đưa ra giả thuyết rằng Đa-lét đang chờ sự có mặt của tôi tại Thụy Sĩ. Tôi đã tới gặp Thống chế Két-xen-rinh. Sau năm tiếng đồng hồ trao đổi, tôi rút ra kết luận rằng thống chế đồng ý một sự đầu hàng trong danh dự, mặc dù Két-xen-rinh không trực tiếp hứa hẹn điều gì, có lẽ vì xưa nay người ta vẫn ngại nói chuyện thành thật với đại diện của cơ quan an ninh.
Hôm sau, Pa-rin-li đến thăm tôi tại một căn phòng bí mật bên hồ Gác-đa và đã thay mặt Đa-lét chuyển lời ông ta mời tôi sang Dny-rích họp bàn. Như vậy là ngày kia tôi sẽ sang Thụy Sĩ. Nếu đó là một cái bẫy, tôi sẽ đưa ra một lời tuyên bố chính thức về sự bắt cóc. Còn nếu như đó là buổi đầu đàm phán, thì tôi sẽ báo tin để Ngài rõ trong bức thư sau mà tôi sẽ gửi đi, ngay khi về đến hành dinh của tôi.
CÁC-LƠ VÔN-PHƠ của Ngài”.
༺༒༻
Bác sĩ trưởng của bệnh viện mang tên Cốc 1 bị chết vì bệnh liệt não. Anh ruột ông này là giáo sư Pơ-lây-sơ-ne, nguyên phó giám đốc trường đại học Tổng hợp Kin-lơ, sau khi bị giam giữ ở trại tập trung Đa-khao, đã trở về nhà với thái độ lặng lẽ, với nụ cười gượng gạo, vâng chịu trên môi. Vợ ông đã bỏ ông ngay sau khi ông bị bắt được ít lâu. Họ hàng của chị ta đòi phải như vậy, bởi vì Gu-gô phôn En-xơ, em trai của bà vợ Pơ-lây-sơ-ne, mới được bổ nhiệm làm cố vấn cho Nây-rát về các vấn đề kinh tế ở sứ quán Đức tại Tây Ban Nha. Con người trẻ tuổi này được xem là có nhiều triển vọng, ngay các nhân viên trong bộ máy của đảng Quốc xã ở địa phương cũng muốn làm thân với gã, bởi vậy hội nghị gia đình đặt ra trước bà vợ Pơ-lây-sơ-ne một sự lựa chọn: hoặc từ bỏ kẻ thù của quốc gia, tức chồng chị ta; hoặc nếu như chị ta coi trọng toàn bộ quyền lợi ích kỳ của mình hơn, thì chị ta sẽ bị toàn bộ gia đình ruồng bỏ, và tất cả bà con họ hàng ruột thịt - anh chị em, chú bác, cô dì - sẽ công khai đăng báo tuyên bố từ bỏ hoàn toàn chị ta.
Bà vợ Pơ-lây-sơ-ne trẻ hơn ông mười tuổi - chị ta bốn mươi hai. Chị ta rất yêu chồng. Hai người đã cùng nhau đi du lịch châu Phi và châu Á. Tại đó, giáo sư tiến hành công tác khai quật và tham gia đoàn khảo cổ do Viện bảo tàng Béc Lanh “Péc-ga-mông” tổ chức vào mùa hè. Lúc đầu, chị ta không chịu bỏ chồng, và nhiều người trong họ hàng của chị ta, một dòng họ trong vòng một trăm năm gần đây có nhiều quyền lợi gắn liền với việc buôn bán vải sợi, đã đòi phải đăng báo tuyên bố từ bỏ chị ta. Các ông già bà cả trong dòng họ đòi phải làm như vậy, lấy cớ là chế độ mới và đảng Quốc xã không muốn cho những người xuất thân từ các dòng họ tư sản và thương gia làm ăn tấn tới cho lắm. Mà việc buôn bán không thể tách khỏi chế độ mới được. Trong khi đó một cương vị ở Bộ Ngoại giao của Chính phủ mới, hơn nữa lại là chức cố vấn kinh tế ở Tây Ban Nha, rõ ràng sẽ tạo điều kiện cho công ty triển khai việc buôn bán tới vùng Pi-rê-nê. Tuy nhiên, Gu-gô phôn En-xơ đã can ngăn họ hàng đừng làm cái việc rắc rối đó một cách công khai. Gã giải thích: “Việc đó sẽ bị kẻ thù của chúng ta lợi dụng ngay. Lòng ghen tức của người đời ghê gớm lắm. Câu chuyện tai tiếng ấy chỉ bất lợi cho tôi. Tốt nhất là chúng ta hãy tiến hành mọi việc một cách lặng lẽ và thận trọng.”
Gã dẫn một anh bạn của gã ở câu lạc bộ vận động viên thuyền buồm đến chơi nhà bà vợ Pơ-lây-sơ-ne. Tay thanh niên ba mươi tuổi điển trai ấy tên là Ghết. Người ta vẫn đùa hắn: “Ghết này không phải là Béc-li-khin-ghen” 2. Hắn đẹp trai bao nhiêu thì cũng ngu ngốc bấy nhiêu. Gu-gô biết rằng hắn sống bằng tiền bạc của các bà phụ nữ luống tuổi. Ba người ngồi trong một tiệm ăn nhỏ và quan sát thái độ cư xử của Ghết, Gu-gô phôn En-xơ cảm thấy yên tâm. Hắn ngu ngốc thật đấy, nhưng tài tán gái thì vào loại mẫu mực, đúng bài bản, mà Ghết đã định bập vào ai thì ả đó đừng hòng thoát. Hắn lặng thinh, cau có và rất đường hoàng, chững chạc. Hắn kể một, hai chuyện tiếu lâm. Rồi hắn nhã nhặn mời bà vợ Pơ-lây-sơ-ne ra nhảy. Quan sát họ, Gu-gô thấy yên tâm: chị gã mỉm cười, còn Ghết thì cứ ôm riết chị hắn mỗi lúc một chặt hơn và thỉnh thoàng lại thì thầm nhỏ to bên tai chị ta.
Hai ngày sau, Ghết đến ở nhà giáo sư. Hắn sống ở đó một tuần lễ, cho đến lúc bọn cảnh sát sắp đi kiểm tra hộ khẩu. Bà vợ Pơ-lây-sơ-ne tới gặp Gu-gô khóc lóc: “Cậu hãy trả anh ấy về cho chị. Không sống với anh ấy, chị không chịu nổi đâu”. Hôm sau, chị ta nộp đơn xin ly dị chồng. Đó là một đòn nặng giáng vào giáo sư, vì ông vẫn tưởng rằng vợ ông là người ý hợp tâm đầu với ông. Ông không chia sẻ lòng căm thù của mình đối với chế độ quốc xã của bọn bạo chúa ngu ngốc với bất cứ ai, ngoài vợ ông ra. Tuy bị đau đớn trong tù, ông vẫn cho rằng lòng căm thù đó sẽ bảo vệ sự thành thật của vợ ông và cho phép vợ ông tự do suy nghĩ theo ý muốn.
Một đêm, Ghết hỏi chị ta: “Chắc chồng em làm cho em thích hơn phải không?”. Chị ta khẽ cười và ôm chặt lấy hắn, trả lời: “Ồ, anh yêu quý... Lão ta chỉ biết nói là giỏi thôi...”
Sau khi được trả lại tự do, Pơ-lây-sơ-ne không trở về Kin-lơ, mà đến Béc Lanh. Người em của ông có liên lạc với Sơ-tiếc-lít đã giúp ông vào làm việc ở viện bảo tàng “Péc-ga-mông”. Tại đây, ông làm việc ở Ban Cổ Hy Lạp. Chính đó là nơi Sơ-tiếc-lít thường hẹn các điệp viên của, anh tới gặp, bởi vậy, anh hay ghé vào thăm Pơ-lây-sơ-ne, và cùng ông dạo bước hồi lâu qua các phòng lớn trống trải của Viện bảo tàng “Péc-ga-mông”kỳ diệu. Pơ-lây-sơ-ne biết rằng thế nào Sơ-tiếc-lít cũng sẽ đứng ngắm thật lâu bức tượng “Cậu bé nhổ dằm”, ông biết rằng Sơ-tiếc-lít sẽ đi quanh bức tượng Xê-da mấy lần, bức tượng này làm bằng đá đen, đôi mắt trắng dã và điên dại của Xê-da thì làm bằng một chất khoáng trong suốt lạ lùng. Giáo sư tổ chức buổi đi dạo đó thế nào để Sơ-tiếc-lít có thể dừng chân lại lâu hơn bên các bức tượng cổ đại tạc hình người có nét mặt sầu thảm, vui cười hoặc thông thái. Giáo sư không biết rằng khi về đến nhà, Sơ-tiếc-lít thường đứng soi gương khá lâu trong buồng tắm để tập thể hiện nét mặt như một diễn viên, Sơ-tiếc-lít cho rằng một người tình báo nên học cách thể hiện nét mặt. Người cổ đại nắm rất vững nghệ thuật đó.
Một hôm, Sơ-tiếc-lít đề nghị giáo sư cho mượn chiếc chìa khóa mở hòm kính đựng các bức tượng đồng đen mang từ đảo Xa-mốt về.
- Tôi có cảm giác rằng, - lúc ấy anh nói, - nếu tôi chạm tay vào báu vật linh thiêng đó, một điều kỳ diệu sẽ lập tức xảy ra và tôi trở thành một con người khác hẳn, một phần sự thông thái điềm tĩnh của người xưa sẽ nhập vào hồn tôi.
Giáo sư đem chìa khóa lại cho Sơ-tiếc-lít, và anh in dấu chiếc chìa khóa để làm một chiếc thứ hai. Ở đây anh đặt hộp thư bí mật bên dưới bức tượng một nữ thần.
Anh thích trò chuyện với giáo sư. Anh bảo ông ta:
- Nghệ thuật của người Hy Lạp với tất cả sự tài tình của nó quá ư mềm mại và phần nào ẻo lả. Người La Mã cứng rắn hơn nhiều. Có lẽ vì thế mà họ gần người Đức hơn. Người Hy Lạp quan tâm đến nét đại thể, đến tư tưởng, người La Mã rất chú trọng tính trọn vẹn về mặt lô-gích, do đó họ say sưa khai thác các chi tiết. Chẳng hạn, giáo sư hãy thử nhìn bức chân dung Mác-cơ A-vơ-rê-li mà xem. Ông ta là người anh hùng, là đối tượng cho người ta bắt chước, cho trẻ con noi theo.
- Các chi tiết về quần áo và cách xử lý chính xác phần nửa thân người phía trên quả có tài tình thật. Song ngài hãy nhìn kỹ nét mặt A-vơ-rê-li mà xem, - Pơ-lây-sơ-ne thận trọng phản đối. Từ ngày ở trại tập trung ra, giáo sư không còn thiết tranh luận nữa, lúc nào ông cũng mang trong lòng một sự phản đối thận trọng - tất cả chỉ có thế. Trước kia, ông hăng hái và say sưa đánh gục người nào phản bác ý kiến ông. Còn bây giờ ông chỉ đưa ra những lý do phản đối thận trọng. - A-vơ-rê-li có suy nghĩ gì đâu? Ông ta chỉ là bức tượng kỷ niệm sự vĩ đại của chính mình. Nếu ngài để ý theo dõi nền nghệ thuật Pháp cuối thế kỷ mười tám, ngài sẽ tin rằng chính Hy Lạp đã chuyển sang Pa-ri, En-la-đa vĩ đại đã tới với những người Gia-cô-banh thích tự do...
Một bận, Pơ-lây-sơ-ne níu anh lại bên các bức tranh tường vẽ hình nửa người nửa vật: đầu người, mình lợn lòi hung dữ.
- Ngài thấy thế nào? - Pơ-lây-sơ-ne hỏi.
Sơ-tiếc-lít không trả lời Pơ-lây-sơ-ne mà chỉ ậm à ậm ừ cho qua chuyện, vì anh thấy im lặng thì không nên, mà trả lời thẳng lại càng không ổn.
Một lần, Sơ-tiếc-lít bảo giáo sư, khi hai người dạo bước trong phòng Tơ-roa cổ đại:
- Các ổ cắm điện trên những bức tường này thật là trơ trẽn. Lẽ ra, ở đây phải thắp nến hay đèn chùm mới đúng. Như thế này là để cho cái xấu xa của thế kỷ hai mươi chen vào bi kịch cao cả của thời cổ đại…
Khi đi qua các phòng lớn trống trải của viện bảo tàng “Péc- ga-mông”, Sơ-tiếc-lít thường tự hỏi: “Tại sao những con người sáng tạo ra nền nghệ thuật vĩ đại nảy lại đối xử dã man với các thiên tài của mình đến thế nhỉ? Tại sao họ lại phá hủy, đốt cháy và quẳng xuống đất các tranh tượng? Tại sao họ lại lạnh lùng và tàn ác đối với tài năng của người nghệ sĩ và nhà nặn tượng như vậy? Tại sao chúng ta lại thu nhặt những mảnh vụn ngu ngốc, tội lỗi và dã man của họ còn để lại và đem dạy cho con cái chúng ta hiểu thế nào là cái đẹp qua những mảnh vụn ấy? Tại sao chính những người cổ đại lại dại dột trao các thần tượng sinh động của mình vào tay bọn dã man?”
...Sau khi Viện bảo tàng “Péc-ga-mông” bị không quân Anh ném bom hủy diệt, giáo sư Pơ-lây-sơ-ne không đi tản cư với tất cả các cán bộ khoa học. Ông đề nghị được ở lại Béc Lanh trông nom cái phần tài sản còn lại, dù là ít ỏi, của Viện bảo tàng.
Lúc này Sơ-tiếc-lít tới gặp giáo sư. Vì mất liên lạc, anh rất khổ tâm, phải cố tìm lối thoát. Bắt liên lạc qua một người hoạt động mò mẫm, kiểu như một “hòm thư”, người ấy không rõ mình đang làm gì, làm cho ai và vì mục đích gì, thì Sơ-tiếc-lít cho là việc làm thiếu khôn ngoan trong hoàn cảnh hiện nay.
Sơ-tiếc-lít nghĩ nhiều đến việc liên lạc với người đằng mình ở Thụy Sĩ - tất nhiên là nếu Sê-len-béc cử anh sang đó để tổ chức chiến dịch “che đỡ”“ tại chỗ với giám mục Sơ-lắc. Nhưng rất có thể là sau khi chuẩn bị toàn bộ chiến dịch, Sơ-tiếc-lít vẫn phải nằm ở Đức, còn vị giám mục thì sẽ do những người khác “điều khiển” tại Béc-nơ. Cũng có thể như vậy lắm, Sơ-tiếc-lít vẫn tiếp tục tìm cách gặp Boóc-man, vì hiểu rằng, nếu được Boóc- man ủng hộ, vấn đề anh sang Thụy Sĩ để “đích thân theo dõi cuộc đàm phán” coi như đã được giải quyết. Tuy nhiên, bất kỳ sự tiếp xúc nào với các công dân Liên Xô tại Béc-nơ cũng sẽ đưa toàn bộ chiến dịch đến thất bại hoàn toàn và không sao cứu vãn nổi, bởi vì mọi công dân Liên Xô tại đó đều bị tất cả các cơ quan tình báo của thế giới giám sát chặt chẽ.
Bởi vậy, anh cần đến một người mà anh có thể hoàn toàn tin cậy vào lòng thành thực của người đó. Anh tin vào sự thành thực của Pơ-lây-sơ-ne. Anh chỉ khống tin vào khả năng chịu đựng của vị giáo sư trong trường hợp ông bị bắt và bị bọn ghét-xta-pô hỏi cung thôi.
Thấy anh đến, Pơ-lay-sơ-ne vui mừng kéo anh vào tầng hầm của mình, đặt ấm đun cà-phê lên bếp điện và nói:
- Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng, vắng ngài, tôi lại buồn đến thế. Tôi không biết nghề nghiệp của ngài, tôi chỉ biết ngài là bạn của cậu em quá cố của tôi, nhưng tôi rất thích khi ở bên cạnh ngài, ngài Sơ-tiếc-lít ạ.
- Cảm ơn giáo sư. Tôi còn thích ở bên giáo sư hơn kia. Giáo sư ở chỗ này có lạnh lắm không?
- Lạnh cứng cả chân tay lại. Nhưng ngài bảo còn biết làm gì được? Thử hỏi ai là người không bị lạnh lúc này?
- Ở hầm bọc sắt của Quốc trưởng ấm lắm, giáo sư ạ,
- Ồ, cái đó dễ hiểu thôi. Vị lãnh tụ phải sống ở nơi ấm áp chứ chẳng lẽ có thể so sánh nỗi lo lắng của chúng ta với những nỗi lo lắng, quan tâm của Người hay sao? Chúng ta là chúng ta, chúng ta chỉ nghĩ đến bản thân, còn Quốc trưởng nghĩ đến mọi người Đức!
Sơ-tiếc-lít đưa mắt nhìn khắp gian hầm một cách chăm chú. Ở đây không có một lỗ thông hơi, không thể đặt máy nghe trộm tiếng nói trong hầm này được. Bởi vậy, sau khi rít một hơi thuốc thật dài, anh nói:
- Thôi đủ rồi, giáo sư ạ... Một thằng điên đẩy hàng triệu người ra hứng bom đạn, còn chính hắn thì chui vào chỗ an toàn như một con chuột để ngồi xem chiếu bóng với phe lũ của hắn.
Mặt Pơ-lây-sơ-ne trắng bệch ra, đau đớn và Sơ-tiếc-lít lấy làm tiếc rằng anh đã nói câu ấy, rằng anh đã tới gặp ông già bất hạnh này để lo việc của anh.
“Tuy rằng việc này đâu phải là việc của mình? - anh nghĩ. - Đúng ra, đây là việc của họ, của những người Đức, do đó đây là việc của ông ta chứ. Mình làm thay họ cái việc mà lẽ ra chính họ phải làm mới đúng.”
- Thế nào, - Sơ-tiếc-lít giục, - giáo sư trả lời đi chứ… Giáo sư không đồng ý với tôi phải không?
Pơ-lây-sơ-ne vẫn im lặng,
- Thế này nhé, - Sơ-tiếc-lít nói, - người em của giáo sư và bạn của tôi là một chiến sĩ chống phát-xít... Một cán bộ hoạt động bí mật... Anh ấy đã giúp tôi. Giáo sư chưa bao giờ quan tâm đến nghề nghiệp của tôi: tôi là đại tá SS và tôi là người làm công tác tình báo.
Giáo sư vung tay như muốn che mặt đỡ đòn.
- Không, - ông nói. - Không và quyết là không! Em tôi không đời nào lại có thể làm một tên phá hoại! Không đời nào! - ông nhắc lại to hơn: - Không! Tôi không tin ngài.
- Anh ấy không phải là một tên phá hoại, - Sơ-tiếc-lít nói, - còn tôi thì đúng là đang làm công tác tình báo. Nhưng là tình báo Liên Xô...
Và anh chìa cho Pơ-lây-sơ-ne một bức thư. Bức thư ấy do người em giáo sư viết trước khi chết.
“Bạn. Cảm ơn tình cảm của bạn. Tôi đã học tập được ở bạn nhiều điều. Tôi học ở bạn cách yêu và vì tình yêu đó mà biết căm thù những kẻ buộc dân tộc Đức phải làm nô lệ. Pơ-lây-sơ-ne.”
- Anh ấy viết thế vì ngại bọn ghét-xta-pô, - Sơ-tiếc-lit giải thích khi lấy lại bức thư. - Chính giáo sư cũng hiểu đấy, chả lẽ những người bôn-sê-vích và quân Đồng minh lại muốn bắt dân tộc Đức làm nô lệ hay sao? Và như em giáo sư đã nói: chúng ta có nghĩa vụ phải căm thù chúng. Nhưng cũng có thể, chính Hít-le và bọn quốc xã đã đem lại ách nô lệ cho người Đức, có phải như vậy không, thưa giáo sư?
Pơ-lây-sơ-ne ngồi im lặng hồi lâu trong chiếc ghế bành to tướng kiểu cổ.
- Tôi ủng hộ anh, - cuối cùng giáo sư nói, - tôi hiểu... Anh có thế nhờ tôi làm tất cả mọi việc. Nhưng tôi có thể nói ngay với anh rằng; hễ bọn chúng lấy roi quật vào sườn tôi, thì tôi sẽ khai ra hết đấy.
- Tôi biết, - Sơ-tiếc-lít đáp. - Giáo sư muốn chết ngay bằng cách uống thuốc độc hay thích để bọn ghét-xta-pô tra tấn?
- Nếu không có cách thứ ba, - Pơ-lây-sơ-ne nở một nụ cười yếu ớt, - dĩ nhiên, tôi thích dùng thuốc độc hơn.
- Giáo sư cảm thấy thế nào, khi tôi nói cho giáo sư biết về tôi?
- Tôi cảm thấy nhẹ nhàng, dễ thở hơn, - Pơ-lây-sơ-ne trả lời. - Dễ thở hẳn lên. Lòng căm thù và sự bất lực trước đây khiến tôi bị ngạt thở.
- Vậy thì ta hãy cùng nấu cháo, - Sơ-tiếc-lít mỉm cười, - nấu một nồi cháo thật ngon.
- Tôi phải làm gì, hở anh?
- Không làm gì cả, cần phải sống. Và sẵn sàng làm những việc cần thiết vào bất cứ lúc nào.
- Vì ai?
- Vì nước Đức,...
- Vì ai kia?!
- Vì nước Đức, Tôi muốn nói đến nước Đức của dân tộc Đức, chứ không phải nước Đức của bọn quốc xã. Giáo sư đồng ý với tôi rằng hai khái niệm ấy hoàn toàn khác nhau chứ?
༺༒༻
1. Rô-béc Cốc (1843 - 1910), nhà bác học Đức, một trong những người sáng lập môn vi sinh học. Ông đã tìm ra vi trùng lao, dịch tả. Được giải thưởng Nô-ben năm 1905.
2. Ghết phôn Béc-li-khin-ghen - nhân vật trong một tác phẩm thơ sử thi của Đức thế kỷ XIX.