← Quay lại trang sách

Chương 11

Nửa giờ sau, cạnh Viện bảo tàng Tự nhiên học, Sơ-tiếc-lít nhìn thấy chiếc ôtô bọc thép "Mai-bắc". Anh đi qua chỗ xe đỗ và thấy Boóc-man ngồi ở ghế sau. Tin chắc rằng không có cái đuôi nào bám theo mình, Sơ-tiếc-lít quay lại mở cửa xe và nói:

- Chào ngài Boóc-man, tôi xin đa tạ lòng tin cậy mà ngài dành cho tôi...

Boóc-man lặng lẽ bắt tay Sơ-tiếc-lít và nhìn chằm chằm vào mặt anh.

- Cho xe chạy về phía Van-dây, - y bảo tên lái xe.

Sau đó, y kéo kính che kín chỗ ngồi tiếp khách với chỗ ngồi của lái xe.

- Tôi đã gặp anh ở đâu rồi nhỉ? - y chăm chú nhìn Sơ-tiếc-lít và hỏi. - Anh bỏ kính ra xem nào...

Sơ-tiếc-lít bỏ kính xuống đùi và kéo mũ lên một chút.

- Đúng là tôi đã gặp anh ở đâu rồi, - y nhắc lại.

- Vâng, - Sơ-tiếc-lít đáp. - Hôm ngài gắn huy chương Chữ thập cho tôi, ngài nói rằng tôi có bộ mặt của một giáo sư toán học, chứ không phải của một điệp viên...

- Bây giờ thì đúng là anh có bộ mặt của một điệp viên, chứ không phải của một giáo sư toán học nữa. - Boóc-man nói đùa. - Thế nào, có chuyện gì vậy, anh kể đi...

༺༒༻

Chiếc máy điện thoại liên lạc giữa Boóc-man với Cục an ninh im lặng suốt đêm. Bởi thế, sáng hôm sau, khi băng ghi âm nghe trộm được đặt lên bàn Him-le, thì hắn đùng đùng nổi giận. Nhưng rồi cơn giận qua đi, hắn cảm thấy run sợ, bèn gọi Muyn-lơ đến và ra lệnh cho tên kia cố điều tra - một cách hết sức thận trọng - xem đêm qua ai đã từ phòng thông tin liên lạc trực tiếp, đặc biệt, nói chuyện điện thoại với Tổng hành dinh của đảng Quốc xã.

Suốt ngày hôm ấy, Muyn-lơ không nhận được tài liệu rõ rệt nào cả. Đến tối, người ta đệ lên bàn y cái dấu tay mà người lạ mặt đã nói chuyện với Boóc-man đã để lại trên ống nghe điện thoại. Điều khiến Muyn-lơ sửng sốt là, theo kết quả xét nghiệm và phân tích, dấu tay ấy đã xuất hiện mấy ngày trước đây ở sở ghét-xta-pô và còn trùng với cả dấu tay phát hiện được trên máy phát của cô hiệu thính viên người Nga.

Tên lái xe của Boóc-man, kẻ trước đây từ chối - theo lệnh của Boóc-man - cung cấp tin tức cho ss, đã bị bắt ngay trên đường về nhà sau phiên trực. Suốt ba tiếng đồng hồ hắn im lặng và đòi được nói chuyện với Boóc-man. Sau khi người ta áp dụng một kiểu hỏi cung đáng sợ, hắn thú nhận rằng đêm qua có một người lạ mặt đã lên xe gặp Boóc-man. Người ấy. nói gì với Boóc-man thì lái xe không thể biết, bởi vì hắn bị ngăn cách với hai người kia bởi một tấm kính che đạn rất dày. Hắn miêu tả hình dáng người lạ mặt đó. Hắn nói rằng người ấy đội một chiếc mũ sụp xuống đến trán, đeo kính gọng sừng rất dày và có hàng ria bạc. Người ta đưa cho hắn xem hơn hai trăm bức ảnh. Trong số đó, có ảnh Sơ-tiếc-lít. Nhưng, một là, trên ảnh không có đeo kính và không để ria - hai thứ này khi cần có thể đeo lên hoặc tháo ra dễ dàng, hai là, các bức ảnh ấy chụp từ năm năm về trước, mà sau năm năm chiến tranh người ta thường thay đổi rất nhiều, có khi đến mức không nhận ra được nữa.

Nhận được báo cáo của Muyn-lơ về kết quả điều tra sơ bộ, Him-le tán thành đề nghị của Muyn-lơ là bí mật lấy dấu tay của tất cả những nhân viên trong bộ máy an ninh.

Muyn-lơ còn đề nghị tổ chức việc thủ tiêu tên lái xe của Boóc-man thế nào để gây ấn tượng là tên ấy tình cờ bị ôtô cán chết ngoài phố, gần nhà mình. Lúc đầu Him-le định ký lệnh thi hành biện pháp đó, một biện pháp rõ ràng là cần thiết, nhưng sau hắn nghĩ lại. Hắn không còn tin vào tất cả mọi người nữa, kể cả Muyn-lơ.

- Anh hãy tự lo việc ấy, - hắn nói. - Có lẽ nên thả nó ra chăng? - Him-le nói tránh và biết Muyn-lơ sẽ trả lời hắn như thế nào.

- Không thể được! Người của ta đã nắn bóp hắn quá nhiều.

Him-le chờ đợi chính câu trả lời đó.

- Thế thì tôi không biết, - hắn nhăn mặt. - Lái xe là người thật thà, mà chúng ta không bao giờ trừng trị những người thật thà cả... Anh hãy tự nghĩ xem có cách gì không...

Từ chỗ Him-le ra, Muyn-lơ hầm hầm tức giận: y hiểu rằng thống chế sợ Boóc-man, nên đưa y, Muyn-lơ, ra hứng đòn. Đừng hòng, y quyết định, đã thế thì mình cũng phải tìm cách chơi của mình chứ. Cứ để cho thằng lái xe sống. Nó sẽ là con bài tẩy của mình.

༺༒༻

Him-le cho gọi Ot-tô Coóc-xê-ti tới.

- Tôi cần đến kho lưu trữ của Boóc-man, - hắn nói. - Ong Coóc-xê-ni, ông hiểu tôi cần gì chứ?

- Thưa, tôi hiểu ạ.

- Cái đó khó hơn bắt cóc đu-tre [*].

- Tôi hiểu.

- Nhưng liệu có thể làm được không?

- Tôi không rõ ạ.

- Ỏng Coóc-xê-ni, câu trả lời ấy không làm tôi vừa lòng đâu. Gần đây, Boóc-man bắt đầu di chuyển hồ sơ lưu trữ, ông cần điều tra xem là nó được chuyển đến đâu và do ai bảo vệ. Sê-len-béc sẽ giúp đỡ ông - không phải dưới danh nghĩa chính thức, mà làm cố vấn thôi.

- Thưa ngài thống chế, tôi hiểu ạ.

Sau khi báo cáo với Sê-len-béc ý kiến của mình về việc đưa giám mục Sơ-lắc vượt biên giới, phôn Sơ-tiếc-1ít đi gấp chuyến tàu đêm tốc hành tới biên giới Thụy Sĩ để "chuẩn bị cửa sổ". Cũng như Sê- len-béc, anh cho rằng việc công khai đưa giám mục vượt qua biên giới có thể gây nên chuyện ồn ào trái ý muốn. Toàn bộ chiến dịch này được tiến hành bí mật, không cho bên ghét-xta-pô biết. Nếu như bọn ghét-xta-pô biết chuyện vượt biên giới của một người bị nhiều hồ sơ tố giác, một người đã được trả lại tự do theo chỉ thị riêng của Sê-len-béc một cách bất hợp pháp, thì có thể đoán chắc rằng, chúng sẽ để người ấy đi qua biên giới sang Thụy Sĩ, nhưng ngay từ đầu sẽ bố trí việc theo dõi, mà ý đồ của "chiến dịch che đỡ" đã phác thảo xong thì không tính đến chuyện đó. Còn việc vạch mặt Sơ-lắc sau khi ông ta làm xong việc của ông ta, thì theo ý của Sê-len-béc, sẽ phải do chính Sơ-tiếc-lít tiến hành kia.

Trong những ngày vừa qua, được lệnh của Sê- len-béc, Sơ-tiếc-lít đã chuẩn bị cho giám mục "những kẻ đồng mưu dự bị". Anh cho rằng, bọn này phải là các quan chức ở-Bộ Ngoại giao và ở Bộ tham mưu không quân của Gơ-rinh. Tại hai cơ quan ấy, anh đã để ý đến những kẻ cúc cung tận tụy phục vụ chế độ quốc xã, những kẻ mà anh biết đúng là người của ghét-xta-pô. Sê-len-béc đặc biệt thích thú về việc tất cả những kẻ ấy đều do bọn ghét-xta-pô tuyển mộ.

- Hay lắm, - y nói, - cái đó có rất nhiều triển vọng.

Sơ-tiếc-lít nhìn y dò hỏi.

- Nghĩa là, - Sê-len-béc giải thích, - bằng cách đó, ở phương Tây chúng ta sẽ tố giác tất cả những kẻ nào tìm cách đàm phán hoà bình mà lờ chúng ta đi. Chẳng là ở bên ấy người ta phân biệt rất rành rọt tổ chức ghét-xta-pô với cơ quan tình báo của chúng ta.

"Điều ấy mình không nghĩ đến, - Sơ-tiếc-lít thú nhận với chính mình. - Hắn cừ thật, hắn hiểu rõ công việc và biết nhìn xa trông rộng. Cảm ơn mi, Sê-len-béc, về nghệ thuật tình báo. Mặc dù cần phải suy nghĩ thêm: nếu quả thực chúng có người nào ở bên phương Tây, thì chúng có thể bắt tay cả với quỷ Sa tăng, chứ không phải chỉ với Muyn-lơ thôi đâu".

༺༒༻

Chuyến tàu đêm tốc hành này khác với tất cả các chuyến tàu khác ở chỗ nó vẫn có đủ tiện nghi như trước chiến tranh. Trong các cu-pê nhỏ, vẫn có những chiếc đai bằng da thật chứ không phải giả da, các bình đựng tàn thuốc lá bằng đồng và các chân cắm đèn điện bóng loáng. Các nhân viên phục vụ bưng cà-phê đặc tới cho khách. Thực ra, hiện nay đi trên chuyến tàu này toàn là dân ngoại giao: theo hành lang Xơ-can-đi-na-vơ - Thuỵ Sĩ.

Chỗ ngồi của Sơ-tiếc-lít mang số 74. Số 56 toa sau là của một giáo sư Thuỵ Điển có một cái họ Sơ-can-đi-na-vơ rất dài và lủng cũng. Mặt giáo sư tái xanh. Họ là hai hành khách độc nhất trong hai toa quốc tế, nếu không kể viên tướng trở về mặt trận Ý sau khi bị thương. Viên tướng ngó vào cu-pê của Sơ-tiếc-lít và hỏi anh:

- Ông là người Đức hả?

- Than ôi, - Sơ-tiếc-lít trả lời.

Anh có thể pha trò, cấp chỉ huy cho phép anh làm như vậy. Hoạt động phá hoại ngầm dự tính khả năng pha trò với ý đồ độc địa. Nếu một trong hai kẻ nói chuyện với nhau đi tố giác kẻ kia, thì kẻ kia đã có bảo hiểm là hắn được phép của cấp chỉ huy. Nếu kẻ kia không tố giác, thì như vậy là có thể tính đến triển vọng làm việc với kẻ đó. Có thời kỳ vấn đề ấy đã được đem ra tranh luận ở Sở ghét-xta-pô: nên cắt đứt ngay tại chỗ những câu chuyện không xứng đáng, hay là tìm cho chúng một lối thoát? Một số nhân viên SĐ cho rằng nên cắt đứt ngay - sự sợ hãi là thứ thuốc phòng bệnh tốt nhất. Nhưng một số khác, trong đó có Sơ-tiếc-lít, khẳng định rằng cần phải gợi chuyện về những đề tài nóng bỏng nhất ở tất cả những nơi nào có thể gọi được.

- Tại sao lại "than ôi"? - viên tướng ra vẻ quan tâm.

- Tại vì người ta không mang đến cho tôi suất cà-phê thứ hai. Người ta chỉ đem cà-phê ngon đến cho những ai có hộ chiếu ngoại quốc theo yêu cầu đầu tiên của họ mà thôi.

- Thật à! Thế mà người ta đã mang cho tôi suất thứ hai rồi đấy. Tôi có rượu cô-nhắc đây! Ông có muốn uống không?

- Cảm ơn. Tôi cũng có cô-nhắc.

- Nhưng chắc là ông không có mỡ muối.

- Tôi có mỡ muối.

- Nghĩa là tôi với ông ăn chung một đĩa cả thôi, - viên tướng nói, trong khi nhìn những thứ Sơ-tiếc-lít lấy từ trong cặp ra. - Ông giữ chức vụ gì vậy?

- Tôi làm công tác ngoại giao. Cố vấn của Vụ III Bộ Ngoại giao.

- Nghĩa là tất cả mọi người đều nguyền rủa các ông, - viên tướng nói và ngồi xuống chiếc ghế mềm cạnh chỗ đặt la-va-bô.

- Chính các ông là những người có lỗi trong tất cả mọi chuyện.

- Tại sao thế hở ngài?

- Tại vì các ông quyết định chính sách đối ngoại, bởi vì các ông đã dẫn đến chỗ gây ra chiến tranh trên hai mặt trận. Xin mờ!

- Xin mời! Ngài là người Mê-cơ-len-bua phải không?

- Vâng. Sao ông biết?

- Qua hai tiếng "xin mờ" của ngài đấy. Tất cả những người miền Bắc đều tiết kiệm nguyên âm.

Viên tướng cười.

- Đúng thế - ông ta nói. - Ông nghe đây, hình như hôm qua tôi nhìn thấy ông ở Bộ Hàng không thì phải.

Sơ-tiếc-lít co người lại: hôm qua anh có chở giám mục Sơ-lắc đến Bộ Hàng không để "bắt liên lạc" với những người thân cận của Gơ-rinh. Trong trường hợp toàn bộ chiến dịch thành công, khi ghét- xta-pô được tiếp cận vào vụ này, - nhưng là theo đề nghị của Sê-len-béc nhằm phát hiện thém chi tiết về, "âm mưu phản nghịch", - thì phải làm sao cho giám mục để lại dấu vết cả ở Bộ Hàng không, trong không quân lẫn trong Bộ Ngoại giao. Trong Bộ Hàng không, sau khi đưa căn cước của mình vào chỗ đăng ký, giám mục đề nghị cho biết tin tức về cố vấn Va-te Smi-đê-cơ-rốp ; ở Bộ Ngoại giao, Sơ-lắc gửi lại một bức thư nhờ chuyển cho tiến sĩ Cờ-lai-xtơ, người đầu tiên tìm cách tiếp xúc với phương Tây ở Xtôc-khôm.

"Không, - Sơ-tiếc-lít thầm nghĩ, trong khi rót cô-nhắc, - viên tướng này không thể nhìn thấy mình. Lúc mình ngồi trong xe, có ai đi ngang qua chỗ mình đâu. Và vị tất Muyn-lơ lại để viên tướng này theo dõi mình. Hắn không quen làm như thế, óc tưởng tượng của hắn tốt lắm".

- Hôm qua tôi không đến đấy, - anh trả lời. - Khuôn mặt của tôi có cái lạ ai cũng cứ tưởng vừa mới gặp tôi đâu vậy.

- Khuôn mặt ông cũng giống khuôn mặt nhiều người khác.

- Cái đó tốt hay xấu?

- Đối với nghề gián điệp thì chắc là tốt, còn đối với nhà ngoại giao thì xấu. Các ông cần đến những khuôn mặt dễ nhớ kia.

- Thế còn giới quân nhân các ngài thì cần cái gì nào?

- Giới quân nhân bày giờ cần có cặp giò khoẻ mạnh.

- Còn về đầu tóc mặt mũi thì sao?

- Đầu tóc chúng tôi thì ai cần? Người ta suy nghĩ thay chúng tôi, chúng tôi chỉ việc thi hành thôi. Cặp giò mới quan trọng. Để bỏ chạy cho kịp.

- Ngài không sợ nói điều đó với người lạ hay sao?

- Nhưng ông có biết tên tôi đâu mà lo...

- Cái đó dễ biết thôi, vì ngài có khuôn mặt rất dễ nhớ.

- Thế à? Khỉ thật, vậy mà tôi cứ tưởng mặt mũi tôi mẫu mực lắm. Dầu sao thì trong lúc ông viết đơn tố giác tôi và người ta lo tìm nhân chứng thứ hai, cũng còn khối thời gian, đến lúc ấy thì tất cả đi đời nhà ma rồi. Không phải người Đức, mà là những người khác sẽ đặt chúng ta vào ghế bị cáo. Và người bị đưa ra toà trước hết là các ông, những nhà ngoại giao.

- Các ngài đốt phá, các ngài huỷ diệt, các ngài giết chóc, cớ sao lại đưa chúng tôi ra toà?

- Chúng tôi thi hành mệnh lệnh. Những kẻ đốt phá là lực lượng ss. Chúng tôi chỉ đánh nhau thôi.

- Sao, các ngài mới phát minh ra một kiểu mới: đánh nhau mà không đốt phá và giết chóc ư?

- Chiến tranh là cần thiết vì những lý do nhất định. Dĩ nhiên, chiến tranh không phải là chuyện ngu ngốc. Đây là cuộc chiến tranh của một nhà quân sự nghiệp dư. Người ấy nghĩ rằng có thể đánh nhau một cách mò mẫm, không cần qua đào tạo chính quy ở học viện. Người ấy cho rằng chỉ có một mình người ấy biết tất cả chúng ta cần điều gì. Người ấy cho rằng chỉ có một mình người ấy yêu nước Đức vĩ đại, còn tất cả chúng ta chỉ nghĩ đến chuyện tìm cách bán rẻ nước Đức cho bọn cô-dắc bôn-sê-vích mọi rợ...

Sơ-tiếc-lít cười to:

- Hiện thời vẫn chưa thấy bọn cô-dắc mọi rợ đâu cả.

- Ô, bọn Đỏ có thể làm đủ mọi chuyện. Bọn Mỹ cũng thế. Tôi đã đánh nhau với bọn Mỹ một năm. Chính kỹ thuật của bọn ngu ngốc ấy sẽ giết chúng: chúng cứ tưởng rằng chỉ cần ném bom là sẽ chiến thắng. Xin mờ!

- Xin mời...

- Chúng sẽ triển khai sức mạnh kỹ thuật của chúng và sẽ chết sặc gạch vì kỹ thuật. Kỹ thuật sẽ gậm nhấm chúng như gỉ sắt. Chúng tưởng rằng chúng có thể làm được tất cả mọi chuyện. Bọn Đỏ nghĩ như thế, bởi vì chúng là những kẻ đói khát, man rợ. Bọn Mỹ nghĩ như thế, bởi chúng quá giàu. Bởi vậy, cần có những cuộc chiến tranh...

- Ý kiến của ngài không ăn khớp với nhau, - Sơ-tiếc-lít nhận xét. - Luận điểm của ngài có cái gì không ổn.

- Chả có gì là không ổn cả. Các quốc gia cũng giống như mọi con người. Họ căm ghét trạng thái yên tĩnh. Các đường biên giới thít cổ họ. Họ cần vận động. Đó là tiền đề. Vận động - đó là chiến tranh. Nhưng nếu các ông, những nhà ngoại giao đáng nguyền rủa, lại lầm lẫn một lần nữa, người ta sẽ tiêu diệt các ông sạch sành sanh.

- Chúng tôi thi hành mệnh lệnh. Chúng tôi cũng là những người lính như các ngài... Những người lính của Quốc trưởng.

- Ông hãy bỏ cái trò vờ vịt ấy đi. Những người lính của Quốc trưởng, - viên tướng nhại lại. - Một sĩ quan quèn ăn cắp ủng của cấp tướng...

- Thưa tướng quân, tôi rất sợ nói chuyện với ngài...

- Ông đừng nói dối. Bây giờ cả nước Đức đều nói như tôi... Hay nghĩ như tôi - ít ra là như thế.

- Thế các đội thanh niên Hít-le thì sao? Khi họ xông vào đám xe tăng Nga, họ cũng nghĩ như thế ư? Họ ngã xuống vẫn còn hô vang: "Hai-lơ Hít-le" kia mà...

- Thái độ cuồng tín không bao giờ dẫn đến thắng lợi cuối cùng, vì nó làm cho mọi người chán ngấy. Thái độ cuồng tín ấy sẽ tan biến đi trong suy nghĩ và trong phong thái cư xử của những kẻ chiến bại. Những người cuồng tín có thể chiến thắng trong giai đoạn đầu. Họ không bao giờ giữ vững được thắng lợi, bởi lẽ họ sẽ bị mệt mỏi vì chính bản thân họ. Xin mờ!

- Xin mời... Thế thì tại sao ngài không động viên sư đoàn của mình...

- Quân đoàn...

- Càng tốt. Thế thì tại sao khi đó ngài không đầu hàng cùng với toàn bộ quân đoàn của mình?

- Thế còn gia đình? Còn bọn cuồng tín ở Bộ tham mưu? Còn những kẻ hèn nhát cứ thấy đánh nhau với niềm tin vào thắng lợi tưởng tượng còn dễ chịu hơn là ngồi trong trại giam của phe Đồng minh...

- Ngài có thể ra lệnh...

- Người ta ra lệnh phải chết... Chưa bao giờ có cái lệnh đầu hàng kẻ thù để sống. Người ta không biết cách viết cái lệnh đó... Trong mọi quân đội trên thế giới.

- Thế nếu như ngài nhận được một mệnh lệnh như vậy?

- Lệnh của ai? Của cái lão mắc bệnh suy nhược thần kinh ấy ư? Lão ta đang kéo tất cả chúng ta đi theo lão xuống mồ: chết một mình chả là điều đáng sợ, còn chết cả lũ là chuyện vặt, thậm chí có thể pha trò cho vui nữa kia.

- Nếu người ta ra lệnh là Cây-ten?

- ơ chỗ cái đầu của ông ta chỉ có một cái mông đít.Ông ta làm thư ký, chứ không phải là nhà quân sự.

- Được rồi... Thế còn ông tổng tư lệnh của ngài ở Ý?

- Két-xen-rinh? Ông ấy không đời nào ra lệnh như thế.

- Tại sao?

- Ông ấy được giáo dục trong bộ tham mưu của Gơ-rinh. Mà những người làm việc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một lãnh tụ nào đó thì thế nào cũng mất hết sáng kiến. Có khôn khéo hơn, giỏi phân tích hơn thật đấy, nhưng mất khả năng đi tới những quyết định độc lập. Trước khi ra một cái lệnh như thế, thế nào ông ta cũng phải bay về gặp con lợn đực.

- Gặp ai?

- Gặp con lợn đực, - viên tướng bướng bỉnh nhắc lại. - Gặp Gơ-rinh.

- Ngài tin rằng không thể thuyết phục Két-xen- rinh làm việc đó nếu ông ta chưa được Gơ-rinh cho phép à?

- Nếu tôi không tin, tôi đã chẳng nói.

- Ngài không tin vào triển vọng của tình hình ư?

- Tôi tin vào triển vọng... Triển vọng một cái chết sắp tới với cả lũ chúng ta... Ông hãy tin tôi, khi chết cả lũ với nhau thì không có gì đáng sợ đâu. Và cái chết của chúng ta sẽ thảm hại đến mức nó sẽ đâm nhói vào trái tim nhiều thế hệ người Đức bất hạnh, mỗi khi họ nhớ đến nó...

Rồi đột nhiên viên tướng khóc oà lên... Mặt ông ta lì ra, không một bắp thịt nào rung động, chỉ có những giọt nước mắt lăn trên má. Ông ta khóc, nhưng giọng ông ta vẫn rắn rỏi, khi ông ta kết thúc câu chuyện:

- Tôi đã dặn dò các con tôi: hãy nguyền rủa mọi thứ dân chủ ở nước Đức. Mọi thứ dân chủ ở nước ta chỉ dẫn đến một tai hoạ là nền chuyên chính của bọn tiểu thương. Chúng ta càng có nhiều quyền tự do, chúng ta lại càng muốn xây dựng thêm lực lượng ss, lính kín, trại tập trung và các tổ chức đe doạ mọi người. Chỉ khi đó chúng ta mới cảm thấy yên tâm. Không nên bảo vệ quan điểm của mình về số phận tổ quốc, không cần chịu trách nhiệm gì hết -.chỉ việc giơ tay lên chào các con người đang lo nghĩ chuyện đó thay mình, chỉ cần hô "Hai-lơ Hít-le" là tất cả sẽ lập tức trở nên dễ hiểu và chẳng phải lo lắng gì nữa...

Suốt đêm, vị giáo sư Thuy Điển có cái họ Xơ-cãng-đi-na-vơ dài dòng và lủng cũng chỉ ngồi cắm cúi viết trong cu-pê của mình. Người ấy cố tìm cách kê lót để ngòi bút khỏi làm rách giấy, vì qua mỗi nối đường ray, đoàn tàu lại lắc lư rất mạnh...

Đến ga biên giới, Sơ-tiếc-lít xuống tàu. Viên tướng đi qua chỗ anh thì cúp mắt xuống và giơ tay lên chào theo quy định của đảng Quốc xã.

- Hai-lơ Hít-le! - ông ta nói thật to.

- Hai-lơ Hít-le! - Sơ-tiếc-lít đáp lại. - Chúc ngài đánh tan các kẻ thù của ngài!

Viên tướng sợ hãi nhìn Sơ-tiếc-lít: rõ ràng đêm qua ông ta đã quá say rượu khi bước sang cu-pê của anh.

- Cảm ơn ông, - viên tướng trả lời rất to, chắc là ông ta muốn để cho gã nhân viên phục vụ nghe thấy. - Chúng tôi sẽ cứa cổ chúng nó.

- Tôi tin là như thế, - Sơ-tiếc-lít nói và chậm rãi đi trên sân ga.

Trong hai toa tàu chỉ còn lại một mình vị giáo sư người Thuỵ Điển. Người ấy sẽ vượt biên giới đi vào chốn bình an, yên tĩnh của nứớc Thụy Sĩ tự do trung lập. Chắc là không có ai ra đón Sơ-tiếc-lít, cho nên anh cứ đi đi lại lại trên sân ga cho đến lúc việc kiểm tra của bọn nhân viên quan thuế và cảnh sát biên phòng kết thúc. Sau đó, khi đoàn tàu từ từ chuyển bánh, Sơ-tiếc-lít đưa mắt nhìn theo vị giáo sư Thuỵ Điển hồi lâu. Người ấy ngồi sát bên cửa sổ và cũng ngoái lại nhìn anh...

Vị giáo sư Thuy Điển ấy là Pờ-lây-sơ-ne, anh ruột của một người bạn chiến đấu của anh, anh ruột của Gu-gô Pờ-lây-sơ-ne, một người Đức, một chiến sĩ anh dũng chống phát xít. Pờ-lây-sơ-ne sang Béc-nơ để đem bản báo cáo gửi về Mát-xcơ-va. Đó là bản báo cáo về công việc Sơ-tiếc-lít đã làm, về nhiêm vụ của Sơ-tiếc-lít, về mối liên hệ giữa anh với Boóc-man, về việc Kết bị sa lưới. Trong báo cáo đó, Sơ-tiếc-lít đề nghị Trung tâm cử liên lạc tới và nói rõ thời gian, địa điểm, cách thức mà anh có thể tới để bắt liên lạc.

Sơ-tiếc-lít thở dài nhẹ nhõm, khi đoàn tàu đi khỏi, rồi anh đi đến đồn cảnh sát biên phòng để lấy xe tới một đồn khác ở xa hơn trong vùng núi. Đó là nơi vị giám mục sắp phải "bí mật" vượt qua để chạy sang Thụy Sĩ.

༺༒༻

"Kính gửi ngài thống chế ss Hen-rích Him-le.

Tối mật. Chỉ trao tận tay.

Một bản.

Thưa ngài thống chế!

Đêm hôm qua tôi đã thực sự bắt tay thực hiện chiến dịch "Chân lý". Trước đó, tôi đã sơ bộ tìm hiểu cảnh quan, đường sá, địa hình của khu vực. Tôi cho rằng việc lấy tin tức cụ thể về những người lái xe sẽ chở hồ sơ lưu trữ của ngài Boóc-man, hoặc về hành trình dự tính, có thể sẽ làm cho cơ quan bảo vệ lưu ý cảnh giác.

Tôi định tiến hành chiến dịch một cách lặng lẽ, nhưng các sự kiện đêm qua đã không cho phép tôi thực hiện phương án đó. Sau khi người của tôi ăn mặc thường phục quay ngang một chiếc xe vận tải ở giữa đường, đoàn xe chở hồ sơ lưu trữ của ngài Boóc-man đã không dừng lại mà còn bắn như mưa vào chiếc xe vận tải và ba người của tôi. Không hỏi ba người ấy là ai, không kiểm tra giấy tờ, chiếc xe đầu tiên của đội bảo vệ hồ sơ lưu trữ của đảng Quốc xã đã lao thẳng vào chiếc xe vận tải của chúng tôi, làm cho nó đổ chổng kềnh xuống rãnh. Thế là đường đã thông. Năm người từ trên chiếc xe bảo vệ thứ nhất nhảy sang chiếc ôtô sau và đoàn xe tiếp tục lao đi. Tôi hiểu rằng, trong mỗi xe phải có ít nhất năm, sáu người được vũ trang bằng súng tiểu liên tự động. Sau đó tôi được biết rằng đấy không phải là binh lính hay sĩ quan, mà là các cán bộ của tổ chức Quốc xã ở địa phương đêm qua được điều động ngay trước khi di chuyến hồ sơ lưu trữ. Họ nhận lệnh riêng của ngài Boóc-man - bắn thẳng cánh tất cả những ai, bất kể chức vụ gì, đến gần đoàn xe trong khoảng hai mươi mét.

Tôi hiểu rằng cần phải thay đổi chiến thuật. Tôi ra lệnh chỏ một bộ phận của tôi tiến theo con đường song song đến chỗ giao nhau giữa đường cái và đường xe lửa: tên gác đường ở đây bị bắt và thay vào chỗ hắn là người của tôi. Người này có nhiệm vụ hạ ba-ri-e xuống chắn đường. Sau khi cắt đôi đoàn xe chở hồ sơ lưu trữ - để làm việc này, chúng tôi đành phải bắn đạn lửa vào chiếc ôtô thứ mười ba, tính từ chiếc đi đầu, - tôi và những người khác ở lại tại chỗ. Tiếc rằng chúng tôi phải dùng đến súng đạn: mỗi chiếc xe trong đoàn xe chở hồ sơ lưu trữ đều bắn đến viên đạn cuối cùng, mặc dù tôi đã đề nghị thương lượng. Mười ba chiếc xe đầu chạy đến chỗ đường giao nhau cùng lúc với tốp xe của chúng tôi nhưng ở đó đã có mười chiếc xe tăng của quân đoàn bộ binh thứ hai mươi bốn đứng chờ làm nhiệm vụ bảo vệ đoàn xe của ngài Boóc-man. Người của tôi đành phải rút lui, để nhỡ ra có ai bị giết trong lúc đôi bên bắn nhau. Những chiếc xe bị chúng tôi chặn lại đã được đốt cháy, còn tất cả các bao túi và hòm kẽm đều đã được chúng tôi chất lên các xe bọc thép ra đến sân bay đều được nhóm xung kích của tôi thủ tiêu.

Hai-ỉơ Hít-le!

Coóc-xê-nỉ của ngài".

༺༒༻

Nữ điệp viên của Sê-len-béc làm ở nhà A-len Đa-lét báo tin: có một linh mục - chưa biết rõ tên họ - đến gặp "ông chủ" được cô ta "đỡ đầu", và hai nhà thông thái ấy đã nói chuyện với nhau. Câu chuyện được ghi lại gần như nguyên văn dưới đây.

- Thế giới nguyền rủa của Hít-le, - Đa-lét vừa nhồi thuốc vào tẩu vừa nói, - không chỉ vì các lò thiêu xác Mai-đa-nếch và Au-sơ-vít. Sự xâm lược của Đức đã làm cho nước Nga phát triển với quy mô chưa từng thấy, dù rằng điều đó có vẻ hết sức trái ngược. Nó đã mở ra những khả năng tiềm tàng to lớn của chế độ Xô-viết. Trong lịch sử của mình, kể cả vào thời kỳ cải cách dân chủ tuyệt diệu đi nữa, nước Nga cũng chưa bao giờ nhảy vọt về phía trước như trong mấy năm chiến tranh này. Họ đã khai thác những sức mạnh ghê gớm ở vùng U-ran và Xi-biri - nhờ viện trợ của chúng tôi và máy móc, nguyên liệu chiến lược và tài liệu kỹ thuật. Sau khi nhận viện trợ kỹ thuật của chúng tôi, họ đã bỏ những cách rập khuôn bảo thủ của họ đi. Hít-le đã đẩy nước Nga và nước Mỹ đến chỗ ôm hôn nhau. Người Nga sẽ khôi phục đất nước bằng việc bồi thường chiến tranh của Đức - Xta-lin dự tính nhận của Đức hai mươi tỷ đô-la bù vào việc nền công nghiệp ở phía tây đất nước ông ta bị tàn phá, và bằng cách đó họ sẽ nhân đôi sức mạnh tiềm lực kinh tê của họ.

- Các bạn tôi ở Va-ti-căng, - vị linh mục nói, - cho rằng, trong mấy năm chiến tranh, người Nga đã học được sự linh hoạt trong hành động và tư duy.

- Ngài biết không, - Đa-lét vừa hút thuốc vừa nói, - hiện giờ tôi đang đọc lại các nhà văn Nga như Pu-sơ-kin, Xan-tư-cốp - Sê-đơ-rin, Đốt-xtôi-ép- xki... Tôi tự nguyền rủa mình là không biết tiếng của họ - nền văn học Nga có lẽ là nền vãn học kỳ lạ nhất: tôi muốn nói đến nền văn học thế kỷ thứ mười chín của họ. ở nửa sau thế kỷ thứ mười chín, các nhà văn ấy đã được phép nói lên mọi ý kiến của họ. cần phải nghiên cứu kỹ thời kỳ đó, bởi vì bấy giờ họ không chỉ nói về quá khứ, mà còn chủ yếu là nói đến tương lai... Tôi tự rút ra kết luận cho mình rằng bản tính của người Nga là thích ngoảnh lại các mẫu mực trong tương lai. Tôi nghĩ rằng thế nào họ cũng sẽ trông chờ vào giai cấp nông dân của nước Nga, vì họ say sưa với ý nghĩ rằng ruộng đất sẽ chữa khỏi mọi căn bệnh và hợp nhất tất cả mọi thứ. Nếu điều đó xảy ra, họ sẽ đi đến chỗ xung đột với thời đại, một sự xung đột không có lối thoát. Trình độ phát triển kỹ thuật sẽ không cho phép trông chờ vào ruộng đất...

- Cái đó thú vị đấy, - vị linh mục nói. - Nhưng tôi chỉ ngại rằng, trong khi lập luận, ngài đã đặt mình cao hơn họ, chứ không phải ở bên cạnh họ...

- Ngài kêu gọi tôi gia nhập hàng ngũ Đảng cộng sản Nga (b) chăng? - Đa-lét mỉm cười. - Họ không kết nạp tôi vào Đảng của họ đâu.

Vì mấy lời đầu tiên của Đa-lét mà Him-le không dám gửi lên Quốc trưởng bản báo cáo đó. Nhưng ngay ngày hôm ấy, hắn ra lệnh tăng cường công tác ở các binh đoàn của người dân tộc: Tuốc-kê-xtăng, U-cra-i-na, vùng ven biển Ban-tích. Hắn cũng yêu cầu chú ý đến những người tài năng và có học vấn hơn cả tại các binh đoàn ấy để có thể tuyển mộ họ vào làm việc ở cơ quan SĐ ngay lúc này, nhưng chủ yếu là để họ làm việc trong tương lai...

Ngày hôm sau, Can-ten-bơ-ru-ne gửi cho trung tướng Cờ-ruy-ghe, phó giám đốc Sở ghét-xta-pô ở Pra-ha: không chỉ lấy các nhân viên trong bộ máy ss và SĐ, mà còn tìm cả những kẻ tay sai đắc lực là người Tiệp cam tâm bán rẻ tổ quốc của họ nữa.

༺༒༻

Ở đồn biên phòng, Sơ-tiếc-lít giải quyết nhanh chóng tất cả mọi vấn đề: viên thượng uý chỉ huy đồn, một tay thợ săn chuyên nghiệp, hoá ra là một thanh niên dễ chịu, biết chiều lòng khách. Ban đầu, Sơ-tiếc-lít thậm chí ngạc nhiên về thái độ dễ dãi ấy - bọn lính biên phòng vốn nổi tiếng là những kẻ ngạo mạn, hệt như bọn sinh viên của thế kỷ trước. Nhưng rồi anh hiểu ra lý do của nó: dĩ nhiên, được sống ở vùng núi giáp giới với nước Thụy Sĩ trung lập, trong một thế giới đặc biệt của băng tuyết, xa hẳn các trận ném bom, cảnh tàn phá và đói khát, viên thượng uý chỉ huy khu vực này phải tìm cách lấy lòng những người do Trung ương phái xuống. Bởi thế, không một ai căn vặn Sơ-tiếc-lít về các chi tiết, chưa nói gì đến mục đích, của việc tổ chức cho một người vượt biên giới. Tất nhiên, nếu chúng có hỏi, anh cũng chẳng trả lời, song cách cư xử của bọn lính biên phòng, thái độ lấy lòng khách của chúng, khiến anh rút ra một kết luận quan trọng: hiện nay việc vượt biên không khó như trước nữa. Nếu anh cần đưa qua biên giới không phải một mình giám mục, mà mấy người liền một lúc, dù không được phép của cấp chỉ huy, thì anh cũng có thể làm được việc đó mà chẳng cần tốn công sức gì lắm.

Anh nghĩ, thật là lý tưởng, nếu từ đây gọi điện về Béc Lanh cho Sê-len-béc, đề nghị y chỉ thị cho một nhân viên tình báo đáng tin cậy nào đó đưa vị giám mục đến thẳng đồn này. Nhưng anh hiểu rằng mọi cú điện thoại gọi về Béc Lanh đều bị cơ quan của Muyn-lơ nghe trộm, và điều đó có nghĩa là đưa toàn bộ chiến dịch của Sê-len-béc ra hứng đòn. Một mặt, cái đó có lợi cho Sơ-tiếc-lít; nguyên tắc thông thường của anh là: bọn quốc xã đầu sỏ càng đâu đá nhau mạnh chừng nào thì càng tốt. Nhưng, mặt khác, thất bại của Sê-len-béc trong sứ mệnh mà y đặt lên vai vị giám mục phải trở thành con bài tẩy của chính anh, Sơ-tiếc-lít, khi anh báo cáo chuyện đó với Boóc-man: không phải báo cáo suông, mà là có đầy đủ dẫn chứng, ảnh chụp, băng ghi âm, địa chỉ, nơi gặp mặt và báo cáo của Sơ-lắc. Chỉ khi nào anh, Sơ-tiếc-lít này, đưa ra những bằng chứng có trọng lượng với Boóc-man, anh mới có thể bí mật phá vỡ những cuộc đàm phán thật sự, chứ không phải đàm phán giả, mà tướng Các-lơ Vôn-phơ phải tiến hành ở Thụy Sĩ.

Sau khi thoả thuận về vị trí mà anh sẽ dẫn vị giám mục vượt qua biên giới - đó là một hẻm núi có mọc nhiều cây lá kim còn non, - Sơ-tiếc-lít hỏi lại một lần nữa tên gọi của cái khách sạn nhỏ ở bên Thụy Sĩ mà anh có thể nhìn rõ từ đồn bên này. Anh đã biết tên người chủ khách sạn ấy là gì và phải chờ bao nhiêu lâu mới có chuyến tắc-xi từ thành phố chạy tới. Anh cũng hỏi để biết có khách sạn nào gần nhât ở vùng đồng bằng, - theo câu chuyện phù phép thì giám mục là một nhà trượt tuyết đi nghỉ ở vũng núi nhưng bị lạc đường. Ồng chủ khách sạn theo đề nghị của Sơ-lắc, sẽ phải gọi tắc-xi đến đưa vị giám mục xuống đồng bằng. Từ đấy sẽ có xe buýt chạy đến Béc-nơ và Du-rích là hai nơi có nhiều bạn bè của Sơ-lắc. Giám mục sẽ phải đi tìm họ mà không báo trước cho họ biết. Còn đối với những người quen biết thì Sơ-lắc có thể nói toàn bộ sự thật: Sơ-tiếc-lít đã xin trả lại tự do cho ông như thế nào, đã bố trí một tên phá hoại đến nhà ông ra sao, đã đích thân tổ chức cho ông vượt qua biên giới ở đâu. Giám mục sẽ phải nói rằng, người ấy, tức là Sơ-tiếc-lít, đang đợi ông gửi về một bức ảnh chụp cảnh bờ sông Lô-dan-na. Điều đó có nghĩa: những cuộc nói chuyện sơ bộ đã chấm dứt, liên lạc đã được chắp nôi, có thể đến gặp để nói chuyện nghiêm chỉnh. Ban đầu Sê-len-béc phản đối kế hoạch ấy của Sơ-tiếc-lít.

- Đơn giản quá, - y nói, - mọi chuyện quá dễ dàng.

- Ỏng ta không thể xử sự khác được, - Sơ-tiếc-lít đáp. - Đôi với ông ta, nói dối - đó là sự thật tuyệt đối. Nếu không, ông ta sẽ lẫn lộn lung tung và bọn cảnh sát sẽ theo dõi ông ta ngay.

... Sau khi chuẩn bị xong xuôi mọi chi tiết cho việc vượt biên giới, Sơ-tiếc-lít nói cho bọn lính biên phòng biết sự trừng phạt mà kẻ để lộ bí mật sẽ phải chịu. Anh dặn chúng là nếu có ai hỏi điều gì liên quan tới chiến dịch này, chúng chỉ được phép trả lời riêng cho ngài thống chế ss Him-le mà thôi. Anh cũng dặn là, trước khi từ Béc Lanh ra đi, anh sẽ gửi điện cho viên thượng uý với nội dung "Mẹ đau nặng. Có thuốc gửi về ngay. Han-xơ". Điều đó có nghĩa là phải bố trí một chiếc xe để sẵn chìa khoá và không có tài xế ở ngoài ga xe lửa. Điều đó cũng có nghĩa là, ở chỗ Sơ-tiếc-lít sẽ thực hiện công vụ, phải đặt sẵn một bộ dụng cụ trượt tuyết của Thụy Sĩ (không phải loại mới tinh, mà đã dùng rồi và được bôi trơn bằng loại mỡ N.4 của Thụy Sĩ), một đôi găng tay đan ở vùng đồng bằng Thụy Sĩ và một đôi bốt sản xuất ở Béc-nơ, cũng thuộc loại tàng tàng.

Sơ-tiếc-lít về đến nhà mình ở Ba-ben-xơ-béc vào lúc mười một giờ đêm. Anh mở cửa, định bật công tắc đèn, nhưng nghe thấy một giọng nói rất nhỏ và quen thuộc.

- Không nên bật đèn.

"Khôn-tốp, - Sơ-tiếc-lít đã nhận ra. - Sao hắn lại mò đến đây? Chắc là có chuyện gì xảy ra và hẳn phải là chuyện hệ trọng lắm...".

༺༒༻

Giáo sư Pờ-lây-sơ-ne thuê một phòng tại một khách sạn nhỏ ở Béc-nơ. Ông tắm rửa rồi xuống phòng ăn và xem tờ thực đơn hồi lâu, vẻ không hiểu. Ông đưa mắt từ chữ "kem sữa" sang giá tiền, từ món "cua" sang giá tiền, ông nghiên cứu tờ giấy tẩm xáp màu xanh ghi giá tiền các món ăn đó một lúc, rồi bất ngờ đối với chính mình, ông cười phá lên và nói:

- Hít-le - tên khốn nạn!

Trong phòng ăn chỉ có một mình ông, ở trong bếp, người đầu bếp đang làm gì đó khiến xoong chảo loảng xoảng, không khí sực mùi nóng và mùi bánh mì vừa nướng.

Pờ-lây-sơ-ne nói, lần này to hơn:

- Hít-le là đống cứt!

Chắc có người nghe thấy tiếng ông nói: một người hầu bàn má đỏ trẻ tuổi xuất hiện, nhẹ nhàng bước lại chỗ ông và tươi cười nói:

- Xin kính chào ngài...

- Hít-le là đồ chó! - Pờ-lây-sơ-ne kêu to. - Đồ chó! Đồ khốn nạn! Đồ súc vật!

Ông không thể nén mình được nữa - cơn loạn thần kinh khủng khiếp đã bắt đầu. Ông vừa cười vừa khóc, miệng nhắc đi nhắc lại!

- Đồ súc vật! Đồ khốn nạn! Đồ chó má!

Lúc đầu, người hầu bàn cố gượng cười vì cho đó là câu nói đùa của ông khách trong bộ y phúc giáo sư màu xám, nhưng sau thấy nước mắt ròng ròng trên má ông thì anh ta chạy vội vào bếp, chỗ người đầu bếp ló mặt ra:

- Gọi điện tới nhà thương chăng? - Người hầu bàn hỏi.

- Cậu điên à? - người đầu bếp nói, họ sẽ phái xe cấp cứu đến đây! Tất cả sẽ lập tức tung tin rằng có một người bị ngộ độc ở chỗ chúng ta.

....Một giờ sau, Pờ-lây-sơ-ne rời khách sạn và đến một nhà trọ tư nằm trên bờ hồ. Ông hiểu rằng không nên ở lại khách sạn sau cơn loạn thần kinh ngu ngốc kia, nhất là ở lại với hộ chiếu Thuy Điển giả mạo của ông.

Cơn loạn thần kinh lúc đầu làm ông sợ hãi. Ông đi trên đường phố, thỉnh thoảng cứ ngoảnh đầu nhìn lại: ông tưởng đâu có tiếng phanh kít vội sau lưng ông, bọn mật thám sẽ lặng lẽ khoá tay ông, ấn ông lên xe, chở tới hầm nào đó và đánh ông vì ông đã dám lăng nhục vị quốc trưởng vĩ đại. Nhưng ông vẫn đi trên phố, và chẳng ai để ý đến ông cả. Đến quán bán báo, ông mua một loại báo của Anh ; ngay ở trang đầu của những tờ báo đã đầy những tranh biếm hoạ đã kích Hít-le và Gơ-rinh. Ông khẽ cười và lập tức sợ rằng mình lại lên cơn loạn thần kinh.

- Trời ơi, - đột nhiên ông lên tiếng. - Chẳng lẽ tất cả đã lùi vào quá khứ rồi ư?

Ông theo đường phố vắng vẻ đi tới căn phòng bí mật theo địa chỉ mà Sơ-tiếc-lít trao cho ông. Ông ngoảnh lại mấy lần, rồi đột nhiên quay tròn trong một điệu van-xơ: điều này bất ngờ với chính ông (sau đó ông nhận xét rằng, trong ngày đầu tiên ông đã có nhiều kiểu xử sự lạ lùng). Ông lẩm bẩm hát khẽ một điệu van-xơ cổ và say sưa quay tròn, chân đập mũi giày theo mốt cũ và nhảy những bước giống như các diễn viên múa tạp hý hồi đầu thế kỷ mà ông còn nhớ...

Một người đàn ông đẫy đà, cao lớn mở cửa đón ông.

- Ôt-tô nhờ tôi nói rằng, tối hôm qua anh ấy chờ ông trả lời điện thoại, - vị giáo sư nói mật khẩu.

- Mời ông vào, - người đàn ông nói và Pờ-lây-sơ-ne bước vào trong phòng, mặc dù ông không có quyền làm như vậy khi chưa thấy người kia đáp lại: "Lạ quá, tối hôm qua tôi ở nhà, nhưng có thấy gì đâu. Chắc anh ấy nhầm số điện thoại rồi".

Không khí tự do làm say lòng người đã đùa cợt một cách tai hoạ với giáo sư Pờ-lây-sơ-ne: căn phòng bí mật của người chiến sĩ tình báo Liên Xô đã bị sa vào tay bọn phát-xít và bây giờ bọn chúng đang chờ "khách" ở đây. Vị khách đầu tiên hoá ra lại là người liên lạc của Sơ-tiếc-lít: giáo sư Pờ-lây-sơ-ne.

- Thế nào? - người đàn ông cao lớn hỏi giáo sư, khi hai bên đã vào hẳn bên trong. - Tình hình ở đằng ấy thì sao?•

- Đâý, - Pờ-lây-sơ-ne nói và chìa cho hắn một ống tí xíu mà ông ngậm trong miệng. - Trong này có nói hết mọi điều.

Cái đó đã cứu ông: bọn Đức không biết mật khẩu cũng như những người có thể tới đây liên lạc. Bởi vậy, chúng quyết định: nếu người liên lạc không bước vào phòng vì không nhận được câu trả lời đúng - thì phải bắt ngay, đánh thuốc mê rồi bí mật đưa về bên Đức. Còn nếu người liên lạc chỉ nói chuyện, thì sẽ bố trí theo dõi anh ta để lần ra đầu mối chính.

Gã đàn ông cao lớn kia đi sang phòng bên cạnh. Tại đó, hắn mở chiếc ống và trải ra bàn một tờ giấy cuốn thuốc lá. Từng cột năm chữ số hiện lên. Các ký hiệu ấy lúc này cũng đang nằm ở Trung tâm giải mã tại Béc Lanh. Cô hiệu thính viên người Nga nhận lời làm việc cho bọn Đức trước kia cũng đã dùng chính ký hiệu mật mã này để truyền báo cáo về Trung tâm.

Gã đàn ông cao lớn chìa tờ giấy cho tên giúp việc và nói:

- Gửi gấp cái này đến sứ quán ta. Nói với anh em ta tổ chức theo dõi thằng cha ấy cẩn thận. Tôi sẽ giữ chân hắn lại và cố gắng nói chuyện với hắn. Thằng cha này ngây ngô lắm, chắc hắn bị đối phương lợi dụng thôi. Tôi sẽ buộc hắn phải mở miệng...