← Quay lại trang sách

Chương 13 .

Lễ lộc của nhà Cộng thì cái nào cũng giống cái nào. Diễn văn khai mạc. Hoan hô. Báo cáo thành tích láo. Hoan hô. Cảm tưởng nịnh hót của đại biểu. Hoan hô. Huấn từ của Hồ chủ tịt. Hoan hô dữ dội. Hứa hẹn vượt kế hoạch nhà nước năm trăm phần trăm. Hoan hô kịch liệt. Hội nghị bế mạc thắng lợi hoàn toàn.

Cái "lễ mừng công" pháo kích Biên Hoà này cũng nằm trong công thức muôn năm đó. Không có gì hấp dẫn. Chỉ có một điểm tôi cần ghi lại đây là tôi không hiểu tại sao các tên nhà tu Hồ Huệ Bá, tên thầy chùa lỗ mũi trâu Thích Đôn Hậu và ông Phối sư một mắt Phạm Văn Ngởi bỏ Chúa, Phật, Đức Chí Tôn mà thờ thằng Dao Mác? Bỏ nhà thờ, bỏ chùa, bỏ thánh thất mà theo lũ quỷ đỏ? Chính hồi đó tôi thấy nhờm và tởm quá nhưng không dám nghĩ nhiều. Quả Hà Nội có tài bịp siêu đẳng. Còn đám văn sĩ bác sĩ kỹ sư như Lữ Phương, Thanh Nghị, Dương Quỳnh Hoa, Trương Như Tảng thì học lóm mác-xít được mấy trang mà mê muội vậy. Bây giờ (1991) sau hai mươi bảy năm (1964-1991) phụng thờ tên Râu Xồm đã ngã ngửa ra chưa? Nếu chưa thì xin phép sang Liên Xô xem cái mặt Stalin ở Kreimlin văng mất cáí lỗ mũi và sang Roumanie xem phim Bucharest dân treo cổ Lénine. Còn con mụ Qùynh Hoa, ngồi phải cọc giải... phóng có êm không mà cười tươi như mếu vậy. Ngài Tôn Thất Dương Kỵ (và ba ngài nữa) sau khi bị tống qua cầu Hiền Lương sống với xã hội chủ ngãi ra sao, sao không viết hồi ký cho đồng bào toàn quốc đọc chơi?

Thôi bỏ mẹ cái đám theo voi không được hít bả mía đó vô giỏ gà toi cho rảnh mắt. Bây giờ xin đi vào cái hậu trường của "lễ mừng công", nó dzui hơn cái bộ mặt tiền của nó nhiều.

Sau phần văn nghệ, các ông bà đại biểu cũng như đoàn anh hùng 69 chúng tôi và văn công giải phóng cuốn màn rút lui nhanh vì sợ B52. Ngồi dự lễ và xem văn công ai cũng phập phồng, mặc dù bốn phía có trạm gác xa trạm gác gần nhưng làm sao mà chui cho kịp với B52. Vả lại không có hầm hố gì hết. Quân ngũ nào mà đào hầm núp cho đủ một ngàn người?

Lúc nãy tôi đã để ý thấy một vai kịch đóng bà già có dáng quen quen. Tôi chen vô hội trường để tìm. Thì ra đó là anh Bảy Thiểu, một trong những người hướng dẫn Ban Rùm Beng của Trung đoàn 300 hồi 1947-1948 ở Rừng Sát - Lý Nhơn.

Anh Bảy hình như là anh của Tám Củi ở Văn Công Nam Bộ đang đóng tại Hà Nội. Anh suốt đời mê sân khấu. Những người cùng lứa tuổi với anh thời đó đã bỏ về thành hết rồi trong số có nhạc sĩ Văn Lương, nhưng anh vẫn còn mê cách mạng. Theo Văn Công anh chỉ đóng những vai phụ. Công việc chính của anh là dàn cảnh hóa trang và ánh sáng.

Bây giờ anh già sọm trông thê thảm quá! Lại có dắt theo thằng con trai mười hai tuổi để hụ hợ những vai kịch thiếu nhi giải phóng. Thấy tội nghiệp và biết anh cần súng nên tôi cởi cây P38 quàng ngang lưng anh: "Tặng anh đó, anh Bảy!"‘

Bảy Thiểu cảm động muốn khóc. Anh không ngờ tôi đã trở thành anh hùng được mọi người nhìn ngó, được các ông bà trí thức Sài gòn tấm tắc khen và được các em nữ sinh Sàigòn mới vô khu bu lại hỏi chuyện thiếu chút nữa thì bắt xác luôn. Bỗng tôi nghe tiếng eo éo từ góc hậu trường:

- Anh Hai, còn nhớ em không?

Tôi quay lại.

- Kim Chi trường Miền Nam nè!

- Vậy hả?

- Anh nhớ chị Ánh Tuyết chớ đâu có nhớ em làm chi!

- Hồi nãy em đóng vai gái bán bar chớ gì! Anh nhận ra ngay mà!

- Vậy mà hổng tìm người ta!

- Hồi anh xuống Hải Phòng đến trường 6 trường 8 hoài chớ sao không tìm!

- Người ta ở trường 4 mà!

- À vậy hả?

Thấy cườm tay cô bé tròn trỉn lại đeo đồng hồ thớt cối đá của Liên xô, tội nghiệp, tôi nói ngay.

- Cổi liệng đi, anh cho cái Wyler nè! Còn bắt lỗi hết?

- Rồi anh lấy gì đeo?

- Anh không cần.

Tôi cởi chiếc đồng hồ trên cườm tay sốt rét hơi vàng nhưng còn mềm mại của Kim Chi. Tôi ném cái đồng hồ xuống góc sân khấu rồi cởi đồng hồ của tôi đeo cho nàng.

- Đừng trách anh nữa nghe... cưng!

Kim Chi ôm choàng lấy tôi hôn một phát nóng ran trên mặt giữa sự ngạc nhiên của mọi đào kép giải phóng.

- Chừng nào về Rạch Giá?

- Chừng nào anh về, em về chớ biết chừng nào mà hỏi?

- Chồng con ra sao?

- Thì cũng vân vân... chịp... thôi, anh đừng hỏi. Còn anh có gặp chị Ánh Tuyết không?

- Cô ấy đi học gì bên Trung Quốc! Anh có gặp ở Hà Nội.

- Chừng nào ăn trầu cau cho em hay nghe!

Bỗng có tiếng gọi từ bên ngoài.

- Lôi ơi, ra đây có người gặp.

Thì ra ông Hai Nhơn, ông thầy văn hóa, thầy âm nhạc, thầy đời của tôi từ xưa cùng tuổi với anh Bảy Thiểu. Anh có Tú Tài trước 45, đi theo kháng chiến mút mùa, làm chánh văn phòng Tiểu đoàn Lý Chính Thắng của Ba Thắng. Tập kết ra Bắc không ngóc đầu lên nổi. Đã bảo mà, trí thức cỡ Phạm Ngọc Thuần, Phạm Văn Bạch còn nhẹp xác, Hai Nhơn ăn thua chi. Đã là trí thức lại có made in Nam Kỳ Quốc nữa thì bỏ mạng sa tràng như không. Hai Nhơn mới đóng lon Thiếu úy, dưới thằng học trò cứng đầu này những hai cấp! Anh bảo:

- Anh Ba Thạnh kêu mày vô trỏng ngủ với ổng?

- Trong nào?

- Ở đây là địa điểm làm lễ, xong rồi ai về cơ quan nấy. Chánh trị về Cục Chánh trị, Tham Mưu về Cục Tham Mưu còn ổng về trong Bộ Chỉ huy. Thôi đi theo tao mau lên để đèn điện tắt không thấy đường mò.

Tôi tạt ngang nhà quảy ba-lô và cho Ba Hải hay rồi đi với Hai Nhơn. Tôi hỏi.

- Anh về hồi nào?

- Hồi nào cũng được, hỏi làm mẹ gì, người sau kẻ trước lao vào giặc sốt rét. Ký ninh mỗi sáng nuốt hai viên thôi.

- Anh ở trong với mấy ông kẹ à?

- Tao dạy văn hóa cho mấy chả!

- Anh ốm yếu vậy, đi có nằm đường không?

- Nhờ tao biết thân nên đem theo một bọc Salicylate nếu không thì nằm lại bón gốc sắn ở khu 6 rồi. Còn mày, nhờ đi máy bay hay tàu lặn mà vô đây coi còn khớ tụi con gái bu dữ vậy?

- Đi tàu bò và tàu... lết. Sách đâu mà anh dạy?

- Sách trong bụng chớ đâu. Các ông nội có ông nào học hết lớp 5 đâu mà cần sách..

Đèn điện bỗng nhiên phụt tắt. Máy nổ ngưng chạy. Rừng trở lại im văng, cái im vắng rợn người. Hai Nhơn lấy diêm quẹt bật lửa đốt cái đèn chai xách tay tự nãy giờ rồi đi tiếp. Tôi hỏi:

- Nhưng ông nào bị ông giáo Nhơn khõ đầu?

- Nguyễn Hồng Lâm là Rừng đỏ Hai Bứa, cục phó Cục Tham Mưu. Nguyễn Chí Sinh mũi to như cái ống cống vừa đánh Nậm Thà bên Lào cũng vừa vô đây. Ba Thạnh bây giờ đổi tên là Ba Thắng dân cu-li hãng xăng Nhà Bè của mày, toàn là dân khu 7 cũ. Thiếu Tám Nghệ. Nghệ bây giờ đổi là Tám Ngã bị cho đi làm kinh tài kiếm "rịa" Miên. Nghe nói Trần Thắng Minh chủ tịch nông trường Lam Sơn Thanh Hóa cũng vô rồi làm Tổng Cục Giao Bưu.

- Đúng! Tôi có gặp ông ở giữa đường.

- Còn mấy ông Độ, ông Tấn, ông Trà, ông Nam không biết chữ nghĩa ra sao nhưng không chịu học. À mà Đồng Văn Chuột cũng mới được vô đây lãnh chức Phó Tư lệnh số 7. Bên cạnh đó còn có bà chỉ huy trưởng đội quân đầu tóc Bến Tre cũng lên làm Phó Tư lệnh (số 8) tức là dưới cùng của Bộ chỉ huy. Bả cũng chẳng học hành gì.

Nghe giọng nói cà rỡn của Hai Nhơn, tôi biết anh bất mãn cao độ. Tôi hỏi:

- Sáu Nam là ai mà nghe lạ hoắc vậy?

- Lê Đức Anh, lão cao nghệu mặt rỗ lấy bà đoàn trưởng Thủ Dầu Một đẻ con gái đầu lòng năm kí lô mày quên rồi à?

- Ai chớ lão đó tôi quên sao được. Tay đó chuyên môn ăn chè đậu đường cát mỗi bữa trưa. Lần nào tôi đem bản mật mã qua cho lão cũng gặp lão húp chè rả rít.

- Ừ, hảo ngọt một cây, tiếng tăm còn rền hơn cả chức Tham mưu trưởng.

- Lão làm gì?

- Cũng lại tha mu... trưởng. Hồi nãy tôi thấy cậu ngồi trước ông Sáu Vi ổng quèo cậu nói chuyện gì hung vậy?

- Ối! ổng hỏi đủ thứ từ cơm gạo đến vệ binh vệ biếc. Cuối cùng khuyên tôi lập công dâng đảng.

- Mày vô trỏng mà coi. Một cái triều đình không mũ mão được thiết lập ở giữa rừng hoang mà vua chúa đều là dân Bệ Ka. Đi đâu cũng không thoát! Địt mẹ! Tao về được nhà tao nghỉ luôn. Đéo có đi nữa! - (Anh biết tôi là thằng học trò chân thành không đời nào đi báo cáo kiếm điểm. Vả lại cơn bất mãn đã lên quá cao, phải xì hơi ra mồm) - Từ Thượng tá trở lên thì ăn riêng ngủ riêng có bếp riêng, cơm nước được cần vụ bưng tới miệng. Trung tá ở nhà riêng nhưng hai tên một cái chia làm hai phòng cũng cơm bưng nước rót. Từ Trung tá trở xuống thì phải đi vác gạo, bửa củi. Còn từ Thiếu úy xuống binh nhì thì ăn cơm với lạc rang bí rợ hầm. Tao chán thấy mẹ rồi. Muốn xin đi công tác xuống các tỉnh mà họ không cho đi.

- Ông Bốn Sao vô, không khá hơn chút nào sao?

- Khá gì mà khá. Cũng cái lối huyện binh huyện phủ binh phủ thôi. Ổng còn siết cửa ngỏ chặt hơn trước. Tức là cơ quan này không được qua cơ quan kia. Không được gặp nhau nói chuyện khách quan tư sản.

- Ông Ba Thắng làm gì trong đó?

- Sơ khởi thì làm đầu, ít lâu thì tuột xuống làm mình, khi thành công thì làm đuôi. Đó là qui luật biện chứng ngáp của dân Nam Kỳ nhà mình. Để rồi mày xem nay mai mà cuộc chiến tranh này kết thúc thất bại hay thắng lợi thì lon gáo cũng tụi cá rô cây rau muống luộc nẩng hết thôi, chớ dân dưa hấu chẳng được xơ múi gì. Tới bây giờ có tên nào lên được Tướng đâu. Mấy tên có học thức như Huỳnh Văn Nghệ thì lại dìm xuống tận đất đen cho làm Trưởng phòng thể thao thể dục Quân đội trong lúc đó cùng calíp với y thì đứa trung tướng đứa thiếu tướng, như tên Chè, trung tướng Thứ trưởng Quốc phòng kiêm luôn cả Hiệu trưởng trường Lục quân. Hắn biết quân sự bao nhiêu mà dạy người ta chứ? Đấy mày coi, trong đám đầu nậu này có tên nào Nam Kỳ đâu. Toàn những phó cối phó nháy phó may cho dân mình, còn trên ngai vàng thì vẫn chễm chệ một tên cá rô cây.

Trên đường đi có rất đông người, đi một lúc thì họ rẽ về cơ quan nên thưa bớt; còn tôi và Hai Nhơn đi thẳng một mạch theo con đường lớn. Trước mặt chúng tôi có tiếng cười nói hí hửng của một đám con gái. Tôi níu Hai Nhơn đi sụt lại sau vì sợ chúng nó nghe cái giọng bất mãn của anh.

Hai Nhơn cứ thao thao như không sợ ai:

- Tao biết vầy thì tao đâu có đi tập kết. Ở nhà bây giờ có khi còn được trọng vọng hơn.

- Anh nói sao?

- Bạn bè của tao làm Bộ trưởng, Giám đốc Kỷ sư cả. Có thằng làm tới Trung tướng. Trong đám trí thức Sài gòn, vô đó, có thằng bạn "ca-ma-lố" của tao ở Taberd, nhưng tao đâu có dám nhìn. Tao được danh dự bưng nước cho quan khách giải khát mà? Lộ cái mặt ra thì bể cách mạng quá làm sao! Hóa ra thằng trí thức đi theo đảng hai mươi năm được đảng phong cho chức bồi bàn. Do đó tao lánh mặt.

- Anh chưa vô đảng à?

- Còn lâu! Đâu có ai nhắc tới thằng giáo viên quèn này mậy!

Đi được một khúc tôi nghe mùi khét lẹt. Đường mòn ôm quanh một hố bom nhỡ. Tôi hỏi:

- Gì nghe giống mùi bom napalm quá vậy anh Hai?

- Thì đó chớ gì! Napalm lẫn bom miễng.

- Lộ rồi à?

- Không biết! Nhưng tháng rồi nó lia cho mấy loạt rồi bay luôn. Không biết thằng phi công say rượu làm bừa hay nó thấy đèn đóm khói khiếc gì mà ném như vậy?

Bỗng nhiên tôi hỏi:

- Anh còn nhớ hai anh gì ở Ban Rùm Beng của mình hồi trước không anh Hai?

- Hai đứa nào?

- Hai anh hay cãi nhau về Mác Xít bằng tiếng Lang Sa đó. Một anh bảo là vật chất có trước, tinh thần có sau. Anh kia bảo vật chất có sau, tinh thần có trước.

- À thằng Chín Thỉ và thằng anh em cột chèo của nó..

- Họ đâu cả rồi?

- Sau khi thằng U Đa xuống miền Tây dưỡng bịnh, hai đứa về thành cùng với nhạc sĩ Văn Lương. Cái thằng bảo vật chất có trước nằm trong đám trí thức Sàigòn tao kể lúc nãy. Tao không cho nó gặp mặt là thế đó.

Đi một chập thấy một toán vệ binh mang súng ống lình khình đi ngược chiều. Hai Nhơn bảo:

- Tụi nó đi săn.

- Ở đây cũng được săn thú à?

- Không! Đây là đội săn chuyên môn. Chúng săn đường dài. Có khi đi một chuyến hai ba tuần. Săn được thịt xẻ ra, muối, phơi ép rồi mang về đây. Chớ ở vùng này mà nghe nổ một phát súng là tụi "cấm vệ quân" nó truy lùng cho kỳ ra manh mối.

- Cấm vệ quân à?

- Bây giờ không phải cục muối chia làm hai như thời kháng chiến chín năm ở Rừng Sát nữa đâu mày ơi? Hồi đó cực khổ mà vui. Cả chỉ huy lẫn lính ăn chung ngủ chung. Một nồi cháo loãng nấu với một lít gạo, một ôm rau sam xăng quần lội qua mà húp ngọt như đường phèn. Còn bây giờ chỉ huy không bao giờ thấy mặt lính. Giống in như dinh toàn quyền vậy mày ơi! Không có Ba Thạnh kêu tới Tết âm lịch Công Gô mày mới vô được tới đây. Tao sở dĩ được ở trong hoàng cung là vì làm chức quân sư quạt mo, gõ đầu mấy tên già học chưa hết ê-lê-măng-te chớ chẳng phải họ quý gì tao. Thịt rừng đem về cung cấp cho các bà hoàng ông hoàng ở trong cung cấm đó.

- Ông hoàng thì phải rồi, còn bà hoàng nào? Chẳng lẽ bà Hoàng Lào? Anh biết bà Hoàng đó không?

Hai Nhơn cười hề hề:

- Mày cũng biết vụ bà hoàng đó lẹo tẹo với ông Tướng Râu Quặp nhà mình ở Hà Nội nữa à?

- Thằng nhóc con này chuyện gì mà không biết anh Hai! Anh biết tại sao tôi rõ vậy không? Là vì tôi suýt làm rể của ổng mà. Nhà ổng ớ đường Quan Thánh chỗ tờ báo Việt Hoa chớ đâu. Tôi vô đó hoài thôi. Mấy lúc sau này, trước khi đi B, tôi đến dẫn đám em vợ hụt của tôi đi ăn quán luôn. Chả là tôi được lãnh ráp-pen ba tháng một lúc mà. Do đó tôi rành hết. Bà Hoàng chưa đến năm mươi mà! Bả ăn toàn thịt bò, thịt cừu Mông Cổ và uống sâm Triều Tiên nên chịu sao thấu. Mà ông Hoàng thì bận công tác ở cánh đồng Chum bên xứ Vạn Tượng. Hì hì!!! Ở bên đó thì quá nhiều Chum nên ổng không ngó ngàng gì tới cái Chum bỏ quên bên Hà Nội. Do đó ông râu quặp nhà mình săn sóc giùm cái Chum của ổng bên này.

- Có lính gác, ổng làm sao oánh du kích được tài vậy?

- Bà Hoàng vác Chum tới chớ. Ông Râu quặp nhà mình phụ trách Ban liên lạc Việt Miên Lèo của Trung ương mà. Bả đi vô dinh của ông với tư cách đảng viên Neo Lào Hắc Xạc chớ phải là thường dân Lào đâu mà sợ người ta dòm ngó? Mà dòm thì dòm, ngó thì ngó, bả có ông râu quặp bảo kê tú-rít, lính nào dám hó hé? Chỉ có vợ ông râu quặp biết thôi. Bà vợ rất bất bình. Vì hai lý do. Lý do thứ nhất là bả không còn làm chức năng người vợ trong gia đình nữa mà là con ở nấu cơm cho ông tướng. Lý do thứ hai là... vậy đó.

- Mày không có phịa chứ?

- Tôi phịa với anh mà té vàng té bạc gì anh Hai. Chính tôi cũng bất bình dùm bả nữa mà! Bả không ăn khẩu phần của ổng. Ông bà ăn riêng mâm mà. Bả được trả lương bốn mươi lăm đồng một tháng.

- Lương gì?

- Lương chị nuôi, lương nấu bếp cho ông Tướng mà ông Tướng đó là chồng của chị bếp.

- Kỳ cục vậy?

- Kỳ cục nhưng tôi biết đó là sự thực. Chính vì thế mà mỗi tối thứ bảy tôi phải đến kèm văn hoá cho bả để bả đủ tiêu chuẩn xin dạy ở trường Miền Nam Hải Phòng.

- Tao biết lắm chuyện đời nhưng chưa bao giờ tao nghe một chuyện như vậy.

- Chưa hết đâu anh Hai ơi! Trong khu nhà Việt Miên Lèo ở đường Quan Thánh còn có lắm chuyện ma quái nữa cơ. Anh biết cái tên Thổ lai Sóc Trăng tên là Sơn Ngọc Minh không?

- Nhớ chớ. Hồi kháng chiến nghe đài mình tuyên truyền rùm beng mà.

- Hồi năm 1951 mình mở chiến dịch Xẻo Me ở Miền Tây đánh vô vùng Miên ở huyện Thạnh Trị để gây thanh thế cho Sơn Ngọc Minh nhưng trung đoàn Tây Đô của ông Huỳnh Thủ bị banh trê chết bỏ xác trong các sóc Miên lấy không được. Hình Sơn Ngọc Minh được in ngang với hình Hồ Chi Minh trên những tấm truyền đơn bươm bướm rải cho Thổ xem. Nhưng tụi Thổ Sóc Trăng biết ngay tên Thổ Sóc Trăng nên nó đâu có nhận là vua của nó.

- Rồi sao?

- Hắn được nuôi như cu cu ở trong một cái biệt thự ở bên cạnh biệt thự bà Hoàng Lèo. Vợ Sơn Ngọc Minh một hôm hô hoảng lên mất chiếc nhẫn hột xoàn và đề quyết con nhỏ ở lấy. Con nhỏ tức mình treo cổ ngay trong dinh. Sơn Ngọc Minh sợ ma bắt bèn xin dời. Hình như xuống Hàng Chuối thì phải.

- Còn bà Hoàng Chum?

- Bà Chum vẫn còn ở đó thỉnh thoảng lại vác chum tới cho ông Tướng quặp thành phần đại địa chủ đóng tô. Hè hè... Đây là chuyện bí mật trong cung cấm tôi nói cho anh nghe chơi rửa cái lỗ tai, đừng thuật lại với ai nghe!...Nè, một thằng bạn bác sĩ của tôi làm ở Bệnh viện 108 nói rằng nó đã từng khám bệnh thấy nhiều chum hũ dữ lắm, nhưng nó chưa hề thấy cái nào đẹp bằng cái của bà hoàng Lèo.

- Bộ có sơn phết vàng hả? Hố hố...ố!

Thấy phía trước mặt có ánh đèn dừng lại và có tiếng cãi cọ Hai Nhơn bảo:

- Cửa ngọ môn ở trước đó!

Chúng tôi đến thì thấy toàn một bầy tiên nữ xiêm y láng mướt, màu sắc lòe loẹt. Tôi nhận ra đây là các cô phục vụ lúc nãy. Các cô bị chận lại trước một cái cổng gỗ hẹp, hai bên có rào tre tua tủa như rừng chông. Anh lính mặc ka-ki vàng súng AK hẳn hoi đứng trong chòi gác giống như ở trạm cửa Đông của Bắc Bộ Tổng Hà Nội.

- Cô nào không có giấy ra vào thì ở lại đây.

- Chỉ có chị Thanh Tuyền là con bác Sáu Nam không có thôi!

- Tôi không biết con ai cả. Lệnh là lệnh!

- Anh cho mượn phôn gọi vô ba em được không?

- Phôn để công tác không phải để dùng vào việc cá nhân.

Hai Nhơn bảo:

- Mấy cô về trước báo cho tía nó dùm chút.

Các cô đi qua mũi súng AK. Hai Nhơn bước tới chìa giấy và nói:

- Đồng chí này là anh hùng pháo binh, ông Ba Thắng kêu vô làm việc.

Anh lính rụt chân chào nghiêm rồi nói:

- Tôi có được lệnh lúc nãy.

Thế là tôi và Hai Nhơn đi qua. Được một quảng, Hai Nhơn quay lại như để chắc bụng rằng mình đã đi xa có nói gì tên lính gác cũng không nghe, rồi bảo tôi:

- Mày thấy tao nói có đúng không? Cả một hoàng cung ở trong này. Hổng chừng còn nhiều chuyện ly kỳ hơn chuyện bà hoàng Chum ở khu Việt Miên Lèo của mày ở ngoài đó.

- Ở trong này có đàn bà con gái nữa à?

- Thì con gái đó, mày không thấy sao? Tụi nó là dân học sinh ở ngoài thành. Con ốm ốm là con Trúc Mai, con tóc kẹp là con Hồng con hiếc gì đó tao không nhớ tên. Chỉ biết mỗi đứa đánh máy riêng cho một ông. Ở trỏng còn đông lắm. Có cả bầy tiên cô có thể lập một đội bóng chuyền.

- Rồi đánh với ai?

- Đánh với đội già dềnh chú bác!

- Ai thắng ai?

- Mấy cháu thắng chớ đám đầu bạc làm một quả là hắc hơi bể trời thắng sao nổi mà thắng! Nhiều chuyện vui lắm. Mày không ở trong này mày không biết đâu. Hì hì, mày mà lọt được vô sân bóng thì tha hồ mày "đập" và "bỏ nhỏ"!

- Mà sao đám đó được vô trong này vậy anh?

- Đó là con cháu mấy ông kẹ hoặc ở bên Mặt trận, hoặc bạn bè cũ của mấy thằng "trí ngủ" làm việc ở Sài gòn mà lại đón gió Cách mạng nên gởi con cháu vô trước để xí phần về sau. Khôn vậy đó! Nhưng chưa chắc! Gởi trứng cho ác mà không hay!

-Tại sao?

- Để rồi mày sẽ hay, bây giờ không nên nói sớm. Mày có con mắt tinh đời mày nhìn đó cũng biết lựa là tao phải nói. Tao hỏi mày, gà trống gà mái nhốt lộn lạo một chuồng như vậy được không? Ba Thắng là Cục phó Tu Hú, được cấp một cái nhà riêng, có phòng ngủ, phòng làm việc và phòng tiếp khách. Ăn uống theo chế độ tiểu táo, có bếp riêng có người nấu bếp riêng mày ơi! - Hai Nhơn thở dài - Đi làm cách mạng vậy cũng nên đi chớ mày! Ngày trước y làm cu-li ở hãng Shell Nhà Bè bị chủ đá đít cú đầu, bây giờ đi theo cách mạng lên địa vị chỉ huy không ai dám đá đít cú đầu, còn tao ham vui lót tót đi theo, cầm đèn đỏ trên con tàu cách mạng, từ trí thức tuột xuống cu-li. Gần hai mươi năm không biết vợ con mồ mả ông bà. Kể ra theo cách mạng cũng sung sướng lắm!

Tôi muốn nói lãng, để xóa bớt giọng bất mãn của Hai Nhơn nên bắt chuyện khác:

- Ông Ba Thắng về rồi có móc vợ con lên không anh?

- Chị Ba là người hiền thục. Ảnh đi chiến đấu, chỉ ở nhà tăng gia sản xuất. Hồi kháng chiến có lúc ảnh đau ruột dư về nằm lén trong vùng Pháp chiếm đóng để mổ, chỉ lên nuôi cả tháng. Sau đó lại theo ảnh, làm công tác nuôi heo tự túc cho đơn vị.

Hai Nhơn nói:

- Tao không nghe vụ móc vợ con của y. Bả bây giờ tóc cũng bạc hết rồi. Móc lên làm gì. Thằng chả ở đây có người cơm bưng nước rót, móc lên coi đâu có hạp!

- "Tào khang chi thê bất khả hạ đường" mà anh!

Hai Nhơn cười khảy:

-Tào cái con mẻ! Tào lao thì có. Mày nên nhớ điều này. Tao đã quan sát gần hai mươi năm rồi. Những thằng luôn luôn lải nhải dạy đạo đức cho người khác toàn là những thằng thất đức. Tao nói vậy có vẻ quơ đưa cả nắm nhưng không sai bao nhiêu. Thằng già nào cũng muốn gái mười tám. Thằng Bắc Kỳ nào vô Nam cũng đã có vợ rồi nhưng còn quơ thêm một bà nữa. Có đúng không? Bây giờ cũng vậy. Tao không nói đâu xa, ở ngay cái ổ điểm đực mà người ta thường gọi là Bộ Chỉ huy tối cao Quân Giải phóng này này, ít ra cũng ba bốn tên sống theo kiểu đó. Nếu không thì cũng ăn vụng công khai không cần chùi mép. Trước nhất là thằng cha Thủ trưởng của mày. Hắn ở ngoài Sơn Tây đã làm một tên ma cô mang tiếng khắp cả thị xã phải không? Tao dạy văn hóa cho F338 tao còn lạ gì.

- Vụ đó tụi này giàn xếp êm cả rồi anh ạ!

- Êm theo kiểu chìm xuồng chớ gì? Kế đó là thằng mặt rổ Sáu Nam.

- Là ai?

- Là thằng Lê Đức..Anh cục trưởng Cục Tham mưu. Anh chàng này có vợ ở Thủ Dầu Một hồi 46 phải không? Nó ra Bắc làm một vố bị báo Nhân Dân cảnh cáo.

- Vụ gì?

- Nó quơ cả một con nữ sinh Trưng Vương.

- Tôi nhớ là lão Võ Quang Anh Tư lệnh khu 9 chớ không phải lão ta!

- Tao biết chắc mà! Nếu không có vụ lùm xùm đó thì tại sao khi nó về trong này, vợ nó ở ngoài thành vô giao con rồi về luôn không nói một câu gì sau gần mười năm xa cách? Con nhỏ hồi nãy bị vệ binh giữ lại là con bé hồi sanh ra nặng năm kí lô đó.

Tôi giật mình đánh thót.

- Ủa vậy sao?

- Con bé ở chung với cha nhưng đâu có gọi bằng ba. Nó gọi là ông Sáu như tụi con gái khác. Đã có lần nó bảo thẳng với ba nó là hồi ở ngoài thành nó được má dạy dỗ theo gương ba nó nọ kia...Nhưng đến lúc ba nó lòi đuôi chồn nó ức quá, nó bảo: "Người cộng sản gì tồi vậy!". Lão nổi doá tát cho nó một cái. Nó la lên đòi về thành. Lão phải năn nỉ nó cả tháng nó vẫn chưa nguôi đó.

- Vậy làm sao ổng yên tâm mà chỉ huy ai được?

- Còn một tên Bắc Kỳ xuất chúng nữa cơ. Mày mới về chưa có hay đâu. Mày còn nhớ tên Sơn Tiêu, Trung đoàn trưởng trung đoàn pháo F330 không?

- Ông ta lấy một bà đan len ở Hà Nội. Ra ra vào vào mùi mẫn liên tục. Suýt rớt lon rớt gáo vì con mẹ đó chớ gì?

- Mày biết một mà không biết hai! Đó là con mẹ tư sản goá chồng. Cái kiểu ông Ba Lắm Bình Xuyên mày biết không?

- Dạ không!

- Để tao nói cho mày nghe! Những chuyện này tao không bao giờ quên. Ba Lắm là tướng Bình Xuyên đi theo kháng chiến suốt chín năm, đánh cả trăm trận, lên đến Tiểu đoàn phó. Ra Bắc bị chuyển ngành vì ông ta lấy một bà tư sản goá chồng. Đó! Cả hai người đều bị tư sản hớp hồn nhưng thằng Bắc Kỳ thì chẳng có bị kỷ luật kỷ liếc gì trái lại còn được thăng cấp, còn thằng Nam Kỳ thì bị tổ chức qui là mất lập trưòng và cho ra rìa. Ba Lắm lên Lạng Sơn đốn nứa rồi về Bến Phà Đen thuê xe bò chở cây để sinh sống. Tao tìm đến nhà thăm chơi, ổng khóc ròng. Ổng nói:" Đéo mẹ! Ủy viên Trung ương mà lấy địa chủ có thằng nào dám phê bình, có chăng thì cũng cho là khuyết điểm về sinh hoạt, chẳng có gì đáng kể." Mày thử xem có ông Trung ương nào lấy vợ bần cố nông hoặc thợ dệt thợ may không? Còn nếu lính Nam Kỳ mà quơ tư sản địa chủ thì lý lịch bị ghi mất lập trường. Thằng Sơn Tiêu về trong Nam không dám gặp vợ. Vậy mới ngộ chớ!

Tôi chưa kịp nói gì thì Hai Nhơn ngồi xuống, sửa ngọn đèn cho sáng lên rồi vừa đi tiếp vừa kể:

- Mày biết bà Mặn, Bành Xê Cu Đê Rừng Sát hồi chín năm chớ?

- Biết mạnh. Bả là con ông chủ tịch xã Long Thạnh chớ gì?

- Bả ở lại tranh đấu rất dữ dằn. Lãnh đạo đội quân đầu tóc dám lăn ra đường chặn xe thiết giáp đủ thứ. Ở tù hai năm bị tra tấn không khai. Cán bộ tố Cộng của Ngô Đình Diệm bắt ký tờ ly dị bả cầm bút đâm vô mặt tên cán bộ.

- Ghê vậy.

- Ê dân Nam Kỳ mà mậy! Mày nhớ hồi 46 có thằng bé tẩm dầu xăng đến cháy kho xăng Nhà Bè không? Rồi ba thằng nhóc leo lên lầu nước Thị Nghè treo cờ Việt Minh. Chơi tới gáo mà! Đó là bản chất dân Nam Cờ mình. Nhưng khi đã không khoái nữa thì quay 180 độ ngay. Như bà Mặn này vậy. Bả lên tới chức thưòng vụ khu ủy nghe mậy. Bả có thể sánh với bà Ba Định, sợ còn cao hơn nữa đó. Vì bà Định không có ở tù. Khi nghe tên Sơn Tiêu có vợ ngoài Bắc và sắp về, bả lên nằm ở đường dây chận ngang chờ gặp hỏi cho ra nguồn cơn. Mấy tay bồ bịch của hắn cho hắn hay, hắn vừa về tới trạm 66 là ở trên R cho đi thẳng xuống I/4 nhận công tác, không cho ông bà đối diện. Bả bây giờ nằm trong Bộ Chỉ Huy. Các chả đang tìm cách vuốt giận con sư tử cái nhưng bà ta nhất định đòi gặp mặt.

- Cái bà dân Rừng Sát này dữ quá!

- Không phải tại bả!

- Còn ông nào nữa tố luôn nghe chơi!

- Tao phải viết một cuốn sách mới hết. Còn thằng anh nuôi Ba Thắng của mày nữa!

Tôi sửng sốt:

- Ổng về đây chưa lâu mà đã lập thành tích rồi sao?

- Sắp sửa! Nay mai chắc chắn sẽ rơi hầm chông.

- Có mầm mống gì rồi à?

- Nhìn dĩ vãng biết hiện tại, khó gì! Mày nhớ hồi hắn học chính trị ở Hà Nội chớ!

- Nhớ rồi, chậc! Ổng cũng quá tệ đi, anh Hai!

- Ừ, tệ và tồi. Ai đời lấy vợ của thằng Đại đội trưởng dưới quyền mình. Đó là tệ. Rồi khoác áo anh nuôi của vợ nó để làm cho con nhỏ có bầu. Đó là tồi. Thằng Đại đội trưởng biết chắc không phải con mình nhưng ngậm miệng để được yên thân, để khỏi bị thiên hạ chê cười và để cho ông xếp mình lòn tiền về nuôi đứa bé. Thế nhưng sau đó ông ta vẫn được thăng cấp và cho về Nam làm Cục trưởng Cục Chính Trị quân Giải phóng. Mày ngửi có được không? Tao được y lên lớp về Cần Kiệm Liêm Chánh ít nhất là tám chục lần mày ạ!

- Anh vẫn học thuộc bài chớ!

Hai Nhơn tuôn một câu tiếng Pháp:

- Làm theo tao nói đừng làm như tao. Tao không làm theo y đã đành nhưng tao cũng đếch nghe y. Vợ y già xọm, xấu xí y đâu thèm nhìn. Y đâu còn nhớ hồi xưa ai đã nuôi y đánh giặc, ai đã nuôi heo tự túc cho đơn vị y. Đó lại là một kiểu thằng cộng sản khác mà mày sẽ gặp và sẽ nghe nói nói nào là lập trường nào là lập công chốc nữa đây.

- Anh có gặp Bùi Thanh Khiết không?

- Về rồi, nhưng đi chỉnh huấn dưới trường Trung Sơ Bộ Binh. Hắn là thầy giáo làng, có chút ít trí óc nên ăn vụng quẹt mép rất tài. Mày biết hắn ra vô cư xá của bà Phụng má con Hải ở Ô Cầu Giấy mà! Từ Liên Xô về y cho con mẻ một cái xe gắn máy rồi vù vô Nam. Vợ y đang ở ngoài trại sản xuất. Hai đứa con gái sắp đưa ra Hà Nội để đi Liên Xô. Vợ y ở Sàigòn thầu cà-phê chín năm là mẹ cả tư sản nhưng lập trường của y vẫn tồng ngồng ra, đã không sứt mẽ tí nào mà y còn vác nó đi chấn chỉnh lập trường người khác. Mày coi có "lọa" không kia chớ. Hơn nữa tên sát nhân, tên bỏ thuốc độc cho đồng chí mình uống lại được tôn vinh là cha già dân tộc mày ạ. Dưới mắt tao đây là một sân khấu của những tên hề. Khổ vậy, tao chỉ mua vé có một lần mà phải xem suốt đời, muốn ngoảnh mặt đi mà nó cứ tiếp tục diễn.

- Anh nói làm tôi thối chí quá anh Hai ơi!

- Tao thối chí mất thần lâu rồi mày ạ nhưng lâu nay tao chẳng biết xì ra với ai, nay bất ngờ gặp mày ở đây mới mở xú-páp cho xọp bớt trái ba-lông vậy mà, chớ tao cũng biết tao chẳng có cách gì vùng vẫy được. Mà có vùng vẫy được thì rồi đi đâu? Đi đâu cũng không khỏi ba cái thằng trọ trẹ này. Rồi sẽ có cải cách ruộng đất, có hợp tác xã đói thấy mẹ cả đám mà vẫn phải hoan hô rầm rầm cho mà coi.

Hai Nhơn dừng lại và bảo:

- Tới trạm gác rồi kia.

- Trạm gì mà trạm hoài vậy?

- Đây là trạm cuối cùng. Nó nhìn mặt thôi không coi giấy.

Thấy Hai Nhơn, anh lính gác cho qua nhưng còn hỏi "anh nào kia?". Hai Nhơn đáp:

- Khách loại A1 của anh Sáu. Ổng đã điện cho trạm ngòai rồi!

Đi một chập nữa, Hai Nhơn hỏi:

- Mày tính ngủ với thằng chả hay với tao?

- Anh đi với tôi vô coi ổng bảo gì thì bảo rồi tôi về ngủ với anh. Ở chung với mấy cha lớn tôi không quen. Anh biết tôi là thằng học trò lai chăn trâu mà anh Hai, sống với giai cấp cao sang không hợp.

Hai Nhơn dắt tôi đi thẳng vô nhà Ba Thắng. Anh kêu to:

- Khách của anh vô tới nè, anh Ba!

Ba Thắng bước ra ngay:

- Tao chờ mày tự nãy giờ. Vô! Vô!

Nhà có phòng nọ phòng kia, vách vừng kín mít như nhà ở đồng bằng. Trên bàn để một cái đèn bảo ngọn to soi sáng cả nhà.

Ba Thắng giống như một con vượn già, mặc áo thun ba lỗ, tay chân lòng khòng, thân người dài thờng, đầu húi ngắn, tóc đã bạc hoa râm.

- Tao gặp mày lần cuối cùng...

- Vào năm 58 trước khi anh đi Trung Quốc!

Ba Thắng vồn vã mời tôi và Hai Nhơn ngồi hút thuốc. Chập sau một cô gái tay bưng một mâm nào ly cốc pha lê, nào hũ đường và muỗng sắt trắng tinh, tay xách phích nước sôi vỏ tre đan. Tôi hơi giật mình khi cô gái vừa xuất hiện. Ba Thắng nói ngay:

- Con gái ông chủ tích xã Bình Khánh của mình mày nhớ không?

Tôi nhớ ông chủ tịch xã Bình Khánh hồi chín năm nhưng không nhớ cô nào, nhưng cũng gật đầu cho qua. Ba Thắng đãi chúng tôi cà-phê sữa.

- Ở đây chơi rồi mai vào Cục làm việc.

- Ủa! Còn cục nào nữa anh Ba?

- Cục Tham Mưu của ông Sáu!

- Ông Sáu Vi hả?

- Không, Sáu Nam tức là Lê Đức Anh.

- Dạ.

Ba Thắng hỏi thăm việc móc gia đình của tôi. Tôi cho biết tôi đã nhờ móc nhưng móc bị quác. Ba Thắng nói:

- Không sao. Tao có móc đặc biệt cho mày.

Tôi hỏi:

- Bộ anh vô đây bằng tàu lặn hả anh Ba?

- Còn mày?

- Tôi lặn hụt nên đi tàu bò suýt chết.

- Tao phải lội từ Trà Vinh lên đây. Đi tàu cũng khỏe nhưng ớn lắm. Ở giữa tàu có đặt một tấn TNT, hễ gặp giặc là châm ngòi để phi tang! Ông Bảy Đậu đi trước tao một tháng. Hai Khiết cũng về đây rồi. Hai ổng đi chỉnh huấn ở trường Trung Sơ. Sáng mai tao sẽ đưa mày đi CLB gặp dân Trung đoàn 300. Có tên Bắc Kỳ Hai Lơn ở C2694 nữa. Nó cũng ở Liên Xô mới về. À, có cả Hai Bứa nữa. Chỉ thiếu Tô Ký. Tô Ký mới lủng bao tử trở ra vá - Ba Thắng nói với Hai Nhơn - Cậu làm ơn đi báo cơm dùm ở bếp khách. Ngày mai tụi thằng Ba Hải cũng vô đây để nhận chỉ thị về cho U80.

Hai Nhơn vừa xách đèn đi, Ba Thắng nói:

- Bộ chỉ huy muốn tao bàn trực tiếp với mày một vụ rất quan trọng. Mày đã nghe vụ Phùng Văn Mười cháu của bác sĩ Phùng Văn Cung làm binh biến ở Bình Dương rồi chứ?

- Dạ có.

- Ở trên cũng muốn có một vụ thứ hai như vậy mà do mày móc nối lèo lái.

Tôi kêu lên:

- Làm thế nào được anh Ba?

- Mày có thằng em làm Đại úy Thủy Quân Lục Chiến phải không?

Tôi như bị ai bắt trúng tử huyệt, ngồi lặng thinh không biết đáp ứng như thế nào. Ba Thắng tiếp:

- Mày biết cải cách ruộng đất là cái ải khó qua nhất phải không? Có nhiều đồng chí qua nổi cái Ải máu lửa, Ải tù tội nhưng không qua nổi cái Ải giai cấp này. Mày biết ai đã bảo đảm cho mày hồi cải cách ruộng đất không?

- Ai vậy anh Ba và tôi có vấn đề gì?

- Mày là thành phần tiểu tư sản và lý lịch có một khoản không rõ ràng tức là em trai của mày lúc đó có xu hướng theo tụi Sàigòn. Và gần đây thì tổ chức có hỏi mày, mày cũng nhận rằng thằng em đó đã theo Quân đội Sàigòn và làm tới đại úy. Lý lịch của mày có ghi rõ khoản đó. Mày biết thằng Chung Tấn Quyền không?

- Dạ biết!

- Tổ chức nghi nó là bà con với Chung Tấn Cang nên nó được đưa vô khung đi B mà bị ách lại. Còn một thằng nữa là Phạm Cần.

- Dạ, Phạm Cần là con cụ Phạm Thiều mà!

- Phải rồi, nhưng em gái của Phạm Thiều là bà Nhiệm lấy Phạm Ngọc Thảo. Tên Thảo chạy về Sàigòn đầu hàng Ngô Đình Diệm và được cho làm Tỉnh trưởng Bến Tre.

Tôi ngồi run từng miếng thịt. Mới vừa được đề cao là Anh hùng pháo binh, bây giờ lại nêu lên vụ thành phần và liên hệ địch. Vậy là cái nghĩa gì? Ba Thắng tiếp:

- Vừa rồi ở trên có đường lối mới về địch vận, tức là dùng gia đình để móc nối trong hàng ngũ của ngụy quân ngụy quyền. Do đó mày mới được về. Rồi kế đó hai thằng kia cũng được về. Nhưng về để thi hành đường lối của ở trên.

- Tức là sao anh Ba?

- Để tao nói cho mày nghe vài thí dụ. Mày biết bà Lâm Thị Phấn chớ?

- Dạ tôi biết rành vì hồi bà Phấn địch vận đồn Long Tuyền thì tôi ở trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn đi thực tập ở Ô Môn tại đại đội 2089. Bà Phấn con ông giáo Phận ở Câu Đôi Cái Khế. Bà ta có sắc đẹp nên đã thành công trong việc móc một tên đồn trưởng ra khu giải phóng và thành hôn luôn với hắn. Ra miền Bắc bả bị bỏ rơi kêu trời không thấu.

- Mày biết một mà không biết hai. Ở trên đã đưa bà ta về Nam với lý lịch khác để vận động người anh ruột là tên Lâm Văn Phát.

- Có chuyện đó nữa sao anh Ba?

- Cách mạng khai thác mọi khả năng, không từ bỏ một khả năng nào...Nhưng rủi thay, bà Phấn vừa bước xuống sân bay Sàigòn thì bị tụi nó xúc ngay đem về khám.

Tôi lắc đầu:

- Thà là đánh giặc tại trận, tôi không ngán một chút nào nhưng làm ba cái vụ đó có vẻ phiêu lưu tôi ớn quá anh Ba!

- Ớn gì mà ớn. Có tao phụ lực và bảo đảm cho mày. Thôi tình anh em tao cũng không giấu mày làm gì. Tao thấy mày ở Pháo binh hoài khó tiến bộ lắm. Cho nên tao đã đề nghị với Bộ chỉ huy cho mày ra chỉ huy bộ binh để có cơ hội tiến bộ nhanh hơn.

- Anh cho tôi về đâu anh Ba?

- Củ Chi! Cho mày làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn tập trung của quận. Đây là chiến trường găng nhất của quân khu 4. Ở đây cần những cán bộ trẻ như mày. Tao sẽ cho ông Ba Đình hay để Tư Linh hợp sức với mày làm việc móc ngoéo thằng em mày.

- Dạ, tôi và Tư Linh đều là học sinh Trần Quốc Tuấn.

- Tao biết rõ, thằng Linh giỏi tiếng Anh. Hiện nó là Trưởng ban địch vận khu 4. Nếu mày bắc cầu được với thằng em mày thì nó có thể tiến xa hơn, móc với tụi Mỹ. Ngoài ra tao sẽ gởi gắm mày cho Tám Quang, trưởng phòng Chính trị ở đó. Mày nhớ Đặng Quang Long giảng viên chính trị trường quân chính hồi 48 không? Bây giờ đổi lại là Tám Quang. Anh ta là địa chủ nhưng đã cởi bỏ thành phần lâu rồi. Mọi việc ở trên đã sắp xếp theo ý kiến của tao cả. Mày không nên đắn đo. Ngày mai tao báo cáo với anh Chín Vinh coi như đã xong.

- Chín Vinh là ông nào vậy anh Ba?

- Là ông Trần Độ, Thiếu tướng phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị ở ngoài đó.

Tôi làm bộ không biết hỏi cơ:

- Ủa, ổng vô đây rồi sao?

- Vô rồi. Nhiều nữa nhưng giấu mặt, không phải mấy ông mày thấy trong lễ mừng công.

Ba Thắng hớp cà-phê rít thuốc một hơi rồi bắt sang chuyện gia đình của tôi. Tôi kể sơ qua vụ gặp Thu Hà ở Mã Đà và hai đứa đã hứa với nhau. Ba Thắng nói có vẻ chân tình với tư cách một người anh, anh bảo:

- Vấn đề hôn nhân phải đặt trên nền tảng cách mạng thì mới bền.

Tôi muốn hỏi thăm chị Ba đôi câu, nhưng lúc nãy đã nghe Hai Nhơn nói rồi, nên không dám động tới. Anh tưởng tôi không biết gì nên cứ trương lập trường cách mạng để lòe thằng em.

- Mày biết anh Hai Hổ không?

- Dạ biết chớ. Ổng có đứa con gái là Ánh Tuyết, em bé nhỏ nhất của Đồng Tử quân E300.

- Ra Bắc ổng lấy một bà bán quán. Con nhỏ giận nên không tới thăm tía nó nữa. Thượng bất chánh hạ tắc loạn là vậy đó. Ảnh gặp tao ảnh than phiền và nhờ tao nói dùm với con nhỏ. Ra Bắc có hai cha con mà như mèo với chuột. Ảnh rầu nên đều bạc trắng hết. Chị Hai nghe tao về có đến tìm chồng nhưng tao bảo anh Hai yếu sức khoẻ nên không về nổi. Tao cho chỉ biết là con Tuyết đi học Trung Quốc. Chỉ không biết vụ ảnh ở ngoài đó. Còn ông Sơn Tiêu cũng lôi thôi lắm. Tổ chức giải quyết lằng nhằng mấy ngày không xong. Có một mình tao là khoẻ thôi. Chị Ba mày có lên ở ngoài Xóm Rẩy một thời gian rồi về. Bả vui lắm vì thấy tao đàng hoàng một cây. Nếu tao mà lôi thôi thì dễ gì ngồi yên ở cái ghế này?

Tôi lặng thinh. Chứ không lẽ lại vạch mặt ông anh nuôi. Anh tiếp:

- Hồi ở trại Đồng Tử Quân mày có tánh ngang bướng. Mày dám dắt mấy đứa con gái ra ngả Ba Cần Giuộc chận đánh xe tăng Pháp. May mà kết quả, nếu không chết cả đám. Bây giờ mày ra chỉ huy một tiểu đoàn, mỗi khi hành động phải thận trọng, vì một câu nói của mày là có quan hệ đến hằng trăm sinh mạng. Ngoài ra còn phải chú ý tu dưỡng. Ở dưới đó có hàng chục vụ dâm ô tham ô của cả thượng uý, đại uý được báo cáo về đây. Những vụ như vậy khó giải quyết hơn bày binh bố trận nữa! Nếu thi hành kỷ luật thì còn gì công lao kháng chiến hai mùa, còn không thì bà con kêu rêu dữ quá.. Mày xuống dưới đó hãy đề phòng chớ để rơi vào vết xe cũ của họ.

Hai Nhơn đi báo cơm trở về. Anh dắt tôi đến nhà anh ngủ. Nhưng nằm trên giường khoẻ khoắn mà nào có ngủ được. Hai Nhơn nhắc tích thời chín năm. Mới đây mà nghe như tít mù khơi đời nảo đời nao. Anh nhắc chuyện bộ đội ông Ba Ngọt đánh lấy được chiếc tàu Tây, chiều chiều chở đầy lính lẫn dân từ trong Rạch Lá băng luôn qua sông Soài Rạp đi đá banh. Tụi này là dân ở rừng chuyên môn đi cầu chà là như khỉ leo cây, chạy không lại tụi bộ đội 2964, nhưng lội sông thì lại thắng vì trong bọn này có ông Sơn Tiêu là lính thủy của Pháp. Anh nhắc chuyện con Út đạo và thằng Lài. Con Út là tín đồ Thiên Chúa, có gương mặt giống như gương mặt Đức Mẹ, nó là đứa đẹp nhất trong Ban Rùm Beng của Trung đoàn 300. Nhưng bị thằng Lài quyến rủ. Rồi hai đứa bị kỷ luật đưa về nhà. Con Út khóc mù trời. Nó nói nó mê anh Hai Lôi vì cái bài hát Đoàn Quân Đi nên xin gia nhập đoàn. Bây giờ anh Hai Lôi lại thi hành kỷ luật nó.

Hai Nhơn tiếp:

- Con nhỏ lớn lên đẹp quá trời. Hồi tập kết ở bến Hàm Tân nó có đến thăm anh em. Lúc đó mày ở đâu?

- Ở bến Chắc Băng!

- Hừ, toàn là chuyện tréo cẳng ngỗng. Ối mà thôi! Nếu nó đi chung với mày cũng chẳng ăn thua gì!

Nói tới nói lui một hồi rồi Hai Nhơn cũng xì tiếp cái ba-lông bất mãn.

- Mày có gặp Bùi Thanh Khiết không?

- Không!

- Tên thày giáo làng đó ăn vụng chùi mép giỏi nhất.

- Tôi có nghe chuyện cái mô-bi-lết của ổng tặng cho chị Phụng.

- Ờ! con Phụng vợ thằng đếch gì đó... tao quên rồi. Vợ Hai Khiết bây giờ ở đây nè.

- Ở đâu?

- Ở ngoài xóm Rẩy, có ba, bốn tên cần vụ hầu hạ. Cà-phê sữa hai vợ chồng uống hằng buổi sáng đếch có mời chúng nó. Chúng nó về ngang qua đây chửi thề rùm trời! Hai đứa con gái mười hai, mười ba tuổi từ ngoài thành vô cũng ở đó chờ đi Liên Xô.

- Lội Trường Sơn sao nổi?

- Mày khéo lo. Con cái của Thượng tá, Đại tá cả trăm đứa hiện đang ở phòng thông tin của thằng Phong Vân, hồi đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 300. Chúng nó chờ có chuyến may bay là đi Nam Vang rồi phóng ra Hà Nội chớ leo núi như mình à! Cha làm quan, con được nhờ là vậy đó. Con tao thì cóc mọc râu mới được đi Liên Xô. Bởi vậy nên hễ hở miệng ra là họ nói lập trường giai cấp, là quan điểm cách mạng rùm trời nghe mà phát buồn nôn.

Tôi sực nhớ quyển sách của cô xẩm lại Tư Linh mượn cho tôi hôm trước, nên hỏi:

- Ở đây có sách đọc không anh Hai?

- Sách thì thiếu gì nhưng toàn là thứ không đọc được. Chỉ có cuốn này thôi mày có ham thì cất lấy mà đọc.

Hai Nhơn đứng dậy vói tay lên kệ rút một cuốn gáy vàng, bìa lấp lánh ném trên mặt bàn. Tôi cầm lấy giơ lên đèn thấy có chữ "Karl Marx" to đậm nên nói:

- Ăng Lê tôi đâu có biết. Sách dạy duy vật biện chứng hả anh?

- Ừ, sách dương vật biện chứng pháp bá láp.

Tôi kêu lên:

- Anh nói gì vậy anh Hai?

- Hì hì... Đây là quyển viết về cuộc đời ba lăng nhăng của ông tổ dâm bôn mặt đỏ.

- Nghĩa là sao?

- Cái thằng. Mày không hiểu đéo gì thiệt à?

- Không!

- Sách ghi lại những chuyện đéo bậy đéo bạ cua lão Râu Xốm! Hó hó...ó!

Tôi nhìn ông giáo già cười giọng xóc óc giơ hai hàm răng xếu mếu như hàng rào mục mà không hiểu.

- Nhưng sao anh đem được sách đó vô đây?

Hai Nhơn châm thuốc phì phà rồi nói:

- Ở đời có những chuyện bất ngờ. Như thế này này. Mấy chả ở trong hang không có việc gì làm. Tối ngày chỉ lo đánh bóng áo quần, cạo râu nhẵn nhụi để ve mấy đứa con gái. Mải rồi cũng chán nên bảo tụi tiếp liệu mua sách Mác về để tao dạy lý luận cho.

- Anh dạy sao nổi mấy ông cao cấp đó!

- Tao đâu có dạy dỗ gì mấy cái đầu bò đó. Tao chỉ dịch ra cho chúng nghe thôi rồi từ đó mà biện chứng biện gì thì tùy ý. Một hôm liên lạc đưa về một gói bằng cái thùng sắt đựng đạn đại liên Mỹ, buộc ràng kỹ lắm. Bên ngoài đề nguệch ngoạc: "Sách lý luận". Chín Vinh không thèm mở ra, bảo đưa cho tao. Đúng là sách lý luận Marx Engels bằng tiếng Anh. Nhưng trong đó lại lẫn cuốn này: "Những chuyện dâm dục của Karl Marx".

- Sao họ mua thứ bá láp nầy?

- Tao cũng không hiểu nữa. Tao độ rằng thằng tiếp liệu nó thấy tên "Karl Marx" là cứ mua hết gởi về. Hoặc giả là nó biết mà nó chơi khăm mấy ông Mác xít nhà mình một cú.

- Họ không sợ bị nạo à?

- Nạo gì được mà nạo! Nhưng không phải có một cuốn sách này mà thôi. Còn một bao cạc-pốt nữa chớ. Thứ tốt mày ạ! Mày muốn coi không, tao cho coi!

- Nhưng ba thứ đó để làm gì chớ?

- Cái thằng! Mày ngây thơ cụ hoài mậy! Thứ này ngoài Hà Nội cũng có bán lậu mà!

Tôi nghe lùng bùng lỗ tai, quay quay cái đầu nên không hỏi thêm gì nữa. Hai Nhơn tiếp:

- Lão Mác khoẻ ghê mày ạ! Hồi lão viết cái mani-phét-tô lão đã năm mươi mà còn làm con nhỏ có bầu.

Tôi kêu lên:

- Giỡn hoài cha!

Hai Nhơn chụp quyển sách giỡ ra lật lật, dừng lại rồi dùng ngón gay chỉ vào giữa trang, nói:

- Con nhỏ tên Helena đây nè, mày đọc dùm chút. Pregnant nghĩa là "mang trống", rõ chưa?

Tôi nhìn theo ngón tay của anh nhưng không đọc được tiếng Anh. Hai Nhơn tiếp:

- Lão đã rình con bé cháu từ lúc 13 tuổi. Đợi cháu lên 18 bác bẻ hoa một phát ngon hơ. Bị bác làm cho phểnh bụng, con cháu hết mê bác, bác bèn cho cháu sang giúp... bác Ăng-ghên. Đó là luật liên quan, chờ ngày bộc phát bùng nổ. Nếu để con cháu trong nhà sợ bà vợ quý tộc đổ ghè tương.

- Bà vợ quý tộc của ai?

- Của Lão Xồm chớ còn của ai nữa!

- Ông ấy có vợ quý tộc à?

- Thì đây, sách vở sờ sờ đây tao có bịa đặt đâu, chuyện thế kỷ 19 mà mậy. Bà ta mê lão ta cũng vì ba cái duy vật biện chứng bá láp, bỏ nhà bỏ cửa bỏ cả đạo đi theo lão. Chuyện đời nó quái lạ thế đó. Ông tổ vô sản lại có vợ quý tộc và đã từng rửa tội ở nhà thờ mà không sai lập trường một tí tẹo nào cả. Còn tụi mày bây giờ cưới vợ tiểu tư sản cũng phải xin phép năm lần bảy lượt và bị tổ chức thiến mất một khúc lập trường. Trong lúc vợ ông trưởng phòng huấn học Cục Chính trị là nhà thầu cà-phê, ông trưởng Cục Tham mưu có vợ bé học sinh thì chẳng sao cả.

Tôi quay lại quyển sách Ăng-Lê:

- Rồi anh nói về quyển sách đó như thế nào?

- Tao cất luôn để dành coi chơi đâu có nói như thế nào. Còn mấy cái cạc-pốt thì tao còn cất kia. Mày đi đồng bằng chắc có khi cần đấy.

Tôi sực nhớ trong bóp tôi cũng có mấy cái "chứng minh thư" của Tư Linh cho đêm ngủ chung trên bộ ván gõ nhà cô xã đội phó xã Phú Mỹ Hưng. Tôi làm lơ và hỏi tiếp:

- Anh có dịch duy vật biện chứng cho mấy ổng học không?

- Mấy chả nghe thì cũng như vịt nghe sấm vậy chớ biết cái gì. Tao muốn dịch thế nào mà không được. Mày ở Miền Tây có nghe tiếng ông Huỳnh Ngọc Diệp người Vĩnh Long không?

- Tôi có nghe mấy thằng bạn làm ở Viện Văn Hoá của ông Hoàng Xuân Nhị nói về ổng.

- Ổng là bạn cùng lớp với tao. Một cây hoạt bát thông minh. Đi kháng chiến mới ban đầu ổng làm thư ký cho Phạm Hùng ở ScanBô. Làm được ít lâu, ổng bảo: "Thằng Tú Tài lại đi làm loong toong cho thằng học chưa hết trung học là cái nghĩa gì?" Ổng bỏ cơ quan đi sang cơ quan Trung Ương Cục. Lọt tọt thế nào lại làm thư ký cho Lê Đức Thọ. Anh ta bảo khi nghe Staline ngỏm, Lê Đức Thọ khóc như cha chết. Làm thư ký cho Lê Đức Thọ còn đỡ đỡ. Trước đó anh ta làm thư ký cho Lê Duẫn kìa chớ. Hồi tao xuống miền Tây dưỡng bịnh với thằng U Đa tao gặp giả, tao ngạo: "Sao? Làm thơ ký cho thằng gác ghi xe lửa học chưa hết ê-lê-măng-te trường làng mới đã chứ ông Tú?" Tú Diệp còn cho tao biết anh ta cũng như tao bây giờ. Nghĩa là dịch mấy quyển Dialectic và Principes élémentaires de la philosophie marxiste cho lão Duẩn nghe để lão nắm ý chánh rồi đi giảng ở trường Trường Chinh. Trường này học sinh toàn là thường vụ tỉnh ủy trở lên.

- Thế cơ à? Vậy anh Ba Duẫn mình phải thông minh lắm mới giảng bài được.

- Mác xít mác xiết... gì cũng không hấp dẫn bằng cái húm của bà Nga. Thôi mày ơi! Kể ra nó dài như con suối Tha La và nó cong queo như con sông Sàigòn vậy. Rồi mắc tội phạm thượng mà bị chém ngang lưng quần chớ không được chém đầu đâu đấy mày tụi.

Đã hơn hai giờ sáng. Hai anh em đồng ý phăng teo câu chuyện để ngủ. Sáng mai còn làm việc. Tôi lấy bàn chải đi ra bờ suối đánh răng. Trời đất bít chịt như trong hũ nút. Nhìn lên như có tấm màn đen giăng phủ không thấy một ánh sao.

Khi trở lên, đi ngang qua bếp tôi thấy ánh lửa chập chờn. Tôi dừng lại ngó qua phên nứa. Tôi thấy một đầu to trên một tấm lưng thon. À, cô gái bưng cà-phê lên phòng khách lúc nãy. Tôi lấy cớ vào bếp xin nước sôi, mạnh dạn bước vào, nói ngay:

- Hồi nãy anh nhận ra em liền, nhưng mắc nói chuyện với anh Ba, đừng giận nghe!

- Em là ai, đâu anh nói coi!

- Nguyệt ở xã Bình Khánh phải hôn?

- Tầm bậy!

- Nguyệt Đồng Tử quân trại Đồng Hoà cùng với con Út đạo và thằng Lài, do anh chỉ huy còn không phải nữa hả?

- Em là Ánh, em của chị Nguyệt.

Tôi sửng sốt. Té ra không phải Nguyệt. Ánh nói:

- Em thứ ba còn chị Nguyệt thứ hai. Hồi đó anh tới nhà em, anh hát mấy bài đời sống mới cho em ngủ trên võng.

- À, nhớ rồi.

- Chị Nguyệt em có chồng ba bốn đứa con rồi chớ đi đâu đây!

- Còn em sao không ở nhà lấy chồng mà đi đâu đây?

- Chú Ba là bạn của ba em. Hồi đó ba em làm chủ tịch xã. Tiểu đoàn của chú về đóng ở ấp em, ba em lo vệc tiếp tế heo gà. Vừa rồi thím Ba có vô thăm chú. Thím nói tình hình ở xã nhà ngụy bố ráp găng lắm, chú Ba bèn nhắn ba em gởi em vô trong này công tác, bảo đảm hơn và được học hành tiến bộ.

Tôi coi Ánh như em nên ngồi xuống băng nói chuyện tiếp:

- Tiến tới đâu rồi em?

- Mới vô đoàn thôi. Đảng còn lâu.

- Cố gắng công tác đến nổi ông táo còn phải bầu em làm cá nhân tiên tiến, còn "trau dồi đạo đức" thì ngày nào cũng "trau" mòn hết móng tay mà chẳng thấy đạo đức ở đâu.

- Chú Ba, ông Sáu Nam, ông Hai Bứa không là nhà đạo đức là gì?

- Ối trời! Em biết ông Sáu.. Nè anh, anh có chỗ nào xin cho em đổi công tác đi. Ở đây em sợ lắm.

- Sợ cái gì. Ở đây là khu an toàn, bảo đảm trăm phần trăm, đi đâu cho bằng.

- Em sợ mấy chú mấy bác lắm.

- Mấy chú mấy bác đầu bạc hết, coi các em như con cháu, ăn thịt ăn cá gì mà sợ dữ vậy?

- Ối trời! Anh đừng nói vậy mà lầm. Mấy chú hay làm trò này trò nọ lắm đó. Tụi bên văn phòng, con Trúc Mai, con Cúc qua đây than với em dữ lắm, nhưng dặn đừng có nói ra. Mà thôi, em không dám nói nữa đây! Rủi anh đi học lại với mấy chú thì khốn. Anh có bài hát gì mới không chép cho em vài bài với.

- Anh thì cũng gà cồ ăn quẩn cối xay có đi đâu mà biết bài hát mới.

- Anh biết không, mấy cô ở bên văn phòng mết anh dữ lắm. Hồi tối anh lên đọc diễn văn gì vậy hả?

- Diễn văn gì đâu?

- Mấy cô đó về ngang đây nói rùm lên em nghe được.

- Nghe thế nào?

- Mấy cổ nói mấy cổ tưởng anh hùng thì phái già khú ai dè trẻ vậy. Mà lại còn bảnh trai không kém dân Sàigòn.

- Thì anh là dân Sàigòn đây còn kém ai!

- Anh ở đây vài bữa thì sẽ bị tụi nó hốt hồn thôi!

- Hốt thì hốt chớ anh đâu có sợ.

- Đó thấy không, chưa gì mà đã ló mòi rồi!

Tôi sực nhớ câu nói của Tư Linh. Ở đây con trai con gái vì sợ hãi bom đạn cho nên sống rất hiện sinh. Con gái không có e lệ nói vòng quanh mà nói thẳng tuồn tuột.

Ánh nói:

- Em biết anh để ý ai và ai để ý anh mà!

- Ai để ý anh và anh để ý ai?

- Con Trúc Mai chớ ai. Con nhỏ đánh máy bài diễn văn cho anh.

- Ối! Cô ta đánh trật cả chục lỗi chánh tả.

- Trật thì trật chớ ăn nhằm gì. Nó đẹp thì lỗi mấy cũng chẳng sao. Như em vầy đời nào mới được hân hạnh đánh máy bài diễn văn cho anh. Anh thấy không, hai giờ sáng mà phải thức dậy nấu cơm rồi. Sáng sớm là phải có cơm lót lòng rồi nấu nước pha cà phê, trà.

- Ủa ở đây mà cũng đều đều như vậy sao?

- Đều chớ. Tập thể dục theo đài Hà Nội, xong mấy chú vào ăn sáng uống trà hoặc cà phê rồi làm việc. Em quay qua nấu cơm trưa. Cơm trưa xong lật bật là tới cơm chiều không có thì giờ học tập. Hồi chưa đi vô đây, mấy chú hứa đủ hết... vô đây rồi chỉ có nấu cơm.

- Đó là phân công của cách mạng em à. Ở ngoài Bắc có những anh hùng lạo động thuộc giới trí thức nhưng cũng có những anh hùng lao động chăn vịt làm phân xanh nuôi heo và đổ thùng. Có anh nuôi nấu cơm tám năm liền được tặng danh hiệu anh hùng quân đội.

- Thôi đi anh, ngạo em hoài!

Ánh có vẻ thích nói và tôi cũng muốn nghe chuyện bà con làng xóm, nên mặc dù đã khuya tôi vẫn ngồi mà không thấy buồn ngủ. Trong câu chuyện tôi thấy Ánh có giọng điệu than thân trách phận. Ánh luôn luôn nhắc một câu:

- Chắc em phải chết ở đây quá anh ạ!

Mỗi lần nghe câu đó, tôi né ngang chuyện khác. Tôi nhắc những người quen cũ rồi hỏi:

- Ánh có nhớ chị Hai Mặn Hội trưởng phụ nữ tỉnh Bà Rịa có lần về đóng ở nhà em không?

Ánh nói:

- Em không nhớ vì hồi đó em còn nhỏ quá, nhưng mới vừa rồi chị gặp em biết em là dân Bình Khánh chỉ mừng ghê.

- Ủa, chỉ có vô đây nữa à?

- Có chớ! Chị ở trong này phụ nấu bếp với tụi em.

- Khu ủy viên đó nghe em không có đùa đâu!

- Do đi sát với đám cu-li cách mạng mà chỉ biết chuyện của ổng ở ngoài Bắc. Chỉ làm dữ quá trời. Chị nói tạt vô mặt mấy ông lớn. Mấy ổng