← Quay lại trang sách

Chương 83 Lại Bị Đưa Trở Về Củ Chi Chuẩn Bị Bàn Đạp Vọt Vào Lò Bát Quái Mậu Thân 68.

Tôi về H6, anh em sống sót đều ôm tôi khóc ròng. Nhất là Sáu Phấn, anh không nói ra lời. Còn tôi, tôi tưởng anh đã già hàng trăm tuổi. Mới xa nhau một năm mà đầu anh bạc ráo trơn, má cóp, mắt trũng sâu như hai hố bom đìa.

Một anh nào nói:

- Anh Sáu bữa nay ra khỏi hầm là mặt trời sắp bể hai rồi đó anh à.

-Sao vậy?

- Ảnh không có lên. Cần gì ảnh gọi liên lạc hoặc tụi tôi tới báo cáo xin chỉ thị.

Tôi biết sáu Phấn là người mộc mạc, chân chất, nhưng không có khả năng tác chiến hoặc lãnh đạo một tiểu đoàn. Ở trên giao thì anh không dám từ chối. Anh thích ở nhà làm việc lặt vặt hơn tới cơ quan H6.

Từ ngày Mỹ lùa cả heo lên trực thăng Chinook anh càng thất thần. Xa vợ con anh càng như mất hồn.

- Anh có được tin gì chị Sáu và cháu bé không anh Sáu?

- Bặt luôn từ ngày tôi qua sông.

- Chú Tám (Cần) có gặp anh không?

- Ổng cũng đi đâu mất luôn. Chắc ra ấp chiến lược chớ gì! - Biết tôi hỏi lòng vòng để dò xem tin tức mẹ con bé Hoàn, anh nói luôn- Cả dì Mười nó tôi cũng không gặp mà cũng không có chút tin tức gì.

Có lẽ anh biết mà giấu tôi đó thôi, nên tôi cũng vờ như không biết, chứ thực ra trong lúc hội bàn đào trước khi xuất phát đánh Tân Quy, người ta đã cho tôi biết cô nàng đã lấy sĩ quan Sài Gòn.

Và Năm Tiều đã khuyên tôi: "Đừng vì con nhỏ đó mà liều mạng!"

Sáu Phấn lôi tay tôi về hầm. Hầm của anh là một cái núi con. Tôi có cảm tưởng là anh đã đào một ngàn thước khối đất để móc cái lòng và đắp nấp hầm này. Nhưng trớ trêu thay, Sáu Phấn không chết vì bom đạn mà vì những quả lựu đạn con con sau này.

Sáu Phấn lụm cụm một hồi mới lôi ra hai ba món gói rất kỹ. Một chai đế, hai cái ly cối và một gói vuông vuông ràng rịt rất kỹ.

- Đây là chai rượu gốc và cặp ly ở nhà, vợ tôi bảo tôi mang theo trước khi bả từ giã đi xuống Phú Hòa Đông. Bả dặn chừng nào gặp thầy Hai mới được uống. Trời, vợ tôi nó cũng mến thầy và mong thầy trở thành tía con Hoàn cho bả vui, nhưng mãi tới nay, đôi chim con Bắc con Nam, biết bao giờ gặp lại. Bụng tôi cũng muốn thầy ừ một tiếng để dì Mười nó có nơi nương tựa.

Sáu Phấn nghẹn ngang, mà tôi cũng rưng rưng. Quả thật có lúc tôi cũng muốn bước tới cho xong, để lang bang mãi khó lòng qua! Mười không có văn hóa cao nhưng làm vợ thì chắc là vẹn toàn.

Tôi nói như bao nhiêu lần tôi nói với các cô bạn:

- Tình hình này có vợ con vướng bận quá anh Sáu à! Để dứt chiến tranh đã.

- Cái cuộc chiến tranh này kéo dài còn hơn chín năm nữa đó thầy Hai.

Sáu Phấn vừa nói vừa mở cái gói ra. Bên trong là những chú tôm khô đỏ au, bóc vỏ thật sạch.

- Tôi cất đã...lâu lắm. Có đến cả năm cũng nên. Dầu cực ăn mấy cũng không ăn.

- Để lâu vậy nó mốc hết anh Sáu.

- Lâu lâu tôi đem ra phơi rồi gói lại.

Hai anh em ngồi nhâm nhi tôm khô rượu đế.

- Đế Sa Nhỏ sao sánh kịp, thầy Hai! Cái này là của vợtôi kháp lấy. Thầy đi mệt, uống cho đã đi rồi ngủ. Lạy trời đêm nay đừng có B52 để hai đứa mình ngủ chung và tâm sự và bàn công tác.

Tôi nghe lạnh lẽo quá chừng. Dù uống nửa chai lít mà cũng không đánh tan được cái khí âm bao chặt lấy hai đứa.

- Tụi nó chết hết rồi, chỉ còn có mình tôi thôi thầy ạ. Trời, bốn đứa: Năm Thủ, Sáu Uya, Ba Tố, Ba Dứa lãnh một trái bom đìa, không lượm được một miếng da. Kỳ đó họ phân công tôi ở nhà, xong công tác về sẽ múa ve chai một bữa. Dè đâu có đi mà không có về! Mồ mả cũng không biết đâu. Nhưng phải vậy thôi đâu, để mai tôi dắt thầy ra thăm mả thằng Tôn Sứt và hai cậu cận vệ của nó. Ba thầy trò nằm bên nhau, chết như một tổ tam chế. Thầy coi đó, thầy vắng có một năm mà trở về trống bao nhiêu chỗ (còn tôi, chết hụt bao nhiêu lần?). Thầy đi có vài bữa thì hai vợ chồng Ba Tâm và con Thu (cứu tôi dưới hầm) lãnh một trái 155 của Đồng Dù. Năm Dị chết và thằng Đỏ cụt hai giò. Tôi tội nghiệp nên cho nó đi R chữa bệnh (tôi không buồn hỏi cụt hai giò bằng cách nào). Khi qua đây, Tư Kỹ- C phó trinh sát, với thằng Tâm, thằng Lan qua trắc pháo đi nghiên cứu Dầu Tiếng bị phục kích chết mất xác ở Làng 8. Thằng Đức - B phó trinh sát, mất tinh thần xin về hậu cần. B trinh sát nay chỉ còn bốn đứa. Tụi Mỹ đánh rát quá tôi phải vọt qua sông. Cả D8 cùng đi theo. H6 chia làm hai bộ phận: ông Năm Thủ ở bên Củ Chi, thằng Tôn (Sứt) ở bên Bến Cát, nhưng rốt cuộc cũng chết hết. Mười mạng đi dứt trong mấy tuần lễ. Bên này thằng Tôn và Năm Đùng nhờ quận đội Bến Cát cho đất từ Rạch Bắp lên Bưng Còng nên còn ngoi ngóp thở được. Cuộc càn sơ sơ của tụi Mỹ vừa rồi lại giết luôn thằng Tôn và hai cận vệ. Rồi thằng Tám Mau phó chính trị viên D, một chị nuôi và hai thằng liên lạc bị một trái pháo mồ côi của Lai Khê bắn qua. Cả cái H6 bây giờ chỉ còn tôi và Năm Đùng. Còn D8, thằng Mười và Tư Cư làm sao gánh nổi?

Sáu Phấn nói một hơi như tụng kinh sám hối không dứt đuôi. Nghe Sáu Phấn "báo công một năm thành tích của H6" mà tôi bủn rủng cả tay chân. Nhìn cái mặt gầy trờ xương và dài sọc của hắn tôi càng tê tái tâm can. Tôi được Năm L6e xách cổ ném về đây là để củng cố lại H6, nhưng chính cái gốc cây đã tróc thì làm sao vun xới cho nó lên xanh? Muốn đứng vững phải có đất chắc dướ chân. Ở đây đã mất đất, mất người và người còn lại (như Sáu Phấn) thì mất tinh thần, thì tôi làm gì được? Tôi bảo Sáu Phấn:

- Bây giờ anh đang làm gì?

- Ngày nào cũng chỉ đôn đốc đào hầm để trốn B52 chớ còn làm gì nữa thầy?

Tôi nghĩ: B52 bây giờ là một cái dịch. Nó bỏ không sót chỗ nào. Trước kia còn có cái lệ buổi sáng chống B52, trưa chống pháo, còn bây giờ không có lệ gì nữa. B52 bỏ cả lúc nửa đêm.

Tôi ngồi uống rượu với Sáu Phấn mà bụng rối như tơ vò, nhưng bên ngoài cố làm tỉnh như kiểu Khổng Minh toạ lầu. Tôi nói theo công thức Sáu Di để an ủi bạn:

- Ở trên đã có kế hoạch đánh lớn. Anh đừng lo!

Rồi tôi hỏi thăm vợ con anh. Sáu Phấn lắc đầu:

- Thầy với dì Mười nó thì không biết còn gặp lại không, chớ vợ tôi thì kể như hết mong rồi!

(Mà thật! đó là lời trối của Sáu Phấn, viên đại úy 42 tuổi mới có con oe oe)

Đang nói chuyện liên miên, bỗng có tiếng oang oang từ trên trời vọng xuống, từng tiếng nghe rõ như radio:

"Nghe đây! Nghe đây! Tôi là Võ Văn Phán, cấp bậc thiếu tá, nguyên là trung đoàn phó tập kết trong sư đoàn 338 của thiếu tướng Tô Ký ở Xuân Mai, về Nam năm 1964, nhận lãnh chức vụ tham mưu phó Quân Khu I..."

Gió tạt nghe không rõ, một lúc máy bay mới quay trở lại, tiếng loa lại tiếp:

"Hỡi.. anh em giải phóng hãy trở về với chính nghĩa Quốc Gia!"

Tôi thấy mặt mày Sáu Phấn tái ngắt. Anh lắp bắp:

- Bỏ mạng rồi thầy Hai ơi!

- Cũng thường thôi anh Sáu. Cái mửng này tụi nó cứ chơi hoài ở ngoài Trường Sơn chứ phải mới đây sao?

- Nhưng mà thằng Bắc Kỳ này có tới đây. Nó làm tham mưu trưởng mà! Phải dời đi mau mau không thì B52 tới ngay. Loa dứt là bom tới đó.

. Nếu nó tới thì mình đi cũng không kịp.

- Thầy có nên nó ở ngoài Bắc không?

- Có chớ. Mặt nó đen sì, môi thâm. Kên lập trường dữ lắm Mẹ kiếp lập trường bây giờ hành lập bò. Hôm trước tôi nghe nó bị trực thăng chụp ở Cầu Xe, tôi có đánh dấu hỏi. Tại sao chụp ngay chóc hầm nó và không có bắn dọn bãi? Đó là con vợ nó báo cho lính tới thôi.

Sau này cũng có một vụ khu hầm tương tự. Đó là trường hợp Hùynh Minh Đạo, tham mưu trưởng kiêm quận đội phó Củ Chi. Lính đổ ngoài đồng rồi đi thẳng vô ngay nắp hầm cạy lên trúng phóc, móc anh chàng lên mặt mũi thật sạch sẽ.

Nghe dứt lời của loa, Sáu Phấn hỏi tôi:

- Bây giờ tính sao thầy Hai?

- Chạy không kịp đâu anh Sáu. Rủi nửa chừng mà B52 tới hoặc pháo giã mình không có công sự, cứ lêu bêu trên mặt đất thì càng nguy. Chi bằng bám trụ ở đây. Rủi ro thì "cò ỉa miệng chai" ai nấy lãnh. Tử sanh hữu mạng thôi chớ biết làm sao bây giờ anh Sáu!

Thấy tôi có vẻ tỉnh táo, Sáu Phấn cũng bớt hoảng hốt. Sự thực ra tôi đâu có gan gì đến nỗi nhưng bên ngoài cứ làm tỉnh. Mình là chỉ huy mà tỏ ra rối ren thì cả đơn vị mất tinh thần.

Tiếng loa tạt đi xa dần rồi biến mất. Tôi bảo Sáu Phấn gọi hai cậu cận vệ tới chia bài đánh tu-lơ-khơ để bớt lo lắng. Thấy mấy cậu bé tôi càng nhớ thằng Đỏ. Tội nghiệp một trái pháo ban mai giết hai vợ chồng cô Thu và tiện mất hai chân cậu bé. Trong các cậu cận vệ, nó thương tôi nhất.

Tôi đã có ý chờ con Thanh, con Nữ, con của vợ Sáu Phấn và chị Chín Kiểu lớn lên sẽ cưới một đứa cho nó. Nhưng bây giờ tật nguyền như vậy ai mà ưng. Cũng như Năm Hoa bị Tám Mang ngó lơ vì mất cặp chân.

Ván tu lơ khá giả tạo không có tinh thần, nhưng cũng trấn tĩnh phần nào được bốn thầy trò. Rồi tới khuya, lăn ra ngủ quên mất pháo và B52.

Nhưng tới sáng thì trực thăng đáp tới ầm ì. Sau này người ta còn đồn rằng có hai anh lính của K30 tức hậu cần Quân Khu bất mãn vì cấp trên bắt vác gạo, chạy đuôi tôm qua sông Sài Gòn và đánh xe bò liên tục ba năm, chết hụt không biết bao nhiêu lần mà không được lên chức nên "mần một cú" cho bõ ghét.

Nhưng phần lớn dư luận cho rằng chính Bảy Phán là nhân vật chính của tấn thảm kịch này. Bảy Phán mới biết rõ cơ sở kho tàng và hầm bí mật cùng nhân viên, xã đội trong vùng Bến Chùa.

Trận này lính Dầu Tiếng phối hợp quân Mỹ đánh cú rất độc địa. Nhà nào có hầm cũng bị sục sạo không sót một gốc cột. Nhiều cán bộ thuộc K1O, K20, K30 tông nắp hầm chạy ra bìa rừng bị trực thăng bắn chết hết. Xác đếm được đến cả trăm, nằm lển nghển ngoài bìa rừng, sình thúi năm sáu ngày sau không hết. Lần đó quận đội phó Sáu Hòa, cô nàng xinh đẹp nổi tiếng vùng Bến Cát, cũng bị thương, nghe đồn là chết ngoài bìa rừng. Đau đớn thay cho... ông Thiên Lôi!

Đó là mặt trên bờ. Còn dưới sông thì có giang thuyền Bình Dương, rải dài từ Bến Chùa tới Thanh An, một đoạn đường dài ba cây số, như đăng chận cá. Ngoài ra, Mỹ còn đổ quân trên đường 14 từ Thanh An đến suối Gò Gấu, xa xa có cụm canh chừng, ai ló ra đều bị chúng vớt hết. Trong lúc đổ thì trực thăng đổ quân giữa rún cho lính lục soát từng nhà, bù-nốc rà sát ven rừng tỉa từng phát.

Các kho gạo, kho thuốc men bị khui và thiêu hủy. Hại thay lại là thời điểm quan trọng. Các nguồn dự trữ này là để phục vụ cho Tết Mậu Thân.

H6 ở ngoài vòng nhưng cũng có thiệt hại vì một số nhân viên đi dạo phố Bến Chùa để rửa mất, bị kẹt trong vòng vây mất năm, sáu chú.

Sáu Phấn lo âu bạc hết cả đầu là phải. Sau khi các thứ quân rút, B52 tới. Vui vẻ như thế nào, dù các bạn không nếm mùi cũng tưởng tượng ra. Những trái bom nổ chụp xuống đầu với độ là những miếng bom "giao" với nhau thành một tấm lưới mênh mông chụp xuống mặt đất rộng vài cây số vuông, và mỗi lần chụp cách nhau chừng 30 giây hoặc không cách nhau giây nào.

Một con dế nằm trong lưới này không trúng miếng cũng tức thở mà chết nữa là người. Mà dù có sống sót thì cũng điếc Nhiều anh chàng đã phát điên vì đứt thần kinh hệ.

Tôi ở với Sáu Phấn độ ba tháng. Việc đầu tiên là tôi cho xây ba căn cứ khác nhau, mỗi căn cứ cách nhau từ một đến hai ngày đường. B52 chỉ bay mất năm phút. Hễ có tin B52 là chuồn sang căn cứ mới. Có cơ quan (không nhớ là K nào) cũng được tin Liên Xô cho, hộc tốc chạy. Không hiểu tin vịt hay mật mã sai "cốt" mà vừa đến nơi lại lãnh B52 nguyên gói. Có đám què quặt lê lết ở sau lại không sứt miếng da! Thiệt buồn cười ra... nước đái!

Một hôm trong một bữa nhậu đế tôm khô, Sáu Phấn tâm sự với tôi:

- Thầy biết tại sao thầy lại trở về đây không?

- Tại nhu cầu cách mạng!

- Không phải đâu! Tại thăng Phấn này.

Tôi trố mắt nhìn anh. Anh tiếp:

- Tôi đã làm đơn gởi cho ông Năm Lê. Tôi đã nói thẳng nếu ở trên không trả thầy về H6 tôi sẽ từ chức.

- Giỡn hoài anh!

- Tôi nói láo cho pháo ăn tôi. Thầy có muốn coi bản lưu không? Ký tên Sáu Phấn chính trị viên D rõ ràng!

Rồi bỗng anh nghẹn ngào:

- Nếu tôi có bề gì thì thầy săn sóc giùm vợ con tôi. Con bé mới một tuổi rưỡi.

Tôi kêu lên:

- Có việc gì mà anh trối trăn như vậy, anh Sáu?

- Tôi linh tính là lần xa vợ con này tôi không còn gặp lại nữa!

Trước đây mấy hôm tôi bảo mấy cậu trinh sát tìm mua cho tôi ba con gà để tôi cúng mộ ba thầy trò Tôn Sứt, một việc làm nhân nghĩa và đúng tục lệ ông bà, như tôi đã làm đối với Huỳnh Thành Đồng ở Trung An khi xuống đánh đồn Thầy Mười.

Tôn Sứt, Bùi Khanh, thằng Sâm ở trên R có biết bao kỷ niệm với tôi. Nó đánh trận Bổ Túc bị thương sứt tí mô, nên thành danh Tôn Sứt. Nhưng các cô vẫn yêu cái chỗ sứt duyên của nó. Nhưng chưa kịp cưới nhau thì đã mạng vong bỏ vợ góa lại trần gian.

Mặc dù có ý định cúng tế như vậy nhưng thấy Sáu Phấn bi quan quá mức, tôi không dám bày ra nữa. Sợ làm cho anh rầu, sụp luôn không ngóc dậy nổi, nên dẹp bỏ ý định đó.

Tôi thấy lúc nào anh cũng đăm chiêu hoặc thở dài sườn sượt. Tôi có cảm giác anh là con rùa không dám ló đầu ra khỏi vỏ. Tôi bảo:

- Để tôi đến ở với anh cho vui và dễ bàn tính công việc.

Anh mừng rỡ chấp nhận ngay:

- Lâu nay tôi cũng muốn đề nghị với thầy như vậy mà không dám nói ra.

Nhưng tôi chỉ ở với anh một thời gian ngắn. Trong thời gian này tôi ra lệnh cho mỗi chiến sĩ đào hố cá nhân hình chữ L mỗi cạnh năm thước, sâu một thước rưỡi. Bảo đảm sống trước đã rồi sau đó mới chiến đấu. Ngoài ra tôi còn chỉnh đốn kiện toàn lại ban chỉ huy D và các ban chỉ huy C, B, A và các trợ lý bảo vệ, tham mưu, hậu cần, và phỏng theo kiểu tổ chức của 307 hồi xưa mà tôi học được hồi còn.

Một hôm lại có lệnh khẩn gọi tôi đến gặp Năm Lê. Đi ngay không có thì giờ chuẩn bị. ở đó mà rù rờ, B52 từ Guam tới mất 28 phút, từ Utapao mất có 15 phút. Chậm chân sao kịp? Gặp tôi, Năm Lê nói ngay trong tiếng cười hề hề:

- Tao đâm ra sợ mày đó Lôi.

- Sao vậy anh Năm?

- Mày như con ngựa bà chạy khấp. Bây giờ tao nói ngay nhé. Các bà già trầu và mấy lão guốc vông áo bà ba lại đòi trả mày về Củ Chi cho mấy ông bả nghỉ ngơi ăn trầu xỉa thuốc.

- Đơn vị nào anh Năm?

- Quận đội.

- Trời đất?

- Vì mày rành đất Củ Chi và nhân dân các xã. Chớ để ông Bắc Kỳ Thứ thì hỏng cả. Ổng kêu mấy chục xã đội trưởng lên trình diện, chẳng thằng nào léo tới làm ổng nổi cáu. Mẹ kiếp, chỉ huy du kích, xã đội còn khó hơn chỉ huy một binh đoàn. Muốn triệu tập một ban chỉ huy xã đội phải bò dưới gầm giương nó coi nó đéo vợ nó mấy cái đêm đó. Nếu nó làm tới hai ván liền thì đừng hòng nó đi họp vì nó lỏng đầu gối, nhưng nó đổ thừa là nó bận việc nọ việc kia toàn là việc đảng không hè. Còn nằm trong hang mà đánh công văn triệu tập thì tới năm Tý năm Dần nó mới tới cho. Lôi à! Mày đừng có phiền anh Năm mày nhé! Không phải ý kiến của tao điều động mày, mà là mấy bà già trầu ngoáy và mấy lão xỉa thuốc ông Tề kia, nhưng kể ra họ cũng sâu sắc lắm. Họ biết hiện giờ chỉ có mày mới khiển nổi đám dũng sĩ Năm Cội, Bảy Mô, Bảy Nê và giúp luôn cả cái Q16 bết bát nữa. Như tao đã nói với mày lần trước là hiện giờ ở trên đang sửa soạn... vậy đó. Và Củ Chi sẽ là bàn đạp cực kỳ quan trọng, Nếu không có Củ Chi vững mạnh thì không nhảy vọt được. Nếu thằng Tám Giò chưa chết thì tao cũng đề nghị khu ủy thay thế nó. Chứ chiến trường mới nó không kham. Cứ lọ mọ với ba cái hầm và bom lép thì Mỹ nó ăn gỏi hết.

Tôi còn nói được gì? Năm Lê tiếp:

- Mày không phải trở lại H6. Cần gì tao cấp cho đủ hết, rồi thằng Nông và thằng Quyết đưa mày đến anh Ba (Xu) ngay. Ảnh cũng cần gặp mày để chỉ thị cho việc gì đó. Chỉ có hai cậu này mới được dẫn khách vào căn cứ của ảnh mà thôi. Và khách phải do tao chấp thuận. Thôi, vậy đi, không còn nhiều thì giờ nữa.

Thế là tôi đi theo hai cậu liên lạc đi đến căn cứ ông Tư Lệnh.

Chắc ổng đã rời khỏi cái nơi êm ấm của dì Ba rồi từ sau lúc Hai Phán leo lên trực thăng.

Tội nghiệp các nàng thỏ bạch của tên Thiên Lôi. Tay ngọc chân ngà môi son má phấn giờ này không biết còn ở đó hay là trôi dạt nơi nào. Ra rừng làm sao mà kham nổi?

Đã hai lần gặp Năm Lê. lần nào tôi cũng định hỏi về cái tai nạn của ông Sáu Di, những lần nào sắp hé môi rồi cũng ngưng. Có hỏi ông cũng không nói thật mà lại quở mình là đằng khác.

Nhưng thời may trên đường đi gặp Hai Ninh ở H6, anh này là một trong các nhân vật rõ cái tai nạn trên kia.

Tôi bèn mời anh ta điếu Capstan và lôi tay ngồi lại trên một thân cây bị xe tăng ủi lật.

- Sao coi bộ không vui vậy bồ nhà?

- Vui mẹ gì được. Mới đội một phát lát da đầu coi đây!

Hai Ninh mọp xuống vò vò đầu.

- Ê, vụ đó có thật không ta?

Tuy tôi không nói "vụ đó" là vụ gì nhưng Hai Ninh cũng hiểu là vụ gì. Hai Ninh ngó dáo dác. Thấy hai cậu liên lạc đứng xa xa bèn rỉ tai tôi:

- Thật 100% rồi chớ còn gì nữa.

- Tôi không tin chút nào.

- Tao đích thân gói uy lông.

- Rồi làm sao đưa về Hà Nội?

- Tao chỉ chịu trách nhiệm đưa về tới Minốt thôi, còn từ đó ra Hà Nội ai biết được.

Tôi thầm nghĩ: mấy ông nội Miên đỏ dám chê thúi vứt bờ vứt bụi lắm!

Hai Ninh đứng dậy bắt tay tôi và dặn:

- Đừng có nói tùm lum nghe cha nội. Đứt đầu rán chịu lấy.

- Ai mà nói ra làm gì để đứt cái đầu... Nhưng đầu nào?

Hai Ninh cười nhưng không dám cười bình thường, chỉ một nửa, như cửa vừa hé bỗng khép lại. Bây giờ tôi mới để ý thấy cái miệng của hắn hơi méo méo, bèn hỏi:

- Ê cái miệng của cha sao vậy? l

- Có sao đâu?

- Bộ cha không có rọi kiếng sao?

- Chạy đứng lại không được mà ở đó rọi kiếng.

- Góc mép trái hơi lệch đó nghe cha. Có cần điều chỉnh thì tôi lấy thước lô-ga-rít của pháo binh tôi sửa lại cho đúng hướng đúng tầm, chớ để vầy phóng trật mục tiêu hại thường dân lắm!

- Giỡn hoài nhà pháo, thôi để tôi đi.’ -Nói xong hắn quay đi.

Nhưng tôi níu lại thầm thì:

- Ê cái vụ "nhánh cây" có thiệt không tía nó?

- Nhánh cây gì? -Hai Ninh gắt.

- Lịch sử Việt Nam sẽ ghi cái nhánh cây đó, mà ông là một trong mấy người chứng kiến! Ngồi xuống nghỉ chân chút nữa đi. Tôi có đế và tép khô nề, bẻ nhánh lá giang chua làm đỡ vài hớp cho nóng máy. Bây giờ còn sớm, ông qua suối Xây Nô cá rô nó rỉa tiêu trên như Chín Mành đó.

Nghe tôi "dọa" Hai Ninh cũng lưỡng lự. Tôi bèn lôi tay hắn rề lại gốc cây bật rễ có cái lỗ tun hút.

- Có gì thì hai anh em mình chui xuống đây cũng đủ mà! -Vừa nói tôi vừa móc tép khô ra đưa cho hắn ba con.

- Ở đâu có thứ ngon này?

- Ở đâu có thì thôi.

- Mày đi đâu cũng no như cưỡng. Em út bu đen phủi không hết. Vụ con gái ông Ba mày định ngâm tới chừng

- Tôi có định gì đâu?

- Người ta đồn rùm, nói mày sẽ cưới con nhỏ giữa.

- Không có đâu cha nội. Chỗ quan quyền người ta sang trọng, mình là bần cố nông vô đâu xứng.

- Mày là "bần cố nội" tao chớ bần cố nông! Bần cố người ta lên chức rần rần sao bần cố nội mày đứng chựng ở đó?

- Thôi đi ông... Nè, làm hết bình toong này mới đi nghe.

- Làm hết nhiêu đó có lết chớ đi sao nổi.

- Có ba cái đế vô rồi, B55 cũng không ngán nữa là B52, B53.

Hai Ninh không có chân trong hội ve chai chống Mỹ của tụi tôi nên mới làm sơ sơ mặt đã đỏ ké! Tôi một ngụm, hắn một ngụm chớ đâu có ly tách gì. Mỗi lần cầm chiếc bình toong, hắn sục sạc coi còn bao nhiêu rượu, rồi lắc đầu hai ba cái mới uống, uống xong nhăn mặt quẹt miệng lia.

- Mày chơi ác quá!

- Hừ, uống rượu mà làm như uống thuốc Bắc vậy cha nội. Đây là vũ khí chống B52 kết quả nhanh nhất. ê... Trận đó đất đã "gung ghinh" tới ông chưa?

Hai Ninh nhìn tôi mắt đỏ ké, ngẫm nghĩ một hồi mới nói:

- Thằng Mỹ nó đui, chớ nếu nó rắc tới chút nữa là cái hầm của Tư Cường tiêu hết....

- Tư Cường nào? -Tôi biết mà còn làm bộ hỏi.

- Tư Cường công binh. Chính ổng chỉ huy làm cái hầm đó.

- Vậy à? Để làm gì mà... dữ vậy?

- Hừ, mày cứ dụ khi tao làm bộ hỏi bí mật hoài.

- Tôi làm bộ chớ tôi biết hết trơn rồi cha ơi. Chưa chắc cha biết rõ băng tôi..

Hai Ninh trợn mắt:

- Mày biết cái con củ cặc họ! Tao ở ngay đó mà biết thua mày à?

- Ông biết thằng bí thư của "ổng" là ai không?"

- Là ai?

- Nó là bạn tôi, đậu phó tiến sĩ bên Liên Xô mới về.

- Mày nói nó là thằng Ba T... chớ gì?

- Còn ai vô đó.

- Trật lất. Xuống đây ông có "bí" mới rồi.

- Không có bí mới nào hết. Cũng thằng T... đó thôi. Ông cần biết thì tôi nói rõ tên cúng cơm và lý lịch của nó cho ông nghe. Xuống đây nó có gặp tôi nhậu một đêm nữa mà! -Tôi tháu cáy hắn một hơi luôn.

Hắn đành chịu thua:

- Nếu vậy thì chắc tôi lầm. Vì trong đám tùy tùng có đến năm bảy đứa cả Nam lẫn Bắc, tôi không biết đứa nào.

Tôi thắng thế bồi thêm:

- Thằng nào trắng trẻo mặt tròn, đẹp giai giống như ông cụ Mao là bí thư của ổng đó. Nó là thành phần địa chủ, nhưng đầu hàng bần cố nông sau Cải Cách Ruộng Đất nên được ổng cho đi gần để ổng truyền lập trường cho sau này có thể làm chánh ủy một Quân Khu như ông Trần Độ vậy. Tướng Trần Độ ngày xưa cũng chỉ là kẻ xách dép cho đồng chí Trường Chinh thôi. Nhưng khi về Hà Nội, ổng làm tới chánh ủy đại đoàn 308 và sau 1955, làm tư lệnh kiêm chánh ủy Liên Khu 3. Hễ gần mặt trời thì sáng láng, ông ơi!

Thấy tôi nói thông suốt, Hai Ninh lơ mơ nói:

- Chắc vậy tôi hiểu lầm.

Tôi thừa thắng đẩy tiếp:

- Đi bên cạnh ổng có hai thằng bí. Bên trái là thằng T... bạn tôi, bên phải là một anh Bắc Kỳ. T... là bí thư chính trị văn hóa, thằng kia là bí thư quân sự.

- Vậy là đúng rồi! -Hai Ninh vỗ đùi đánh bép- Hôm bữa đó ổng đứng ở giữa, bên cạnh ông là anh Ba mình, còn bên trái là ai tôi quên mát, nhưng ngay đằng sau là hai cậu bí thư. Vậy mà nhánh cây không xọt ai hết, nhè ổng mà xọt ngay chóc. Tôi nghe một cái "pực" thì thấy ổng ngã ngửa ra đất. Anh Ba mình xốc ổng lên. Tôi cũng bu lại nhưng bị ảnh quát nên lùi ra. Chung quanh "ổng" có chừng năm sáu người thôi chớ không nhiều. Anh Ba hoảng hốt la lên mà đâu có ai hiểu ổng ra lệnh gì. Không có y tá y tướng gì bên cạnh ráo hết. Vì mới dưới hầm bước lên bịnh gì mà đề phòng. Trời! Óc của ổng dính đầy tay anh Ba. Chính tôi cởi cái áo của anh Ba bọc cái đầu ông lại chớ ai. Trời! ổng không nói được tiếng nào rồi đi xuôi. Tôi lén bước lại nhìn, mặt ông ngày thường nước da đồng điếu mà đã đổi ra xanh lét như da rắn lục cườm thấy ghê hết sức.

Tôi lắc đầu:

- Ông nội định đẩy cây thoa mỡ bò với tôi hả?

Hai Ninh sửng cồ:

- Tao đẩy mày té vàng té bạc gì hả thằng Thiên Lôi?

Tôi cười nhạt:

- Đi bên cạnh ổng phải là tư lệnh hoặc chính ủy. Ổng đến đâu như vua xuất cung nhất đẳng quân thần phải nghinh tiếp. Tướng nhèm chưa được tới gần ổng nữa là thiếu tá cỡ ông. Thôi đi ông nội con nít, ông đừng có đặt chuyện kể cho oai.

Hai Ninh cười khè khè mà không có vẻ giận dỗi, nói:

- Đúng thiên Lôi, mày nói đúng. Cỡ tao còn lâu mới được đứng cách ổng một cây số chớ làm gì được nhìn thấy mặt rồng. Nhưng tao cho mày biết nếu không có tao sẽ không nên việc gì cả.

- Khỉ khô! Thiếu tá Ninh ổng coi như rác.

- Nè. tao nói cho chú em mày biết là chỉ có tao vô được cái hầm đó thôi. Để chi mày biết không?

- Để hốt rác và chùi đít ổng ỉa?

- Tầm bậy! Mày nên nhớ là trong đó có điện. Nhưng điện không quan trọng bằng điện đài -Hai Ninh vỗ ngực- Tao gắn, tao dựng, tao thử phát đi, tao thử bắt tin, bắt mật mã từ Hà Nội đây cu con ơi. Đây là tổng hành dinh của bộ tổng tư lệnh mày nghe rõ chưa? Không có thằng Hai Ninh này, tư lệnh tư lọt đều điếc và câm chớ làm được mẹ gì, chỉ huy được ai?

Tôi vẫn lắc:

- Ổng vô đây là toàn quyền quyết định như nguyên soái trấn biên cương, không cần phải xin chiếu chỉ triều đình. Ổng cần gì mà phải liên lạc với Hà Nội?

- Tao hổng biết. Nhưng chính điện đài dưới hầm bắt được mật mã Hà Nội. Nhưng nếu không cần xin lệnh ở ngoải thì ông phải liên lạc với R.

- R nào nữa? Ổng là tía của R, lại phải xin lệnh của mấy ông Chín Vinh, Sáu Nam à?

- Củ cặc họ! Mầy nói ngang tao không nói nữa.

Thấy Hai Ninh hơi tự ái, tôi vuốt nhẹ:

- Tôi công nhận là ông có xuống đó gắn điện đài, nhưng ông nói ông Sáu xin lệnh ở Hà Nội và liên lạc với R là không đúng, nên tôi phải cãi chớ.

- Không liên lạc với R thì ổng cũng liên lạc với các cánh quân để chỉ huy chớ!

- Cánh quân nào? Tôi thấy ở đây có cánh quân nào có mật mã đâu, chỉ có bộ đàm thôi.

Hai Ninh hơi giật mình nên rút lại:

- Tao hổng biết! ừ thì tao nói láo. Nãy giờ tao nói láo hết thảy. Mày đừng có nhớ làm gì. Mày có kể lại với ai thì đó là do mày biết, chớ không phải tao nói nghe chưa. Mày đổ thừa cho tao, tao chối đấy.

Tôi làm thuận, sợ ông bạn già giận nên hồi lâu mới tìm cách trấn tĩnh hắn:

- Nói thiệt chớ tôi không biết gì hết. Tôi chọc anh kể nghe chơi.

- Chơi! Chuyện vậy mà mày cho là chơi à?

- Chiến tranh mà anh Hai. May ai nấy nhờ, rủi ai nấy chịu, chớ ai muốn ông Sáu thọ nạn làm chi. Mà rủi ổng chết rồi, cũng không nên giấu làm gì. Trước sau rồi thiên hạ cũng biết, không phải ở trong Nam này biết mà thôi đâu mà ngoài Hà Nội người ta cũng biết. Và biết rồi.

Hai Ninh ngớ ra:

- Sao mau vậy được?

- Tôi không biết bằng cách nào, nhưng ngoài đó đã biết hết rồi. Hiện Củ Chi cũng biết. Cái gì mình càng giữ bí mật thì càng bật mí. Anh có nghĩ rằng Bảy Phán nó biết không? Nếu nó biết thì Mỹ cũng biết. Mỹ biết thì cả thế giới biết chớ bịt sao được?... Hiện giờ có cả lô trung tá, đại úy từ ngoài Hà Nội vào để tăng cường cho Quân Khu mình. Tôi có dịp gặp một vài người ở Q16 và E268 mới tới bổ sung. Trong câu chuyện chuyên môn họ trao đổi với tôi, họ có ló mòi, do đó tôi đoán là ngoài Hà Nội trong hàng tướng tá đã biết cái tin này.

(Quả thật tôi đoán không sai, chừng sáu tháng sau cái chết của Sáu Di, báo Hà Nội đăng cáo phó đại tướng Nguyễn Chí Thanh đau tim, đảng hết lòng cứu chữa nhưng không khỏi. Rồi sau báo Nhân Dân đăng tin Hồ chủ tịch một cơm bà Nguyễn Chí Thanh... Hai cái tin này đủ xác nhận chuyện gì rồi! Bọn Công Sản thường hay giấu như mèo giấu... Nhưng chúng giấu rồi chính chúng bới ra!)

Tôi cố phục rượu ông trưởng ban H7 (tôi trưởng ban H6, ngang cấp nhau mà! Nên ông ta không ngại lắm). Tôi bảo:

- Hồi nãy anh nói Mỹ đui là sao anh Hai?

- Thôi thằng cu con, đừng có dụ nai tơ lên nó đục gân.

- Ông mà "nai tơ" hả? ông đục gân tôi thì có. Thôi dẹp cái vụ kia đi, ông kể cho tôi trận B52 nghe để tôi rút kinh nghiệm chút.

- Rút kinh nghiệm cái con... bà gì. Nó rắc trúng thằng nào thằng ấy chịu chớ kinh nghiệm gì. Bộ mày chưa đội sao mày hỏi tao?

- Đội nhưng mới vỡ lòng chừng ba bốn trận thôi, sao bằng anh đã lên đại học.

Hai Ninh nổi quạu ngay:

- Thằng Sáu Huỳnh gần đây cho tin vịt hoài.

- Sao vậy anh?

- Nghe theo nó chạy hộc gạch, rồi chẳng có đếch gì cả. Tệ hơn nữa, chạy đến nơi lại đút đầu ngay trận cho nó nện trúng ngay chóc. Mới vừa rồi đây, tụi tao bị một cú rục tùng. Còn chút nữa tao cũng xí lắt léo rồi.

- Hèn chi cái miệng của anh hơi lệch cán cân.

- Giỡn hoài mày! Kỳ đó nếu thằng Mỹ nó rải tới thêm một tấm.thảm nữa thì rụm cả hầm. Nhưng không hiểu sao nó lại rải ngang.

- Anh nói sao tôi không hiểu gì hết.

Hai Ninh ngồi xổm xuống đất lấy que vẽ nguệch ngoạc:

- Vậy nè! Thay vì kéo dài ra nó lại mở rộng mày hiểu chưa? Trước đây thì nó cũng rải liền mí như đợt trước rải xong, đợt bắt từ mí mà rải tới, đợt ba rải tới nữa, như vậy thành tấm thảm hình chữ nhật dãy dọc. Không biết sao mấy chục trận gần đây nó lại rải bề ngang. Nghĩa là ô đầu tiên ở đây, ô kế là bên phải, ô kế là bên trái hoặc bên phải không ai đoán được. Rồi ô kế cũng không biết bên nào để mà chạy. Chạy nhanh cũng có thể kịp. Hoặc chạy tới, chạy lui hoặc tạt qua phải, hoặc qua trái. Có khi liều mạng, ‘chạy tới chỗ nó vừa "trải xong, mình ngồi". Nhưng bây giờ nó rải loạn xị không có lề lối nguyên tắc gì nữa, nó rải.cả trên ô nó vừa rải. Cho nên tốt nhất là năm mím dưới hầm mà cầu Trời khẩn Phật thôi.

- Thằng Mỹ nó linh động lắm anh Hai à! Đánh với nó bằng bộ binh cũng vậy chớ không riêng gì B52 mà thôi đâu. Pháo binh còn ác nữa. Có khi nó bắn cả trăm, cả ngàn, cả chục ngàn trái. Có khi chỉ một trái. Một ngàn không trúng ai mà một trái lại chết cả hầm.

- Thôi tao đi nhé Trễ rồi!

- Gì mà gấp vậy anh! Còn chút dưới đáy bình toong và mấy con tép, anh làm một cái cho ngọt rồi chia tay. Coi như mình ăn Tết con khỉ già rồi đó anh Hai.

- Đường dây vừa làm xong, nó bỏ tiêu hết rồi.

- Nó nào?

- B52 chớ nó nào. Ở trên bảo phải làm nhanh cho kịp.

- Kịp gì?

- Kịp gì ai biết kịp gì. Nhưng không có cái đéo gì trong tay hết trơn, báo cáo lên, ở trên bảo khắc phục. Dây điện chớ phải dây chuối đâu mà khắc. Tao cần năm chục ngàn thước mà chưa có thước nào.

- Vậy anh chọc cho Mỹ ném xuống cho anh như Khổng Minh lấy tên của Tào Tháo vậy.

Trời chiều ráng mọc đỏ ối. Rừng thẫm lại trông rất thê lương. Một thằng bạn già trông càng thê lương hơn. Hai Ninh cắm cúi đi. Tôi ngó theo. Tưởng đó chính là mình, mình sẽ như thế, không lâu.

Hai cậu liên lạc Nông và Quyết mắc võng toòng teng dưới một thân cây đổ nằm ngủ ngon lành. Ở đây vào thời điểm này là vậy. Ăn nhậu, chơi bời, hò hét, ngủ nghê được phút nào hay phút ấy, để rồi biết đâu trong nháy mắt tan xương.

Ai ngờ một ông đại tướng hét ra lửa như Sáu Di mà chết như một con vịt bị phang vỡ sọ ngay trong ao nhà.

Ba mươi năm qua, 1967-1995, bây giờ khi ngồi viết những trang hồi ký này tôi vẫn còn nhớ nguyên câu chuyện kể của Hai Ninh và lời dặn "đừng cho ai biết". Thiên hạ đã biết cả rồi. Nhưng có lẽ còn một điều chưa ai biết. Một cái dấu hỏi nghi ngờ. Có bàn tay bí mật nào theo dõi hắn ta từ Hà Nội vào tận đây để thừa cơ hạ thủ chăng?

Cái gì mà Cộng Sản chẳng dám làm. Chúng giết Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn và những ai khác nữa, thì sợ gì mà không chơi tên Sáu Di. Tên này nhờ Hồ nâng đỡ có vẻ lấn lướt ông đại tướng Quảng Lạc kia. Thù hận của những kẻ có súng ống em út trong tay bộc phát ghê gớm. Staline giết Kirov bằng tay một tên Bolchevik khật khùng, ám sát đại tướng Frunze trên bàn mổ. Mao Trạch Đông giết Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài bằng tay mụ đàn bà.

Thì Việt Cộng ngán gì ai mà không dám làm. Nhất là ở giữa rừng sâu, chỉ có cóc nhái mới rõ được. Nhưng đau đớn cho mụ góa răng đen mỏ quạ ở Hà Nội ăn cơm với Hồ chủ tiệm mà chẳng rõ được nguyên do cái chết của chồng mình. Nhưng cũng đáng đời cho một tên cướp. Cái xác hắn không biết có về tới Hà Nội không? Theo nhiều luồng dư luận xầm xì thì hai cái xe thồ xác ông đại tướng đã không đến được Minốt.

Bạn đọc hãy giở bản đồ ra xem sẽ thấy từ Long Nguyên (nơi có cái hầm của Sáu Di) về tới Tây Ninh, qua biên giới Việt Miên là bao xa? Rồi từ đó qua tới Minốt là bao xa nữa. Ít nhất 100km, mà là đường rừng. Và đường rừng nát bét vì B52. Phải qua những điểm nóng và luôn luôn bị trực thăng soi, đuổi, canh chừng không hở của sư đoàn 5 Sài Gòn. Từ Long Nguyên muốn qua biên giới Cao Miên phải qua suối Ván Tám rồi suối Bà Chiêm, xong phải vượt sườn núi Cầu sát đường 14 là cái chốt thường trực của sư đoàn 5. Nếu không qua được núi Cầu phải trở về suối Bà Chiêm để đi lên suối Ngô. Từ đó dưới có thể lên Bổ Túc (chỗ tôi và Tôn Sứt thực tập DKZ). Từ Bổ Túc mới đi Kà Tum. Xong đoạn đường này mới mong qua được Minốt.

Riêng từ Bổ Túc đến Minốt cũng phải mất hai ngày nếu xe đạp êm xuôi không bị bom pháo, lính ruồng ngăn cách. Còn từ Long Nguyên đi Minốt nếu đạp xe trong rừng và không bị bom đạn cũng mất ít nhất bốn ngày. Nên nhớ lúc Sáu Di bị nhánh cây thọt bể đầu là vào cuối năm 1967, tất cả các mặt trận đều sôi động hằng giờ hằng phút. Nếu cố công thồ thì ít nhất phải một tiểu đội xe đạp chạy băng dưới bom đạn.

Một cái xác bó ny lông, phơi sương phơi nắng trong bốn ngày thì sẽ ra sao? Cho rằng cái xác này có được ướp như xác Lê nin đi nữa thì cũng không tránh khỏi ruồi nhặng bu theo và khi đến Minốt thì chắc là...

Một cái nhánh cây lạ lùng!

Nhưng dù ai giết hoặc trời hại tên giặc đầu đỏ mặt vuông miệng quai xách này thì có cũng là một sự may mắn vô vàn cho dân tộc. Vì nếu hắn còn sống thì chính hắn sẽ là tổng bí thư thay cho me xừ Duẩn, chớ không phải anh gà tồ Nguyễn Văn Linh đâu. Hắn là tên tội phạm trong Cải Cách Ruộng Đất và chủ trương ép nông dân vào hợp tác xã. Hắn sẽ còn tàn bạo hơn cả Lê Duẩn chớ không thua chút nào. Hắn thù trí thức, văn nghệ sĩ, nhất là dân Sài Gòn, hắn chửi thẳng vô mặt hồi tôi làm "anh hùng rởm" đọc diễn văn ở đại hội Mừng Công trên R năm 1964.

Viết đến đây tôi bỗng nhớ một chuyện nhỏ về hắn ở Hà Nôi. Hắn có hỗn danh là tên mặt sắt vì mặt hắn đen sì. Trong một buổi tiệc tùng chi đó có các bà phu nhơn thiếu tướng trung tướng đến dự nữa. Bà nào cũng khăn mỏ quạ răng đen mút chỉ, riêng bà Phạm Kiệt lại son phấn quần áo sang trọng. Phạm Kiệt là dân khu 5 được phong thiếu tướng chỉ huy lực lượng công an võ trang đóng tổng hành dinh gần bờ sông Hồng.

Hắn vô sau cùng. Cả buổi tiệc đứng lên. Hắn mặc áo sơ mi lụa trắng cho phản xì nước da lãnh đạo của hắn, không đeo lon gáo gì cả. Huấn từ xong, hắn đảo mắt qua các bà phu nhơn. Bà của hắn thì cú sụ như bà cán gáo già cóp. Bên cạnh đó lại là bà Phạm Kiệt mặt hoa da phấn rực rỡ tương phản vô cùng. Hắn bèn trỏ mặt bà ta và bảo tướng Phạm Kiệt:

- Vợ anh ăn mặc như một con đĩ!

Cả bữa tiệc sửng sốt vì lời "thân ái" của một ông đại tướng và là lãnh tụ đảng. Riêng bà Kiệt xấu hổ bỏ đi ra khỏi phòng tiệc, trong lúc hắn vẫn tiếp tục xỉ vả bà ta và rêu rao bốn đức tính cần kiệm liêm chính.

Hắn cũng ghét Võ Nguyên Giáp, đến không nhìn mặt nhau. Hắn càng ghét văn nghệ sĩ, nhất là Nhân Văn Giai Phẩm, cho họ là những tên phá đám. Trong lúc Nhân Văn Giai Phẩm bùng nổ to, một lần hắn đến huấn từ cho văn nghệ sĩ ở viện mạ kền của Hoài Thanh hô hào chống Mỹ, hắn cương:

- Dù phải chống Mỹ đến một triệu năm chúng ta cũng chống.

(Hồ chủ tiệm có nói... "năm năm, mười năm hay lâu hơn nữa ", còn hắn lên tới một triệu năm! Ghê gớm thay ông đã đại tướng bần cố).

Văn nghệ sĩ tức cười nhưng bụm miệng.

Ra về, đạp xe song song với tôi, Nguyễn Tuân hỏi:

- Ông có nghe đồng chí ấy nói gì không?

- Dạ có chớ.

- Quelle notion de chiffres! Ông ta có khái niệm thế nào về những con số?

- Dạ, triệu năm là một triệu năm!

.... Những chuyện lãng xẹt như thế cũng còn nhiều nhưng ghi ra đây càng thêm mất mặt bầu cua của đảng. Xin trở lại chuyện Củ Chi. Ủa, không phải! Củ Chi đã mất sạch rồi. Bây giờ tôi đang ở Bến Cát trên đường về yết kiến ông tư lệnh Ba Đình, tức là Ba Xu, nghĩa là "Ba Đình giá có Ba Xu". Đâu mà rẻ hơn cá ươn thế, ít nhất cũng năm, sáu xu, một cắc chớ?

Thằng Nông và thằng Quyết dẫn tôi đi, vì B52 càn tan tành, tôi không nhận ra đây là đâu. Thằng Quyết bảo:

- Đây có thể là Đường Long.

- Tại sao?

- Vì mình chưa băng qua trảng Suối Cát. Qua suối đó mình mới lên thẳng Phú Bình.

Mặc cho nó dẫn đi đâu tôi theo đó. Hồi chín năm tôi đã từng ở vùng này và còn trẻ như hai đứa nó, bây giờ trở lại già ngắt mà cách mạng chưa tới đâu. Vậy hồi đó nghe mấy câu chúc Tết của cụ Hồ, các ông to bà nhỏ đọc rung đùi muốn đứt võng. Ai cũng mơ tưởng:

Rượu đào không. Sum vầy cũng không mà chỉ có máu đào con khỉ Mậu Thân và ly tán tang thương thôi cụ ạ!

Tôi sốt ruột về Củ Chi nên thay vì chờ tối để băng qua Suối Cát như Năm Lê dặn, tôi bảo hai cậu cứ dắt tôi chạy càn. Chỉ chừng hai cây số trống thôi mà mệt muốn đứt hơi như lúc đoàn ăn trộm vượt ngọn sông Bến Hải. Qua cú chạy việt dã này tôi mới thấy sức lực của tên Thiên Lôi bắt đầu sa sút như Chí Phèo sau một trận say đã cảm thấy mùa thu của đời mình.

Lúc mặt trời sắp lặn thì chúng tôi tới bìa một khu rừng. Đứng lại lấy hơi, xong tôi hỏi đây à rừng nào? Thằng Quyết lắc đầu:

- Rừng nào cũng như rừng nào, em không biết. Anh coi đó cây không còn lá làm sao nhớ tên được.

Tôi mới nhận ra. Cành cây khẳng khiu, chơ vơ không có lá. Dưới gốc lá khô đơm vun mà không có dấu chân người.

- Nó rải hóa học hồi nào vậy tụi bay?

- Em đâu biết. -Thằng Quyết nói- Anh đứng đây, em và thằng Nông vô báo với trạm gác.

- Đi mau kẻo biệt kích nó chơi tao.

- Ở đây là bảo đảm anh không có thứ đó. Nhưng anh phải đứng xích lại đằng kia, đừng đứng ở mối đường làm lộ bí mật.

- Cái thằng!

Nó dạy tôi. Nhưng tôi cũng nghe lời nó mà di chuyển cách đó chừng một trăm thước. Vừa đứng yên thì gặp mấy cô tíu tít đi qua. Một cô reo lên:

- Anh Hai đi đâu lạc đây?

- Nhỏ nào đó?

- Em đây, anh không nhớ à?

- Em nào cái bụng thè lè vậy?

- Trời ơi? Anh không nhận ra em sao? Lam nè!

(Nói vậy chớ sao tôi không nhận ra. Hai chiếc nhẫn có khắc chữ "L" má nàng đem vô cho hai đứa ở Ràng mà! Quên sao được, nhưng thấy nàng đang mang bầu tâm sự nên tôi đóng kịch cho qua đi cái tâm sự não nề).

Lam đứng lại quay ngang, còn cô kia thì vui vẻ:

- Bộ anh Hai quên em rồi hả?

- Thảo, ủa không... Đứa nào anh nhớ mài mại.

- Quỷ anh chớ nhớ mài mại nữa!

- Anh oánh giặc riết rồi chỉ còn nhớ Mỹ.

- Đào hầm chung với em mà quên được à nghen.

- Em Lan hả? Nhiều Lan quá...

- Không, em là Phượng.

- À nhớ rồi! Kỳ đào hầm gặp xương Cao Đài ở dưới gốc trúc. Vậy mà anh tưởng em... Mai ở trên trảng Đồng Rùm.

- Đồng Rùm ăn B52 nát tan hết rồi.

- Sao đi qua đây chỗ nào cũng nghe cũng thấy cũng đội B52 hết vậy cà? Chắc anh phải lộn về Củ Chi quá! Mà em vô cơ quan hồi nào vậy?

- Lâu rồi. Em có lên R mới biết Đồng Rùm bị B52 đó chớ. Sông Bà Hảo bây giờ không qua được. Lò Gò Xóm giữa Kà Tum Kà Tiếc gì em đều có đi hết. Bây giờ em mới ở luôn trong cơ quan, khi nào em mời anh ghé chơi.

Còn một cô nãy giờ đứng ngó tôi, thấy cô Phượng dứt lời mới xen vô:

- Còn em nữa, nhớ hay quên, ủa ủa nữa coi! Quỷ anh đâu á!

- Anh xin lỗi là quên tuốt rồi.

- Anh mà nhớ ai làm chi.

- Ai đâu tự giới thiệu coi.

- Thơm nè.

- À Thơm...

- Thơm nào? Để em nhắc cho. Hồi anh trên R về, vô K29 gặp chú Tám Quang và chú Tám Hà ở Gót Chàng. Vừa tới nơi bị đầm già liếc bắn rốc kết nhớ chưa?

- Nhớ rồi. Còn Thảo đâu?

- Nó theo chú Tám Quang đi Rừng Sát rồi. Còn em mắc đi học y tá trên R, nếu không chắc cũng dính vô đó.

- Không dính vô đó thì dính chỗ khác.

- Thôi đi tụi bay ơn -nàng Lam giục.

- Ừ đi thì đi!

Lam không chào hỏi tôi thêm câu nào. Có lẽ nàng đau khổ. Nhưng tôi hiểu nàng. Kỳ đó sau khi về H6 nàng được phân công đi cơ quan khác. Ít lâu sau tôi ra chỉ huy bộ binh, coi như đã đứt đoạn tơ lòng. Rồi thời cuộc dồn dập ào ạt xua tới, tôi đâu có nghỉ ngơi phút nào. Hơn nữa tôi là con ngựa bà không muốn trao dây cương cho riêng một ai cầm giữ... Bây giờ thì nàng đã yên nơi. Có lẽ chiếc nhẫn nàng đang đeo kia, có chữ "L" là tên Lam (thay vì tên Lôi), còn chiếc kia cũng mang chữ:’L" là tên "Lôi" (thay vì tên "Lam") hiện đang trên tay của Là (cũng là "L") chớ không có trên tay nàng mà cũng không có trong túi tôi.

Thôi vậy cũng là êm đẹp. Nàng đã có chồng và sắp có con. Tôi càng mừng chớ không buồn và trách móc gì hết (tại duyên phận chúng mình nó như thế Lam à!)

Hai thằng nhóc trở ra. Một cậu đi trước dắt đường. Còn đứa đi sau thì vừa đi vừa sụt lùi khỏa lá cây nguyên lại như cũ. Nhưng làm sao tránh được dấu chân trên lá nát. Biệt kích Kangoroo ở Trường Sơn đi bằng gậy, nó phóng những bước da ba, bốn thước, chớ còn bước thường như mình đây thì lá nào còn nguyên? Tụi Mỹ nó tinh vi lắm, thấy một lá nát là nó dò tìm dấu ngay.

Cây rừng trụi. lá. Không khí hắc mùi hóa học. Tôi đoán chắc chúng khai quang khu này ngót một năm nên mùi hóa học hơi phai đi, chớ nếu còn mới thì thở vào sẽ nghe khô phổi như ở Trảng Cỏ mấy năm trước.

Thằng bé chỉ khỏa sơ một khúc đường rồi đi xõng lưng. Con đường mòn càng sâu vào trong càng rõ rệt, không có quân ngũ nào khỏa lá cho kịp. Kẻ ra người vào liền xì chớ có phải một hai người thôi đâu.

Một cái giếng được đậy nắp gỗ rất kín. Chắc là đề phòng hơi hóa học. Tôi biết gần đến nơi rồi.

Ông Tư Lệnh từ sau ngày được bọn tôi cứu khỏi "địa đạo", ở Phú Mỹ Hưng càng lặn sâu, lặn kỹ. Ông không còn đóng chốt ở nhà dì Ba nữa là phải lắm. Nếu diên trì ở đó thì chắc chắn không thoát trận chụp của Võ Văn Phán vừa rồi. Ông ấy có tính cẩn thận và phòng xa, tôi biết từ hồi chín năm. Tuy ít khi bị bom, nhưng bao giờ ông cũng bắt nhân viên đào hố cá nhân. Cả hai bà phu nhân (vợ ông và vợ Tô Ký) cũng phải đào. Hai bà mới được một cái hố cạn như mèo quào, cho nên kỳ đó thằng bé Lôi mới ngồi chắn miệnghầm mà bị miểng bom chạm vai cũng ở vùng Long Nguyên Bà Tứ này. Bây giờ ông đâu có được nghênh ngang cưỡi ngựa đi từ đây xuống tận Bến Súc để quan sát trận địa như hồi 1947 nữa.

Đối với Mỹ ngày nay, thằng Tây hồi chín năm chỉ là một đám trẻ con. Nếu Mỹ bây giờ là Tây thời đó thì nó đã bị chúng tôi xơi tái dễ dàng. Nhưng khổ vậy, Mỹ là Mỹ chớ không phải là Tây, càng không phải là con hổ giấy như Mao xếnh xáng nói.

Gặp lại anh Ba mình kỳ này coi bộ ảnh xuống gà quá cỡ. Vừa gầy vừa xanh và cặp mắt mất thần, bộ râu quai nón rất đẹp ngày xưa nay đã thành cái chổi xể rối ren như đầu óc của ông vậy, còn tóc thì một bên trắng một bên tro. Làm tướng như ông khổ thật mà rồi chết uổng thân, lon gáo ai mang, ông chỉ được đứng ở Ngã Ba Chú Ía gác đường cho các đồng chí "nhớn" đến thăm em (có đường đeo bảng hiệu Trần Đình Xu ở Sè Goòng thay đường Phát Diệm cũ).

Anh nói ngay:

- Khu ủy (chớ không phải Quân Khu) điều động cậu về làm quận đội trướng Củ Chi, và thường vụ khu ủy đã đồng ý.

Tôi không hỏi lý do lý diếc gì, chỉ hỏi cho có lệ:

- Anh Ba chỉ thị tôi về đó phải làm gì trước nhất?

Anh không trả lời mà hỏi lại tôi:

- Cậu có rành loại hỏa tiễn giàn mướp Liên Xô không.

- Dạ, tôi có dùng nó gác trên bệ DKZ 75 để bắn từng phát thẳng vào mục tiêu cố định. Đó gọi là trực xạ. Chớ không bắn vào mục tiêu rộng lớn. Đó gọi là gián xạ, nghĩa là bắn vòng cầu vào các khu quân sự, như sân bay hoặc kho quân nhu.

- Vậy không dùng để pháo kích Đồng Dù hoặc Trung Hòa được à?

- Dạ, đó không phải là loại vũ khí để pháo kích. Chỉ dùng nổ để bắn xe tăng, tàu, lô cốt...

- Sao vậy?

- Dạ, bắn gián xạ thì độ tản mác của nó rất lớn. Có thể sai biệt từ 800m đến 1000m, cho nên chúng tôi chỉ bắn mục tiêu trong vòng một cây số, còn xa hơn thì không bảo đảm chính xác. (Nói rõ ra là pháo kích trật lại chỉ chết dân).

- Vậy thì mình hì hục tải xuống đây, cất giấu chỉ toi công.

Nhưng có lẽ ông Tư Lệnh cảm thấy không nên nói vậy trước mắt thuộc cấp, nên trớ qua bằng một giọng hằn học:

- Các cậu quan niệm vũ khí vô sản còn nặng mùi tư bản lắm, phải sửa đổi mới được, còn không sẽ đi chệch lập trường.

- Dạ!

Tôi nói nhỏ rí. Bụng nghĩ không nên cãi lại. Có lẽ ông Tư Lệnh cũng không rõ khả năng và tác dụng của loại hỏa tiễn này. Ông Tư Lệnh đã vượt qua được cơn chới với, ngon trớn tiếp ngay:

- Các cậu cầm quân không nên chỉ thấy có tiếng nổ và xác địch. Có khi không có tên địch nào chết mà một tiếng nổ có tác dụng hơn cả trận đánh lớn. Cậu thử tướng tượng một trái hỏa tiễn phóng vào đô thị, dù không trúng cứ điểm quân sự, nhưng tiếng nổ của nó ảnh hưởng tới tinh thần đồng bào bao lớn? Dù phải hy sinh vài người, vài chục người dân thì cũng tốt như thường. Chiến tranh vốn là như thế mà! Kỳ rồi cậu pháo kích Trung Hòa và Đồng Dù hy sinh một B trưởng và vài cậu du kích phải không? Không tính sự tổn thất của địch là bao nhiêu, đạn cà nông nổ tung, trực thăng, xe tăng bị cháy v.v... Chỉ có cái vang âm của những trái pháo của cậu mà thôi. Nó to lớn cỡ nào cậu có biết không? Nó bay vô tới Sài Gòn và sang tận nước Mỹ kia đấy. Rồi ba thằng kép Mỹ, ba con đào Mỹ phản chiến nó sẽ nhao nhao lên... Cậu có biết con đào lủng của Mỹ nó sang tận Hà Nội chiêu hàng phi công Mỹ ở Hỏa Lò không? Hàng chục triệu dân Mỹ đang chống chính phủ Mỹ. Mình đánh bao nhiêu trận, chết bao nhiêu lính cũng không đạt được kết quả đó cậu ạ. Cậu rõ chưa nào?

- Dạ rõ ạ!

- Vậy thì giàn mướp giàn bầu giàn bí gì cũng chơi ráo. Miễn cho nó nổ được trong đô thị thì đó là thắng lớn. Chiến tranh là giết người. Bên nào giết nhiều thì bên đó thắng.

Tôi làm thinh. Từng sử dụng các loại pháo ở Hà Nội tôi biết rõ... Nhưng còn dám nói gì khi ông Tư Lệnh đã bảo như thế. Nghĩa là còn có nước thi hành. Bố thằng nào dám lý luận khác với ông.

Ông Tư Lệnh nói thêm:

- Bây giờ cậu về Củ Chi làm quận đội trưởng nhưng tôi giao quyền cho cậu điều động các D của Quân Khu hiện ở Củ Chi, kể cả Q16, nhằm phục vụ một việc. Là pháo kích một lần nữa Trung Hòa và Đồng Dù. Nhưng lần này dùng hỏa tiễn giàn mướp chơi tụi nó.

- Dạ!

Ông giơ tay chặn ngang:

- Cậu phải đem nó vào ấp chiến lược Cây Bài để bắn tụi trực thăng, hạ tại trận ít nhất vài ba chiếc. Cây Bài ở sát Đồng Dù không xa hơn một cây số. Vậy bắn trực xạ được chứ?

- Dạ được ạ!

(Được nhưng không về được đứa nào. Cũng như pháo kích sân bay Biên Hòa xong, đội đặc công 69 của Huỳnh Thành Đồng sống mây thằng, súng vác về được mấy cây?)

Ông lại tiếp:

- Đó là việc thứ nhất. Còn việc thứ hai là tập trung tất cả du kích, dũng sĩ tái lập lại D7 Củ Chi theo biên chế chánh quy, cũng do cậu chỉ huy luôn. Ngoài cậu ra tôi không thấy có ai làm hai việc đó kết quả. Cậu nghe rõ chưa?

- Dạ rõ ạ!

- Việc thứ ba là giúp cho hậu cần Quân Khu cất giấu đạn pháo và một số đầu đạn hỏa tiễn DKB để chuẩn bị kế hoạch mới của R do Quân Khu đảm nhiệm phần lớn, trong tương lai rất gần. Cậu lập lại cho tôi nghe cả ba công việc đó xem nào.

Tôi lập lại ron rót như trả bài.

Vừa đến đó thì một cô gái xuất hiện. Cô đến đeo vai ông Tư Lệnh, nhõng nhẽo:

- Ba, ba ăn cơm chưa để con dọn lên?

Ông trỏ vào tôi bảo:

- Con hỏi anh này thì rõ? Con biết ai đó không?

Cô bé lắc đầu. ông bảo:

- Không có ảnh, con không ra đời được, đừng nói chi ngày nay làm y tá.

Rồi quay lại tôi, ông tiếp:

- Con nhỏ hồi má nó có bầu, nhờ mày đỡ miếng đạn đó Lôi. Bây giờ bây lớn đó.

- Dạ.

- Nó vừa học xong lớp y tá tao kêu về đây. Để ở trên đó B52 nhộn nhạo quá trời.

Cô bé bưng cơm lên. Vừa cầm đũa, ông hỏi tôi:

- Còn vợ con mày chưa tính sao Lôi? Tình anh em tao hỏi thiệt, mày đừng phiền tao nhé!

- Dạ,. bận công tác luôn, có lúc nào nghỉ đâu anh Ba!

- Còn vụ mấy đứa nhỏ cửa dì Ba (ông kêu bằng dì Ba, sợ lộ bí mật với con gái), mày không chấm đứa nào à?

- Dạ, em đâu dám chê, anh Ba, nhưng người ta chân guốc chân giày chớ đâu có đi dép cao su uống nước giếng như mình mà vô được, anh Ba!

- Vậy tao nghe chúng nó nói với nhau, con Khánh nó nói mày đã hứa với nó rồi.

- Dạ, em đâu có hứa.

- Mày giấu tao hoài!

- Dạ, em không có hứa, chớ em đâu có dám giấu anh Ba.

- Vậy tao hỏi thiệt, mày không có để ý đứa nào sao? Nếu có, con nhỏ ở cơ quan nào, tao tạo điều kiện cho hai đứa ở gần nhau.

- Dạ, thưa thiệt anh Ba, em không có ý định gì hết.

- Mày đã 34, 35 gì rồi mà chần chờ hoài sao được. Cha mẹ già cần có cháu bồng. Mày rước bà già vô kỳ đó có vui không?

- Dạ vui chớ, thưa anh Ba.

- Còn vụ thằng em mày, thôi dẹp đi. Không có bày đặt vận động cái gì hết. Thằng Chín Lộc chọc cứt không nên lỗ ở đây nó có làm ra trò gì đâu. Tao cho nó về trên R rồi.

Tôi sợ thon thót khi ông nhắc tới thằng em đại úy Thủy Quân Lục Chiến của tôi, may quá ông gạt sổ rồi. Nhẹ cái thân tôi.

Trước khi từ giã, ông bất tay tôi, còn căn dặn:

- Rán cẩn thận nghe "em"! (một lần duy nhất ông gọi tôi bằng tiếng ấy). Nếu có để ý nơi nào cho tao hay, tao giúp được gì sẽ giúp.

Tôi bước lên khỏi hầm, đầu óc lâng lâng. Một ông tư lệnh Quân Khu ở dưới hầm sâu hai thước trong một khu rừng trụi lá vì hóa học. Bên cạnh có một đứa con gái đẻ ra và lớn trong chiến tranh. Hình ảnh đó không bao giờ phai nhạt trong đầu tôi.

(Không biết sau cái chết bất ngờ của ông Sáu, anh Ba cho con gái về coi sóc món ăn thức uống cho cha, hay vì bể ổ với dì Ba mà chị Ba cho con gái về đây kiểm tra ông bố?)

Tôi bảo thằng Nông và thằng Quyết tìm chỗ cho tôi nghỉ tạm qua đêm. Chúng bảo:

- Đêm là giờ của đám cô hồn tụi em mà nghỉ gì anh. Anh ra Bến Chùa có thủ trưởng chúng em ở đó chờ!

Thế là ba chân bốn cùng tôi theo chúng ra Bến Chùa. Cái khu phố tử địa nhưng đối với những kẻ gan cóc tía thì coi đó là khu nghỉ mát hòa bình và tình ca tươi mát. Chín Nữa đã phục kích sẵn ở đó.

- Hề hề... Tao bảo tụi nó, mày làm xong việc với anh Ba thì đưa về đây cho tao.

Tôi có ông dượng thiệt bảnh. Đi đâu cũng gặp. Đánh trận nào cũng bị thương, nhưng không chết, cũng không cưa cắt gì hết. Và chuyện gì dượng cũng giễu cợt được hết.

- Mày có định làm rể ông Tư Lệnh không?

- Thôi dượng ơi! Đầu quăn tóc rối đâu có hợp với cách mạng.

- Không! Tho nói là con gái ruột của ông kia chớ không phải Tam Nương trong qu?