Chương 96 Phụ Đề Tên Tướng Đầu Đỏ
Trên tờ Tuổi Trẻ số đặc biệt 30 tháng Tư 1995 xuất bản ở Sài Gòn, tên bồi Văn Phác đã khai thật hành vi ăn trộm của tổ chức gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, thực ra là quân Bắc Việt cầm cán chớ không phải Quân Giải Phóng nào cả.
Bức hình mà chúng tôi cho in kèm theo đây xác nhận sự có mặt của bọn này ở Miền Nam trong mưu đồ ăn cướp Miền Nam từ năm 1964. Tên mặc áo quần sáng ngồi hàng đầu hút thuốc chính là tên "đại tướng đầu đỏ Nguyễn Chí Thanh".
Trước nhất, chúng tôi xin nói sơ qua về lý lịch tên bồi đã tự tố cáo hành vi ăn trộm gà của bè lũ chúng.
Tên hắn là Văn Phác, khi viết bài này thì hắn là thiếu tướng, nhưng lúc được tên Thanh chọn lựa vô Nam để xách dép cho Thanh thì Phác chỉ là thiếu tá, đang làm chủ nhiệm tờ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội ở số 6 Lý Nam Đế, bên cạnh tòa soạn báo Quân Đội Nhân Dân ở đường Phan Đình Phùng.
Trong lúc hai thượng tá Võ Doãn, chủ nhiệm báo Quân Dội Nhân Dân, và Lê Quốc Vinh được đi học Liên Xô và xin ở luôn bên đó không chịu về Việt Nam nữa thì Văn Phác một lòng nâng bi Nguyễn Chí Thanh cho nên được Thanh đề bạt khá nhanh.
Phòng Văn Nghệ Quân Đội bấy giờ có những người chính yếu sau đây: Nguyễn Khai, Phùng Quán, Hồ Phương, Trọng Oánh, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tấn, Thanh Tịnh, Chính Hữu, Tạ Hữu Thiện... Phùng Quán thì nằm trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, Tạ Hữu Thiện thì chống đảng với tác phẩm Lửa Thanh (do nhà xuất bản Lao Động in chớ không phải nhà Văn Học). Nguyễn Ngọc Tấn về Nam lấy tên là Nguyên Thi bị máy bay Mỹ bắn chết ở miền Đông Nam Bộ khoảng năm 65, 66 gì đó. Nguyên Ngọc về khu 5, sau năm 75 trở ra Hà Nội làm chủ nhiệm báo Văn Nghệ trong phòng trào "cởi mở". Vì cởi quá mạnh nên Nguyên Ngọc bị mất chức. Nguyễn Khải là cây bút số một của Ban Tuyên Huấn Trung Ươong, nhưng sau này lại quay ra chống đảng với nhiều bài, trong đó có bài: "Hà Nội dưới mắt tôi: Tiền", thật ác. Còn ông thi sĩ Thanh Tịnh thì theo đảng sát đáy quần.... chúng ta.
Tờ Văn Nghệ Quân Đội do Văn Phác làm chủ nhiệm là tờ nổi tiếng lập trường, chỉ có mấy tên tướng tá đọc và khen thôi, ngoài ra, đến lính cũng không ngó tới. Nhưng Phác ta vẫn cứ ra đều vì có sẵn tiền và nhà in của đảng. Tuy không viết nhưng Phác lại có nhiều "bút danh":Văn Phét, Văn Chó, Phác Cẩu.
Cái bút danh đầu tượng trưng cho tài nói phét của hắn trong cương vị chủ nhiệm. Cái bút danh thứ hai, ba là vì hắn có cái răng khểnh ở mép trái. Nhiều anh em văn nghệ sĩ gọi thẳng là "Phác Chó", có anh em nhã nhặn hơn thì gọi là "Phác Cẩu’, vì không có khả năng viết văn, nhưng lại có quyền sát sanh, quyền tâu cáo lên trên. Hắn không biết gì về văn học, nhưng đảng cần lập trường ngay ngắn để dễ chỉ huy nên hắn cứ là "lãnh tụ" con của đám văn nghệ sĩ quân đội, dưới quyền Ban Văn Hóa Tư Tưởng nằm trong Ban Tuyên Huấn Trung Ương của Tố Hữu. Nhờ "lập trường" vững nên vô Nam hắn được Nguyễn Chí Thanh cho xách dép hầu hạ điếu đóm một thời gian loanh quanh ở R hú hí với các cháu gái nấu cơm, nhưng trước đó hoặc sau này kẻ làm bí thư cho tên đại tướng thầy Ba Nguyễn Chí Thanh là Thuận, mà Phác nói là bác sĩ riêng của Thanh, sự thực không phải. Thuận là phó tiến sĩ đi học Liên Xô về, và vì là người Nam Bộ nên được Thanh xài trong lúc vô Nam Bộ.
Báo Tuổi Trẻ cho biết là năm 1974, Văn Phác làm chủ nhiệm Cục Chính Trị Quân Giải Phóng Miền Nam, từ một tên thiếu tá chủ nhiệm một tờ báo nhèm, lại phóng lên làm chủ nhiệm Cục Chính Trị Quân Giải Phóng? Trong lúc Lê Đức Anh làm Cục Trưởng Cục Tham Mưu, thiệt là lạ! Báo Tuổi Trẻ còn cho biết trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, Phác làm chánh ủy quân đoàn dã chiến 232, quân đoàn đó là quân đoàn nào? Chẳng có quân đoàn (ít ra là một tổ chức gồm mười sư đoàn Corp d’ Armée). Đoàn quân ô hợp Bấc Kỳ vô tới Nam trở thành một đám tàn quân thảm hại mất khả năng chiến đấu, đồng bào trong Nam gọi là "đám lính cứt ngựa" (vì bọn này mặc quần áo màu cứt ngựa) hoặc "lính vịt xiêm" (vì chúng mang dép râu đi như vịt xiêm). Xin mời bạn đọc lời thú tội của tên Văn Phét đăng trên đặc san Tuổi Trẻ số đặc biệt 30 tháng Tư 95 xuất bản ở Sài Gòn nói láo về cái chết của tên giặc đầu đỏ Nguyễn Chí Thanh với tên bài "Chuyện bây giờ mới kể" như sau:
Một ngày cuối tháng Tám 1964 tôi có việc bận ở toà soạn nên về nhà muộn. Hồi đó, tôi đã từ chủ nhiệm tạp chí Văn Nghệ Quân Đội chuyển sang phụ trách báo Quân Đội Nhân Dân. Vào khoảng giữa trưa, bỗng một đồng chí liên lạc hối hả đen đưa tôi một công văn hỏa tốc trong đó chỉ có mấy dòng ngắn gọn của phó chủ nhiệm Tổng Cục Chính Tri Phạm Ngọc Mậu, hẹn 14 giờ tôi vào gặp anh có việc gấp.
Tôi vào cơ quan sớm trước giờ hẹn. Ít phút sau anh Mậu đến.
Anh cười:
- Mình nói cậu biết nhưng phi "bem " tuyệt đôi. Chắc cậu cũng chưa biết anh Thanh đã được phân công thay mặt Bộ Chính Trị vào trực tiếp lãnh đạo chiến trường. Anh đề nghị chọn một số cán bộ đi cùng đợt này, trong đó có cậu đấy. Đã có quyết đinh của Quân ủy Trung ương đây rồi. Hôm nay tôi mời cậu vào là để phổ biến nhiệm vụ.
Mấy hôm sau tôi được triệu tập dự một lớp học đặc biệt. Số cán bộ được tập trung đi B lần này lớn nhất từ trước đến nay, phần lớn là từ cấp tá trở lên, và là cán bộ đơn vị chủ lực gồm đủ mặt các anh tài của bộ binh, pháo binh, công binh, đặc công và đủ cả cán bộ tham mưu, chính trị, hậu cần. Buổi kết thúc, lớp học được Bộ Chính Trị đãi một bữa tiệc mặn tại nhà kịch Bộ Quốc Phòng. Cũng là một buổi kết thúc rất đặc biệt. Có gần đủ mặt các đồng chí trong Bộ Chính Trị và Quân ủy Trung ương đến dự. Và đặc biệt, bác Hồ cũng đến dự buổi gặp mặt này.
Trong buổi liên hoan, riêng tôi cứ thấp thỏm vì sao một nhân vật quan trọng như đồng chí Nguyễn Chí Thanh lại vắng mặt ở đây. Tôi đến hỏi anh Mậu. Anh ghé vào tai tôi nói nhỏ:
- Ông Thanh đã đi bằng đường đặc biệt, vào tới trong đó an toàn rồi, đang điện ra giục các cậu vào gặp đấy. Còn vào làm gì kể cả cậu, tới trong đó anh Thanh sẽ giao nhiệm vụ cụ thể.
Vài ngày sau chúng tôi được lệnh lên đường. Để bảo toàn lực tượng, chúng tôi được chia ra nhiều tốp nhỏ và mỗi tốp đi theo một đường khác nhau. Lúc đó chiến trường đang cần một số cán bộ bộ đội chủ lực có kinh nghiệm vào gấp để xây dựng "quả đấm chủ lực" của Miền nên phần lớn đi bí mật theo đường biển. Tốp năm người chúng tôi cũng được làm một cuộc hành quân mạo hiểm theo đường mòn trên biển. Sau bảy ngày đêm, con tàu bé nhỏ của chúng tôi chẳng khác gì một chiếc lá tre lênh đênh giữa đại dương chất đầy vũ khí, thuốc nổ trong khoang, thêm năm cán bộ đi cùng, đổ bộ trót lọt vào cửa sông Cổ Chiến thuộc tỉnh Trà Vinh. Từ đó chúng tôi chuyển sang đường giao liên trên bộ, lặn lội cả tháng trời ròng rã mới tới trạm đón của R (tên gọi tắt cơ quan Trung ương Cục ở Miền Nam). Chúng tôi được đưa về Cục Chính Trị Miền. Ngay sáng hôm sau, anh Hai Chân (Lê Văn Tưởng) đưa chúng tôi sang gặp anh Thanh ở ban chỉ huy Miền gần đấy.
Anh Thanh niềm nở ra đón chúng tôi vào nhà. Anh vui vẻ giới thiệu nhà xinh xắn do các đồng chí vệ binh dựng lên rất nhanh để anh vừa làm việc vừa ngủ ngay bên hầm trú ẩn. Nhà để trống bốn bề vì ở miền Nam cả đời không có gió bão nên anh Thanh muôn để vậy cho thoáng. Bàn làm việc của anh và ghế đều làm bằng các cây nhỏ ghép lại. Giường cũng bằng cây, có thêm một chiếc võng ny lông mắc vào hai cây cột. Anh ngồi đu đưa trên võng và bắt đầu bằng việc xưng tên:
- Các cậu này! Vào đây vui thật, mỗi người đều được đặt một tên và được phong thứ nữa. Nguyên Chí Thanh bây giờ tên là Sáu Di đấy nhá! Cái tên này cũng có lai lịch, để rồi nói sau. Từ nay câm tiệt gọi tên cúng cơn. Các cậu cũng vậy, đều đặt tên mới và gọi bằng thứ.
Anh vui miệng giới thiệu anh Trần Văn Trà, chỉ huy trưởng ban chỉ huy Miền. là Tư Chi; anh Lê Trọng Tấn, chi huy phó, là Ba Long; anh Trần Độ, phó chính ủy, là Chín Vinh; anh Lê Đức Anh, tham mưu trưng, là Sáu Nam v.v... Một cuộc đặt tên cho chúng tôi diễn ra sôi nổi ngay tại nhà anh. Tôi vốn họ Trần, thấy chưa có nhận thứ tám, nên xin đặt tên mình tà Tám Trần.
Sau đó, anh nói về tình hình và nhiệm vụ cụ thể cho từng người. Trước hết anh hỏi chúng tôi trên đường đi có theo dõi chiến trường Bình Giả không? Cũng nhờ Tổng Cục Chính Trị phát cho mỗi người một cái đài Panasonic của Nhật nên chúng tôi không nên nỗi ù ờ lắm. Sau khi nghe chúng tôi trả lời, anh sảng khoái nhận định: Đây là đòn đầu tiên, trung đoàn chủ lực của ta diệt chiến đoàn Ngụy ngoài công sự. Nhưng ta còn phải vươn lên có nắm đấm chủ lực lớn hơn, mạnh hơn, đủ sức diệt gọn cả tiểu đoàn chủ lực Ngụy trong công sự mới hòng xoay chuyển nổi tình hình. Anh càng nói càng say sưa, hút thuộc lá liên tục. Anh nhắc đi nhắc lại nhiệm vụ cần kíp trước mắt là phải có phong trào chiến tranh nhân dân mạnh. Bỗng anh nắm chặt bàn tay giơ cao trước mặt chúng tôi:
- Nhớ tà phải có quá đấm chủ lực mạnh mới mong nắm chắc phần thắng trong tay.
Sau chiến thắng Bình Giả, đại tướng Nguyễn Chí Thanh lại cùng tập thể Bộ Chỉ Huy quân sự Miền ráo riết chỉ đạo việc chuẩn bị chiến dịch mới. Mọi người đều tâm đắc với lời nhắc nhở của đồng chí chính ủy Quân Giải Phóng Miền Nam là: "Thỏa mãn dừng lại lúc này là có tội, phải thừa thắng xông tới, quyết tâm đập tan chiến lược chiến tranh đặc biệt của địch ". Vào trung tuần tháng t/1965 nổ ra chiến địch lớn Đồng Xoài, lớn về mục đích yêu cầu, lớn về lực lượng tham gia, về thời gian kéo dài của chiến dịch. Một Bộ Chỉ Huy tiền phương được thành lập để trực tiếp đôn đốc kiểm tra, giúp đỡ các đơn vị tham chiến gồm anh Ba Long (Lê Trọng Tấn), anh Chín Vinh (Trần Độ) và anh Năm Thạch (Hoàng Cầm) v.v...
Chính ủy Nguyễn Chí Thanh và chỉ huy trưởng Trần Văn Trà ở chỉ huy sở cơ bản chỉ huy chung các hướng toàn Miền phối hợp với Đồng Xoài.
Trong khi chiến dịch Đồng Xoài đã diễn ra trên địa bàn tỉnh Phước Long, thì quân và dân khu 5 thắng lớn trong trận Ba Gia ỡ Quảng Ngãi. Trong khí thế chiến thắng dồn dập trên khắp các chiến trường, ngay hôm sau, đại tướng Nguyễn Chí Thanh ngồi viết một mạch bài báo lấy tựa đề là Ba Gia gọi Đồng Xoài, phân tích sâu sắc về hai chiến thắng vang dội này với bút hiệu Trường Sơn. Bài báo đã được đài phát thanh Giải Phóng phát đi phát lại nhiều lần và gây được sự chú ý đặc biệt của dư luận trong nước và ngoài nước. Trong bài báo đó, anh Thanh đã nêu bật một nhận đinh có ý nghĩa về chiến thắng Ba Gia-Đồng Xoài, cùng với thắng lợi đánh phá tơi bời chiến lược bình định, gom dân lập ấp chiến lược của địch, là biểu hiện sự phá sản hoàn toàn chiến tranh đặc biệt của Mỹ Ngụy. Chiến thắng Ba Gia-đồng Xoài chứng tỏ quân và dân miền Năm đã giành quyền chủ động trên chiến trường.
Sau đó, anh Thanh còn viết tiếp một số bài nổi tiếng khác, nêu ra nhiều ý kiến mới và sự phân tích sâu sắc của anh như bài "Mỹ giàu nhưng không mạnh..."
Tôi nhớ hoài một buổi đầu tháng Ba 1965, anh gọi tôi lên hỏi:
- Chú có nghe tin gì vừa rồi không?
Tôi chưa kịp trả tời, anh nói ngay:
- Các đài phương Tây vừa đưa tin hôm nay Mỹ đã cho hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến từ Okinawa đô bộ vào Đà Nẵng rồi. Chắc nó còn tiếp tục đổ tiếp quân Mỹ vào nữa. Chú báo ngay cho bên tham mưu theo dõi sát, nắm kỹ tình hình để Bộ Chỉ Huy Miền có cơ sở bàn biện pháp chủ động đối phó...
Tôi nhìn lên tấm lịch treo ở cột nhà. Hôm đó là 9 tháng Ba 1965. Trong buổi giao ban hôm sau ỏ Bộ Chỉ Huy bàn là đi đến kết luận chính xác là phải chuẩn bị thật tốt, bảo đảm chắc thắng chiến dịch Đồng Xoài, đồng thời phải chuẩn bị ngay cuộc đọ sức trực tiếp với quân đội Mỹ trên chiến trường miền Nam Việt Namé
Sau đỏ, anh đã dành nhiều thời gian đi xuống các đơn vị chiến đấu và cơ sở gặp gỡ trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ và nhân dân để mong tỏ ra câu trả lời cho những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra, đặc biệt là việc xây dựng quyết tâm đánh Mỹ trong bước chuyển từ chiến lược chiến tranh đặc biệt sang chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Miền Nam Việt Nam.
Hồi đó đại tướng Nguỹễn Chí Thanh mới ngoài 50 tuổi, còn khoẻ, xông xáo. phương tiện đi lại duy nhất là xe đạp, lại thường phải đi đêm, nhưng anh đạp chẳng thua kém gì chúng tôi. Bộ đô hành quân quen thuộc của anh thường là bộ bà ba đen hoặc nâu, chiếc mủ tai bèo, một đôi bốt ngắn để chông rắn chàm oạp và một khẩu súng ngắn bên sườn.
Cuối năm 1965, được sự chỉ đạo của Trung Ương và Trung Ương Cục. Quân Ủy Miền triệu tập hội nghị mở rộng do đại tướng Nguyễn Chí Thanh chủ trì, để bàn gấp những vấn đề cấp bách đối với chiến tranh cục bộ của Mỹ. Hội nghị có ý nghĩa lịch sử này không tổ chức ở chỉ huy sở của R mà bí mật chuyển ra rẫy sản xuất của cơ quan. Rẫy này nằm ở gần biên giới, rất quang quẽ, thoáng mát. Thỉnh thoảng anh Thanh ra rẩy kết hợp vừa làm việc vừa nghỉ ngơi. Anh em vệ binh làm cho anh một cái nhà nhỏ giữa mấy khóm chuối, xung quanh là những hàng dừa, đu đủ, mía, dọn cỏ sạch, vun đất mới đỏ chói, trông rất vui mắt.
Hội nghị Quân ủy Miền đã diễn ra tại ngôi nhà này. Mở đầu hội nghị, anh Tư Chi (Trần Văn Trà) và anh Năm Thạch (Hoàng Cầm) trình bày tỉ mỉ diễn biến, kết quả và kinh nghiệm sốt dẻo qua những trận đầu tiên của sư đoàn 9 của ta đọ sức với quân Mỹ.
Cuối cùng, đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhấn mạnh nhiệm vụ của công tác chính trị, tư tưởng lúc này là xây dựng cho được quyết tâm đánh Mỹ, quyết tâm đập tan kế hoạch phản công mùa khô 1965-66 của địch.
Trước khi kết thúc, hội nghị Quân ủy Miền nhất trí phát động phong trào thi đua dám đánh và quyết thắng Mỹ với những khẩu hiệu đầy sức sống đã thành câu nói cửa miệng của quần chúng: tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt v. v...
Không mấy chốc phong trào giành danh hiệu dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt Ngụy khởi đầu tư T4 (đặc khu Sài Gòn), nhanh chóng phát triển thành cao trào rộng lớn toàn Miền không sức gì cản nổi.
Nhiệm vụ nặng nề của chiến trường đã làm đồng chí Nguyễn Chí Thanh xuống sức nhanh. Đầu năm l967, anh được Bộ Chính Tri triệu tập ra Hà Nội bàn chiến lược chung của cả nước và kết hợp kiểm tra sức khỏe.
Sau khi chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong chiến dịch Giôn Sơn Xi Ti của Mỹ ở miền Đông Nam Bộ, đại tướng Nguyễn Chí Thanh điện vào Bộ Chỉ Huy Miền cho anh Hoàng Cầm và tôi mang tài liệu ra báo cáo, làm việc xong lại vào.
Chúng tôi về tới thủ đô Hà Nội giữa lúc Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại, không quân Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc hằng ngày.
Một ngày đầu tháng Bảy 1967, đại tướng Nguyễn Chí Thanh gọi tôi và anh Cầm vào làm việc ở Tông Cục Chính Trị. Anh báo kế hoạch trở về B2 và nói rõ thời gian cụ thể là 7 tháng Bảy 1967 anh sẽ đi trước với bác sĩ Thuận (bác sĩ riêng của đại tướng Nguyễn Chí Thanh) bằng đường riêng. Một tuần sau anh Cầm và tôi đi tiếp theo đường cũ của chúng tôi.
Tối 6 tháng Bảy 1967, tôi và vợ tôi đến thăm anh và chị Cúc là vợ anh. Hai anh chị rất vui vẻ tiếp chúng tôi. Anh cho biết sức khỏe của anh rất tốt, không có vấn đề gì. Tôi cũng nghĩ như thế.
Sáng 7 tháng Bảy 67, tôi vào Tổng Cục Chính Trị làm việc với anh Song Hào như đã hẹn. Tôi bước lên cầu thang thì thấy anh Hào đang từ trên gác vội vã đi xuống. Nhìn thấy tôi, anh nói ngay:
- Anh Thanh phải đi cấp cứu rồi. Ta vào 108 ngay xem thế nào?
Tôi giật thót người, đứng sững lại ít phút coi chạy vội ra xe. Khi qua nhà anh, thay chị Cúc đang đứng thẫn thờ ở sân. Tôi rẽ vào hỏi chị:
- Tình hình của anh thế nào chị?
Chị lắc đầu:
- Nguy lắm. Tôi vừa ở dưới ấy về, các bác sĩ không muốn tôi ở luôn dưới đó. Anh cho tôi đi cùng với.
Tôi đưa chị ra xe. Khi tới nơi, các đồng chí lãnh đạo và nhiều người khác cũng đứng đông chật ở cửa buồng mổ. Bên trong chỉ có hội đồng bác sĩ đang làm việc. Không khí nặng nề quá. Tôi lách qua đám được nhìn vào, thấy anh Thanh đang được bơm oxy trên bàn mổ.
Tôi quay ra thì đồng chí Võ Nguyên Giáp vừa đến. Một bác sĩ đưa anh một áo choàng trắng. Anh vào một lúc lâu, khi ra anh ngập ngừng nói với một sô đồng chí đứng gần:
- Anh em bác sĩ rất cố gắng, nhưng khó lắm rồi!
Vừa lúc ấy, bác sĩ Thuận ra, len tới ôm lấy tôi nói trong nước mắt:
- Chúng ta mấtt anh Thanh rồi!
Lúc đó là 8g30 sáng ngày 7 tháng Bảy 1967.
Bệnh nhồi máu cơ tim đã vội cướp đi đại tướng Nguyễn Chí Thanh, trong lúc sự nghiệp cách mạng và kháng chiến rất cần những người lãnh đạo tài, đức vẹn toàn như anh.
Bạn đã đọc hết bài báo của tên Văn Phét. Thật không hổ danh tên nói phét cháu bác Hồ. Nhất là ở đoạn nói về "quả đấm và giành quyền chủ động". Quả đấm là gì? Chủ động gì
Chúng tôi có mặt trên chiến trường Củ Chi, Tây Ninh (chiến trường sôi động nhất vì là cửa ngõ Sài Gòn, mục tiêu tấn công của quân Mỹ, căn cứ Đồng Dù), không thấy lúc nào quân Giải Phóng "đấm" được một cú "coi cho được", mà chỉ bị Mỹ nện cho tơi bời... Các trận Bình Giả, Ba Gia, Đồng Xoài chúng tôi biết rất rành. Các trận này là sự thảm bại của quân Giải Phóng. Quân số các đơn vị tham chiến bị tiêu hao một phần ba hoặc một nửa, nhiều cán binh bị B52 lần đầu đã điên luôn, tuy sống sót về nhà nhưng không sao chữa lành bịnh được. Hai công trường 5.và 9 xơ xác, mất hồn. Thế mà tên Thanh còn lếu láo dám chê "Mỹ giàu nhưng không mạnh". Đó là cách nói lấp liếm nhà nghề của Việt Cộng.
Về cái chết của tên bần cố nông này, tên Văn Phác càng tỏ ra là một tên Đại Phét. Hắn phịa ra một đoạn gượng ép dối trá để che lấp cái chết thê thảm của tên đại tướng đầu đỏ Chúng tôi đã viết về cái chết này ở trong bộ hồi ký 2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi, tập IV (sắp tái bản) và tập này nói rõ mảnh đất mồ chôn hắn. Sự thực nơi hầm trú ẩn cho Bộ Chỉ Huy Tiền Phương R trong chiến dịch Mậu Thân 68 không cần phải B52 oanh tạc, mà chỉ pháo của sư đoàn 5 bộ binh Sài Gòn cũng đủ đập tan. Nhưng quả thật B52 có oanh tạc vùng kế cận, ngôi hầm này không bị tổn thương, nhưng tên đại tướng này lại bị "trời đánh". Số là sau khi đợt bom đã dứt hẳn thì Bộ Chỉ huy R và Bộ Tư Lệnh Quân Khu IV từ dưới hầm chui lên để xem tình hình và dời đi chỗ khác, không hiểu sao một nhánh cây từ trên cao gãy ngang và rơi xuống chọc ngay óc o của hắn, làm hắn ngã xuống và chết nay không kịp trối một tiếng nào.
Tôi được Tư Linh, trưởng ban Địch vận Khu cho biết, lúc y chạy đi tìm phương tiện để "cứu cấp". Sau đó xe thồ chở một bọc ny lông chạy đi qua Mi Nốt để trực thăng từ Phnom Penh đến chở về đó, rồi máy bay Hà Nội vào đem về "cứu cấp". Hy vọng đại tướng sẽ được cứu sống ở bệnh viện 108 và bác sĩ Thuận nào đó không phải rơi nước mắt ôm Văn Phác mà kêu rằng:"Chúng ta đã mất anh Thanh!" như me xừ Phét kể lể một cách láo khoét.
Chưa chắc cái xác của tên đại tướng đã được đưa về tới Hà Nội, vì từ hầm trú ẩn ở Long Nguyên mà sang Minốt phải mất bốn ngày xe thồ. Còn từ đấy về tới Hà Nội thì không biết mất bao lâu nữa. Có người bàn rằng sở dĩ hắn chết thê thảm như vậy là vì xui xẻo. Số là trước đó vợ hắn ở Hà Nội vô (cũng bằng máy bay qua ngõ Mi nốt, có giải phóng quân võng về R thì bắt được ngài đại tướng rà rê với cô cháu gái cưng yêu là vợ cố anh hùng đặc công Nguyễn Văn Trỗi, bà ta nổi tam bành bỏ về Hà Nội, và ông tướng đi Củ Chi để kiểm tra tình hình chiến trường chuẩn bị Tết Mậu Thân, chẳng dè lại vong thân.