PHẦN MỘT (A) PHẦN VỀ CÁC NHÀ PHÊ BÌNH
Bốn người bọn họ gặp lại nhau ở một hội nghị văn học Đức đương đại tổ chức ở Salzburg năm 1996. Espinoza và Pelletier có vẻ rất vui. Norton, ngược lại, giống như một nữ hoàng băng giá, thờ ơ trước những tặng vật văn hóa và vẻ đẹp của thành phố. Morini xuất hiện cùng chất ngất sách và bài làm cần phải chấm, như thể hội nghị Salzburg nhằm lúc anh đang bận nhất mà họp.
Cả bốn người được xếp ở chung khách sạn. Morini và Norton ở tầng ba, trong hai phòng lần lượt là 305 và 311. Espinoza ở tầng năm, phòng 509. Và Pelletier ở tầng sáu, phòng 602. Khách sạn bị chiếm cứ, theo đúng nghĩa đen, bởi một dàn nhạc giao hưởng Đức và một ca đoàn Nga, lúc nào cũng có tiếng nhạc ầm ĩ ở các hành lang và trên các cầu thang, lúc to lúc nhỏ, như thể các nhạc công không bao giờ ngừng ngâm nga những khúc dạo đầu hay như thể một sự ứ đọng về tinh thần (và âm nhạc) đã chiếm lĩnh khách sạn. Espinoza và Pelletier không phiền tí nào, còn Morini dường như không để ý, nhưng Norton thì tuyên bố, đây là thứ, một trong nhiều thứ mà cô sẽ không kể ra, khiến Salzburg thành ra một chỗ nhơ nhớp như thế.
Đương nhiên, cả Espinoza lẫn Pelletier đều không ghé phòng Norton lần nào. Thay vào đó, căn phòng mà Espinoza ghé tới (một lần) là phòng Pelletier, và căn phòng mà Pelletier ghé qua (hai lần) là phòng Espinoza, hai bọn họ hào hứng như trẻ con khi nghe được cái tin đang lây lan như đám cháy rừng, như đám cháy hạt nhân, dọc các hành lang và suốt các cuộc họp tổ chức trong hội nghị, rằng Archimboldi là ứng cử viên cho giải Nobel năm ấy, không chỉ là nguyên do để các học giả Archimboldi khắp nơi vui mừng mà còn là một chiến thắng, một minh chứng rõ rành rành, lớn đến nỗi ở Salzburg, tại quán bia Red Bull, trong một đêm của nhiều lời chúc tụng, hòa bình được tuyên bố giữa hai phe học giả Archimboldi, tức là, giữa Pelletier và Espinoza với Borchmeyer, Pohl và Schwarz, họ quyết định từ đó trở đi, với sự tôn trọng dành cho những khác biệt và phương pháp diễn dịch của nhau, kết hợp các nỗ lực của họ và từ bỏ động thái phá hoại, về thực tế nghĩa là Pelletier sẽ không còn phủ quyết việc đăng các tiểu luận của Schwarz trên các tạp chí mà anh kiểm soát, và Schwarz sẽ không phủ quyết việc đăng tải các nghiên cứu của Pelletier trên các tạp chí mà Schwarz được tôn kính như thánh.
♣ ♣ ♣Morini, không hào hứng như Pelletier và Espinoza, là người đầu tiên chỉ ra rằng cho đến bây giờ, ít nhất trong chừng mực anh biết, Archimboldi chưa bao giờ đoạt một giải thưởng quan trọng nào ở Đức, cho dù là giải thưởng của các đơn vị bán sách, giải thưởng của các nhà phê bình, giải thưởng của độc giả, hay giải thưởng của các nhà xuất bản, giả định có giải đó, điều này có nghĩa là người ta có quyền mong đợi rằng, khi biết Archimboldi được cân nhắc giải thưởng lớn nhất của văn chương thế giới, các đồng hương người Đức của ông, ngay cả chỉ để cho an toàn, sẽ trao cho ông một giải thưởng quốc gia hay giải thưởng tượng trưng hay giải thưởng danh dự hay ít nhất một tiếng đồng hồ phỏng vấn trên truyền hình, nhưng những chuyện đó đều không xảy ra, khiến các học giả Archimboldi thêm giận dữ (lần này thì đoàn kết), và họ thay vì ngã lòng vì những đối xử tệ hại mà Archimboldi tiếp tục gánh nhận, đã nhân đôi những nỗ lực của mình, bị khích động trong sự bực dọc và bị thúc giục bởi sự bất công mà một nhà nước văn minh đối xử với - theo ý họ - không chỉ nhà văn xuất sắc nhất còn sống ở Đức, mà còn là nhà văn xuất sắc nhất còn sống ở châu Âu, và chuyện này khơi mào cho dồn dập các nghiên cứu văn chương và thậm chí nghiên cứu tiểu sử của Archimboldi (người ta biết về ông quá ít đến nỗi có thể coi như chưa biết gì), chuyện này đến lượt nó thu hút thêm người đọc, hầu hết bị hút hồn không phải vì tác phẩm của nhà văn Đức mà bởi cuộc đời hay phi-cuộc-đời của một nhân vật độc đáo như thế, điều ấy đến lượt nó biến thành một phong trào truyền miệng làm tăng doanh số đáng kể ở Đức (một hiện tượng không phải không liên quan đến sự hiện diện của Dieter Hellfeld, thành viên mới nhất của nhóm Schwarz, Borchmeyer và Pohl), rồi đến lượt nó tạo ra động lực mới cho các bản dịch và việc phát hành lại các bản dịch cũ, tuy không bản nào biến Archimboldi thành nhà văn có sách bán chạy nhất nhưng đã đẩy ông lên, trong vòng hai tuần, vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng sách bán chạy ở Ý, và vị trí thứ mười hai ở Pháp, cũng trong hai tuần, và mặc dù không bao giờ lọt vào danh sách ở Tây Ban Nha, một nhà xuất bản ở đó mua bản quyền một số tiểu thuyết vốn vẫn thuộc về các nhà xuất bản Tây Ban Nha khác và bản quyền đối với mọi cuốn sách của nhà văn chưa được dịch sang tiếng Tây Ban Nha, và bằng cách này một dạng Tủ sách Archimboldi bắt đầu thành hình, cũng không phải là một thương vụ tồi.
♣ ♣ ♣Ở quần đảo Anh, phải nói rằng, Archimboldi rõ ràng vẫn là một nhà văn bên lề.
♣ ♣ ♣Trong những ngày nháo nhào này, Pelletier tình cờ đọc được một bài viết của nhà văn người Swabia anh từng gặp ở Amsterdam. Trong bài này người Swabia đó đơn giản lặp lại những gì ông ta đã kể cho họ về chuyến viếng thăm của Archimboldi đến thị trấn vùng Frisia và bữa tối sau đó với người phụ nữ từng đi Buenos Aires. Bài viết được đăng trên tờ Reutlingen Morning News có khác với câu chuyện gốc ở chỗ nó thuật lại cuộc trao đổi giữa người phụ nữ và Archimboldi, bằng giọng hài hước đầy nhạo báng. Cuộc trò chuyện bắt đầu với việc bà hỏi ông là người ở đâu. Archimboldi đáp ông là người Phổ. Bà hỏi tên của ông có phải là tên quý tộc, thuộc dòng dõi quý tộc địa chủ người Phổ. Archimboldi đáp có thể lắm. Rồi bà thì thào cái tên Benno von Archimboldi, cứ như cắn đồng tiền vàng để thử. Sau đó ngay lập tức bà nói nghe có vẻ không quen thuộc lắm và bà nhắc một vài cái tên khác, để xem Archimboldi có nhận ra hay không. Ông nói ông không nhận ra, tất cả những gì ông biết về Phổ là những cánh rừng.
“Tuy vậy tên của ông có gốc Ý,” người phụ nữ nói.
“Pháp,” Archimboldi đáp. “Người Huguenot.”
Nghe vậy, người phụ nữ bật cười. Bà từng rất đẹp, người Swabia nói. Kể cả khi đó, trong ánh sáng mờ mờ của quán rượu, trông bà vẫn đẹp, mặc dù khi cười mấy cái răng giả trượt ra và bà phải lấy tay chỉnh lại. Tuy vậy, cử chỉ ấy khi do bà thực hiện hoàn toàn không phô. Phong thái tự nhiên và thoải mái của bà khiến ngư dân và nông dân đều mang lòng quý mến, tôn trọng. Đã từ lâu, bà là quả phụ. Thỉnh thoảng bà cưỡi ngựa trên các đụn cát. Những lúc khác bà vẩn vơ đi trên những con đường nhỏ lồng lộng gió thổi vào từ Bắc Hải.
♣ ♣ ♣Một sáng nọ trong bữa ăn ở khách sạn trước khi đi Salzburg, Pelletier mang bài báo của nhà văn người Swabia ra bàn luận với ba người bạn của mình, ý kiến và diễn dịch của mọi người khác nhau đáng kể.
Theo Espinoza và Pelletier, nhà văn người Swabia có thể là tình nhân của người đàn bà kia vào thời điểm Archimboldi đến giới thiệu sách. Theo Norton, tùy thuộc vào tâm trạng và người nghe là ai, nhà văn Swabia sẽ kể ra một dị bản về các sự kiện, và biết đâu bản thân ông ta thậm chí không còn nhớ điều gì thực sự đã được nói ra và điều gì thực sự xảy ra trong thời điểm lịch sử ấy. Theo Morini, tay người Swabia là bản đóng thế xấu xí của Archimboldi, người anh em song sinh, âm bản của một bức ảnh đã in cứ phóng to ra, trở nên mạnh mẽ hơn, trấn áp hơn, không bao giờ mất mối liên kết của nó với âm bản (vốn lại trải qua quy trình ngược lại, dần dần thay đổi bởi thời gian và số phận), hai hình ảnh dường như vẫn giống nhau: hai chàng trai trẻ trong những năm kinh hoàng và mọi rợ dưới thời Hitler, cả hai đều là cựu binh Đệ nhị Thế chiến, cả hai đều là nhà văn, cả hai là công dân của một quốc gia phá sản, cả hai đều là những gã hoang đàng trôi dạt vào thời điểm gặp nhau và nhận ra con người nhau (bằng cách xấu xí của mình), Archimboldi là một nhà văn đang vật lộn, còn tay người Swabia là một “người xúc tiến văn hóa” ở một thị trấn mà văn hóa gần như không phải là một mối quan tâm nghiêm túc.
Thậm chí có thể nào cái người Swabia đau khổ và (tại sao không) đáng khinh kia là Archimboldi không? Người hỏi câu này không phải là Morini mà là Norton. Và câu trả lời là không, bởi người Swabia đó, trước hết, lùn và vóc người mỏng mảnh, không phù hợp chút nào với mô tả về ngoại hình của Archimboldi. Giải thích của Pelletier và Espinoza hợp lý hơn nhiều: người Swabia là tình nhân của quý bà cao quý kia, ngay cả khi bà đáng tuổi bà ngoại của ông ta. Tay người Swabia lê gót mỗi chiều đến nhà quý bà từng đi Buenos Aires ấy, để ních đầy bụng các món thịt nguội, bánh quy và trà. Tay người Swabia xoa bóp lưng cho góa phụ của viên cựu đại úy pháo binh, trong khi mưa quất vào cửa sổ, một trận mưa vùng Frisia buồn thảm khiến người ta muốn khóc, và mặc dù mưa không làm cho người Swabia khóc, nó khiến ông ta tái nhợt, và ông ta lại gần cửa sổ gần nhất, đứng đó nhìn ra cái đang khuất sau màn mưa mù mịt, cho đến khi quý bà kia gọi ông, đầy quyền uy, và người Swabia quay lưng lại cửa sổ, không hiểu sao mình đi tới đó, không biết mình hy vọng nhìn thấy gì, và chỉ vào phút giây đó, khi không còn ai ở bên cửa sổ nữa và chỉ còn một ngọn đèn thủy tinh màu nho nhỏ cuối phòng leo lắt, nó xuất hiện.
♣ ♣ ♣Cứ như thế những ngày ở Salzburg nhìn chung là dễ chịu, và mặc dù năm đó Archimboldi không được giải Nobel, trong mắt bốn người cuộc sống diễn tiến êm đềm, trôi theo dòng sông tĩnh lặng của khoa tiếng Đức các trường đại học châu Âu, không phải là không hứng phải một thất vọng này nọ nhưng rốt cuộc chúng đơn giản chỉ thêm chút tiêu, chút mù tạt, chút giấm vào những cuộc đời ngăn nắp, hay những cuộc đời trông ngăn nắp nhìn từ bên ngoài, mặc dù mỗi người đều phải mang theo một cây thánh giá của riêng mình, như bất cứ ai khác, trong trường hợp của Norton là một cây thánh giá kỳ lạ, ma mị và tỏa ánh lân tinh, vì Norton thường xuyên ám chỉ, một cách hằn học, về chồng cũ như một mối đe dọa lẩn quất, gán cho anh ta những xấu xa và lỗi lầm của một con quỷ, một con quỷ bạo lực đầy kinh dị nhưng là con quỷ không bao giờ hiện hình, một con quỷ chỉ gợi ra qua hình ảnh thay vì hành động, mặc dù bằng lời lẽ của mình Norton cố hiện thực hóa sinh thể mà cả Espinoza lẫn Pelletier chưa bao giờ nhìn thấy này, như thể chồng cũ của cô chỉ tồn tại trong giấc mơ của họ, cho đến khi Pelletier, vốn sắc sảo hơn Espinoza, hiểu rằng những chỉ trích thiếu suy xét của Norton, danh mục vô tận những kêu ca, không là gì ngoài một hình phạt cô tự áp đặt cho mình, có lẽ vì sự tủi nhục do đã phải lòng một gã si độn như thế và còn cưới gã làm chồng. Pelletier dĩ nhiên sai.
♣ ♣ ♣Đâu đó trong quãng thời gian này, Pelletier và Espinoza, lo lắng về tình trạng hiện tại của người tình chung, đã có hai cuộc trò chuyện dài trên điện thoại.
Cuộc thứ nhất do Pelletier gọi, kéo dài một tiếng mười lăm phút. Sau khi nói chuyện được một tiếng rưỡi, Pelletier bảo Espinoza gác máy vì cuộc gọi rất đắt tiền và anh sẽ gọi ngay lại, nhưng Espinoza khăng khăng từ chối.
Cuộc nói chuyện thứ nhất khởi đầu gượng gạo, mặc dù Espinoza đã chờ mong cuộc gọi của Pelletier, như thể cả hai thấy khó mà nói những điều sớm muộn gì họ cũng phải nói. Hai mươi phút đầu tiên nhuốm màu bi kịch, khi từ số mệnh được dùng mười lần và từ tình bạn hai mươi tư lần. Tên của Liz Norton được nói ra năm mươi lần, với chín lần trong tuyệt vọng. Từ Paris được nói bảy lần, từ Madrid, tám. Từ yêu được nói hai lần, mỗi người nói một lần. Từ kinh khủng được nói sáu lần và từ hạnh phúc một lần (Espinoza nói). Từ giải pháp được nói mười hai lần. Từ duy ngã bảy lần. Từ uyển ngữ mười lần. Từ hạng mục, cả số ít và số nhiều, chín lần. Từ cấu trúc luận một lần (Pelletier). Từ văn học Mỹ ba lần. Các từ bữa tối, ăn, bữa sáng hay sandwich mười chín lần. Các từ mắt, tay hay tóc mười bốn lần. Rồi cuộc trò chuyện tiếp diễn trôi chảy hơn. Pelletier kể cho Espinoza một chuyện tiếu lâm bằng tiếng Đức và Espinoza bật cười. Thực tế, cả hai cùng cười, gói lại trong những bước sóng hay bất cứ thứ gì kết nối giọng nói họ và tai họ qua những cánh đồng tối tăm cùng gió và tuyết trên dãy Pyrénées và những dòng sông, những con đường và những khu ngoại ô cách biệt và vô tận bao quanh Paris và Madrid.
♣ ♣ ♣Cuộc trò chuyện thứ hai, dài hơn cuộc thứ nhất rất nhiều, là cuộc trò chuyện giữa những người bạn đang làm hết sức mình để dứt điểm bất cứ điểm mù mờ nào có thể họ đã bỏ sót, một cuộc trò chuyện từ chối mang tính chuyên môn hay logic và thay vào đó chạm tới những chủ đề chỉ mong manh kết nối đến Norton, những chủ đề không liên quan gì đến những dâng trào của cảm xúc, những chủ đề dễ dàng khơi ra và sau đó bỏ rơi khi họ muốn quay lại chủ đề chính, Liz Norton, người mà, đến khi cuộc gọi thứ hai gần kết thúc, cả hai nhận ra không phải là Nữ thần Thịnh nộ phá hủy tình bạn của họ, vận áo đen với đôi cánh lấm máu, mà cũng không phải nữ thần Hecate, người khởi đầu là vú em, chăm sóc trẻ em, và rốt cuộc học thuật phù thủy và tự biến mình thành thú vật, mà là thiên thần củng cố vững chắc cho tình bạn của họ, mạnh mẽ chỉ ra cho họ những gì họ đã biết bấy lâu, những gì họ giả định bấy lâu, rằng họ là những sinh vật văn minh, có khả năng sở hữu những tình cảm cao quý, không phải hai thằng ngốc mất phẩm giá vì công việc nhàm chán lặp đi lặp lại, không, đêm đó Pelletier và Espinoza khám phá ra rằng họ rộng lượng, rộng lượng đến nỗi nếu đang ở cùng nhau chắc chắn họ sẽ muốn đi chơi và ăn mừng, lóa mắt bởi ánh sáng của phẩm hạnh của mình, một ánh sáng có thể không kéo dài (bởi phẩm hạnh, một khi được nhận ra trong chốc lát, không tỏa sáng mà lại cư trú trong một cái hang tối giữa những cư dân của hang, một vài người thật ra nguy hiểm), và vì thiếu việc ăn mừng hay ăn uống ầm ĩ họ ca ngợi phẩm hạnh này với lời hứa thầm về tình bạn vĩnh cửu, và đánh dấu tuyên thệ này, sau khi cả hai gác điện thoại trong căn phòng ken cứng sách của mình, bằng cách thong thả nhấm nháp whiskey và ngắm màn đêm ngoài cửa sổ, có lẽ vô thức tìm kiếm những gì mà nhà văn người Swabia đã hoài công tìm kiếm bên ngoài cửa sổ người góa phụ.
♣ ♣ ♣Morini là người cuối cùng biết, đúng như người ta dự đoán, mặc dù trong trường hợp của Morini phép toán tình cảm không phải lúc nào cũng có hiệu quả.
Thậm chí trước khi Norton lên giường lần đầu với Pelletier, Morini đã cảm thấy điều ấy sẽ xảy ra. Không phải vì cách Pelletier cư xử khi ở bên Norton mà bởi sự tách biệt của cô, một sự tách biệt chung chung, mà Baudelaire hẳn sẽ gọi là u uất, Nerval sẽ gọi là sầu muộn, khiến Norton dễ dàng lao vào một mối quan hệ gần gũi với bất kỳ ai xuất hiện.
Còn Espinoza, dĩ nhiên, anh đã không đoán ra. Khi Norton gọi cho anh nói rằng cô đi lại với cả hai người, Morini ngạc nhiên (mặc dù anh hẳn sẽ không ngạc nhiên nếu Norton nói rằng cô đi lại với Pelletier và một đồng nghiệp ở Đại học London hay thậm chí một sinh viên), nhưng anh che giấu tài tình. Rồi anh cố nghĩ về những việc khác, nhưng không thể.
Anh hỏi Norton cô có vui không. Norton nói có. Anh bảo cô anh nhận được một email từ Borchmeyer kèm theo tin tức nóng hổi. Norton có vẻ không quan tâm lắm. Anh hỏi cô có nghe tin gì của chồng không.
“Chồng cũ,” Norton nói.
Không, cô không nghe tin gì của hắn, nhưng một người bạn cũ đã gọi cho cô bảo rằng chồng cũ của cô đang ở với một người bạn cũ khác. Morini hỏi liệu người đàn bà đó có phải là một người bạn rất thân. Norton không hiểu câu hỏi.
“Bạn thân nào?”
“Người đang ở với chồng cũ của em,” Morini nói.
“Cô ta không ở với hắn, cô ta trợ giúp hắn, điều đó hoàn toàn khác.”
“À,” Morini nói, và anh cố thay đổi đề tài, nhưng bất thành.
Có lẽ mình nên nói với cô ấy về bệnh trạng của mình, anh cay đắng nghĩ. Nhưng điều đó, anh không bao giờ làm.
♣ ♣ ♣Đâu đó trong quãng thời gian này, Morini là người đầu tiên trong nhóm đọc được một bài báo về các vụ giết chóc ở Sonora, đăng trên tờ Il Manifesto của một nhà báo Ý đi Mexico để tường trình về lực lượng du kích Zapatista. Anh nghĩ tin đó thật kinh khủng. Ở Ý cũng có những kẻ giết người hàng loạt, nhưng hầu như chúng không bao giờ giết hơn mười người, trong khi đó ở Sonora số người chết đã vượt quá một trăm.
Rồi anh nghĩ về người phóng viên của tờ Il Manifesto và anh chợt nhận ra sự lạ lùng rằng cô ta đã tới Chiapas, cực Nam của Mexico, và rốt cuộc cô ta lại viết về những sự kiện ở Sonora, mà nếu anh không nhầm, ở miền Bắc, Tây Bắc, trên biên giới với Hoa Kỳ. Anh tưởng tượng ra cô đi bằng xe buýt, một quãng đường dài từ Mexico City đến những vùng sa mạc miền Bắc. Anh tưởng tượng ra cô nói chuyện với Subcomandante Marcos. Anh tưởng tượng ra cô ở thủ đô của Mexico. Ai đó ở đó hẳn đã kể với cô về những chuyện xảy ra ở Sonora. Và thay vì lên chuyến bay kế tiếp bay về Ý, cô quyết định mua vé xe buýt và cất bước trên một chuyến đi dài tới Sonora. Trong giây lát, Morini cảm thấy một khao khát hoang dại được đồng hành cùng người phóng viên đó.
Mình sẽ yêu cô ấy đến tận thế, anh nghĩ. Một tiếng sau anh đã quên sạch sẽ sự việc.
♣ ♣ ♣Một lát sau anh nhận được email của Norton. Anh thấy lạ Norton viết email mà không gọi điện. Đọc thư rồi, anh mới hiểu rằng cô cần diễn đạt ý nghĩ của mình càng chính xác càng tốt và đó là lý do cô quyết định viết. Trong thư cô xin anh tha thứ cho cái mà cô gọi là sự vị kỷ của mình, một sự vị kỷ bộc lộ ra qua việc suy ngẫm về những điều không may của chính cô, cho dù có thật hay tưởng tượng. Cô nói tiếp rằng cuối cùng cô đã giải quyết xong vụ cãi cọ lình xình với chồng cũ. Những đám mây đen đã biến mất khỏi đời cô. Giờ đây cô muốn vui vẻ và ca hát [trích nguyên văn]. Cho đến có lẽ tuần trước, cô viết thêm, cô vẫn yêu hắn, và bây giờ cô có thể chứng thực rằng phần dĩ vãng mang theo hắn trong cô đã ở lại phía sau cô mãi mãi. Đột nhiên em yêu quý công việc của em, cô nói, và yêu quý tất cả những thứ nho nhỏ hằng ngày khiến con người ta hạnh phúc. Và cô cũng nói: em muốn anh, Piero kiên nhẫn của em, là người đầu tiên biết tin.
Morini đọc bức thư ba lần. Lòng nặng nề, anh nghĩ Norton sai lầm biết bao khi nói tình yêu, chồng cũ và mọi thứ họ đã trải qua cùng nhau nay đã ở phía sau cô. Không có gì ở phía sau ta bao giờ.
♣ ♣ ♣Pelletier và Espinoza, trong khi đó, không nhận được những chia sẻ như thế. Nhưng Pelletier để ý thấy một điều mà Espinoza không thấy. Những chuyến đi London-Paris đã trở nên thường xuyên hơn những chuyến Paris-London. Thường thường, Norton xuất hiện cùng một món quà - tập tiểu luận, cuốn sách nghệ thuật, catalog của những triển lãm mà Pelletier sẽ không bao giờ xem, thậm chí áo sơ mi hay khăn tay - chuyện trước đây chưa bao giờ xảy ra.
Ngoài ra, mọi thứ vẫn như thế. Họ vần nhau, đi ăn tối, bàn luận tin tức mới nhất về Archimboldi. Họ không bao giờ nói về tương lai của mình như một cặp đôi. Mỗi lần Espinoza xuất hiện trong cuộc trò chuyện (hiếm khi), cả hai sử dụng một giọng điệu cực kỳ khách quan, cẩn trọng và trên hết, thân mật. Có những đêm họ ngủ thiếp đi trong vòng tay của nhau mà không làm tình, một điều Pelletier đoan chắc không xảy ra đối với Espinoza. Nhưng anh nhầm, vì quan hệ giữa Norton và Espinoza thường là hình ảnh trung thực của quan hệ giữa Norton với Pelletier.
Những bữa ăn thì khác, ở Paris ngon hơn; khung cảnh và cảnh quan cũng khác, Paris hiện đại hơn; và ngôn ngữ cũng khác, bởi với Espinoza, Norton chủ yếu nói tiếng Đức còn với Pelletier chủ yếu tiếng Anh, nhưng nhìn chung tương đồng vượt trội dị biệt. Dĩ nhiên, với Espinoza cũng có những đêm không làm tình.
♣ ♣ ♣Nếu bạn thân nhất của Norton (chẳng có ai) hỏi cô tận hưởng thời gian trên giường với ai hơn trong hai người bạn, Norton sẽ chẳng biết nói gì.
Có lúc cô nghĩ Pelletier là người tình lão luyện hơn. Có lúc cô lại nghĩ Espinoza. Nhìn từ bên ngoài, giả dụ từ góc độ học thuật nghiêm nhặt, người ta có thể cho rằng Pelletier có danh mục tài liệu tham khảo dài hơn Espinoza, người vốn dựa vào bản năng nhiều hơn tri thức trong những vấn đề như vậy, và có bất lợi vì là người Tây Ban Nha, tức là, thuộc về một nền văn hóa có khuynh hướng lẫn lộn chủ nghĩa huê tình với nghiên cứu dâm ô và khiêu dâm với ăn phân, một nhầm lẫn thể hiện rõ (bởi vì không được đề cập) trong thư viện tinh thần của Espinoza, bởi anh chỉ mới đọc Hầu tước de Sade để kiểm tra và (phản bác) một bài báo của Pohl trong đó Pohl rút ra mối liên hệ giữa các tác phẩm Justine và Triết học trong khuê phòng của de Sade với một trong những tiểu thuyết của Archimboldi in hồi thập niên 1950.
Pelletier, mặt khác, đã đọc Hầu tước thần thánh ấy từ mười sáu tuổi và lúc mười tám đã tham gia trò làm tình tay ba với hai nữ sinh viên đồng khóa, và lòng ham mê truyện tranh phong tình ở tuổi thiếu niên đã bừng nở thành một bộ sưu tập hợp lý và chừng mực văn chương phóng túng thế kỷ mười bảy và mười tám. Nói văn vẻ Pelletier gần gũi thân mật với Mnemosyne, nữ thần núi và mẹ của chín nữ thần thi ca, hơn Espinoza. Nói đơn giản Pelletier có thể mần tình sáu tiếng đồng hồ (mà không lên đỉnh) nhờ vào thư mục ấn phẩm tham khảo của mình, trong khi đó Espinoza cũng có thể kéo dài trong thời gian tương đương (lên đỉnh hai lần, đôi khi ba, và kết thúc trong tình trạng ngắc ngoải) hoàn toàn cậy vào sức khỏe và ý chí.
♣ ♣ ♣Nhân nhắc đến những người Hy Lạp, sẽ là hợp lý khi nói Espinoza và Pelletier tin rằng hai người họ sẽ là (và theo kiểu hư hỏng của họ, đã là) những hiện thân của Ulysses, và cả hai nghĩ về Morini như Eurylochus, người bạn trung thành được kể chuyện theo hai cách khác hẳn nhau trong Odyssey. Chuyện thứ nhất, chàng thoát khỏi cảnh bị biến thành lợn, cho thấy sự khôn ngoan hay một bản tính ưa hành động đơn độc và cá nhân, sự hoài nghi thận trọng, độ lọc lõi của một thủy thủ kỳ cựu. Chuyện thứ hai, tuy vậy, liên quan đến một hành vi mạo hiểm bất kính và báng bổ: lũ gia súc của Zeus hay một vị thần uy quyền khác đang hiền hòa gặm cỏ trên hòn đảo Mặt Trời khơi dậy cơn đói cồn cào của Eurylochus, nên bằng những lời lẽ khôn ngoan chàng đã phỉnh phờ các bạn mình giết đám gia súc và bày tiệc, khiến Zeus hay vị thần nào đó nổi giận đùng đùng, bèn nguyền rủa Eurylochus vì chàng ra vẻ kênh kiệu và vì tự phụ là khôn ngoan hay vô thần hay ngông cuồng, bởi vị thần này tức tối vì thái độ của Eurylochus, vì phép biện luận cho cơn đói của chàng, hơn là bản thân hành vi giết thịt đám gia súc, và bởi vì hành động này, hay bởi vì bữa tiệc, mà con tàu chở Eurylochus lật và toàn bộ thủy thủ đều chết, chính là điều mà Pelletier và Espinoza tin sẽ xảy ra đối với Morini, dĩ nhiên không hữu thức, mà bằng một kiểu cách rời rạc hay bản năng, một ý nghĩ đen tối dưới hình thức một dấu hiệu tế vi phập phồng trong một góc tối tăm và tế vi của tâm hồn hai người bạn.
♣ ♣ ♣Gần cuối năm 1996, Morini gặp một cơn ác mộng. Anh mơ thấy Norton nhảy xuống hồ bơi trong khi anh, Pelletier và Espinoza chơi bài quanh chiếc bàn đá. Espinoza và Pelletier quay lưng lại hồ, thoạt nhìn dường như là một hồ bơi khách sạn bình thường. Trong lúc chơi, Morini nhìn sang các bàn khác, những cây dù, và những chiếc ghế dài xếp hai bên hồ. Xa xa là công viên với những bờ cây xanh ngắt, lấp lánh như thể mới mưa xong. Dần dần mọi người bắt đầu ra về, biến mất qua những cánh cửa khác nhau nối không gian ngoài trời, quán bar với các phòng của tòa nhà hay những căn hộ nhỏ, những căn hộ mà Morini tưởng tượng là một phòng đôi có căn bếp nhỏ và phòng tắm. Chẳng mấy chốc không còn ai bên ngoài, ngay cả những hầu bàn chán chường lúc nãy anh thấy lượn quanh cũng không còn. Pelletier và Espinoza vẫn mải mê chơi. Bên cạnh Pelletier anh thấy một đống phỉnh cũng như tiền xu của nhiều nước, nên anh đoán Pelletier đang thắng. Tuy nhiên Espinoza trông có vẻ chưa sẵn sàng đầu hàng. Ngay khi đó, Morini liếc nhìn bài của mình và thấy rằng mình không có gì để chơi. Anh bỏ chúng đi và yêu cầu bốn lá bài, rồi anh úp chúng xuống trên mặt bàn đá mà không nhìn tới, rồi hơi khó nhọc lăn bánh xe đi. Pelletier và Espinoza thậm chí không hỏi anh đi đâu. Anh lăn xe đến mép hồ bơi. Chỉ khi đó anh mới nhận ra nó to đến mức nào. Nó phải rộng ít nhất một ngàn bộ và dài hơn hai dặm, Morini ước tính. Nước sẫm màu, nhiều chỗ có váng dầu, loại ta thấy ở các bến cảng. Không có dấu vết của Norton. Morini kêu to.
“Liz.”
Anh nghĩ mình nhìn thấy một bóng người ở đầu kia hồ, và anh di chuyển xe của mình theo hướng đó. Đó là một quãng đường dài. Lần duy nhất quay đầu lại, Pelletier và Espinoza đã biến mất khỏi tầm nhìn. Một màn sương mù đã phủ lên phần đó của hàng hiên. Anh tiếp tục đi. Nước trong hồ dường như tràn cả lên bờ, như thể đâu đó một cơn lốc sắp nổi lên hay còn tệ hơn, mặc dù nơi anh đang hướng tới mọi thứ tĩnh lặng, và không hề có dấu hiệu của bão. Chẳng mấy chốc màn sương bao phủ cả Morini. Đầu tiên anh cố tiếp tục di chuyển, nhưng rồi anh nhận ra mình có nguy cơ lộn nhào cả xe xuống hồ, nên anh quyết định dừng lại. Khi đã nhìn quen mắt, anh thấy một tảng đá nhô lên từ dưới hồ, như một dải đá ngầm sẫm màu và óng ánh. Đối với anh điều này dường như không lạ lẫm. Anh tiến lại bên mép hồ và réo tên Liz lần nữa, sợ rằng giờ đây anh sẽ không bao giờ gặp lại cô. Chỉ cần bánh xe xoay nửa vòng là anh đã rơi tõm xuống dưới. Rồi anh chợt nhận ra hồ bơi trống rỗng và sâu hun hút, như thể một vực thẳm gạch đen mốc meo mở ra dưới chân anh. Dưới đáy anh dường như nhìn ra hình dạng một phụ nữ (mặc dù không thể khẳng định) đang tiến về phía con dốc đá. Morini định kêu lên lần nữa và vẫy tay thì cảm thấy có ai ở sau lưng. Có hai điều anh biết chắc ngay lập tức: thứ đó là ma quỷ và nó muốn Morini xoay lại nhìn mặt nó. Thận trọng, anh lùi ra và tiếp tục đi quanh hồ, cố gắng không nhìn vào ai đó đang theo sau anh, tìm kiếm cái thang có thể đưa anh xuống đáy. Nhưng dĩ nhiên cái thang, lý ra phải ở góc, không bao giờ xuất hiện, và sau khi lăn đi được vài bộ Morini ngừng lại và quay lại nhìn vào mặt người lạ, cố gắng chế ngự nỗi sợ, một nỗi sợ tệ hại hơn vì anh chắc chắn là biết rõ người đang bám theo mình, người ấy tỏa ra mùi ma quỷ mà Morini gần như không chịu nổi. Trong màn sương, gương mặt Liz Norton hiện ra. Một phiên bản trẻ hơn của Norton - chừng hai mươi tuổi - nhìn chằm chặp thật nghiêm trọng và chăm chú đến nỗi Morini phải nhìn đi chỗ khác. Người dưới đáy hồ là ai? Morini vẫn còn có thể nhìn thấy anh ta hay cô ta, một chấm nhỏ đang cố leo lên tảng đá giờ đã trở thành ngọn núi, và việc nhìn thấy người này, ở quá xa, khiến anh giàn giụa nước mắt và để lại trong anh một nỗi buồn sâu sắc khôn nguôi, như thể anh nhìn thấy mối tình đầu của mình lang thang trong mê cung. Hay chính anh, với cặp chân vẫn còn hoạt động, lạc lối trong một cuộc leo trèo vô vọng. Thêm nữa, và anh không thể không nhận thấy, và thật tốt là anh đã không lảng tránh cái nhận thức này, anh nghĩ nó giống một bức tranh của Gustave Moreau hay Odilon Redon. Rồi anh ngoảnh sang gương mặt Norton và cô nói:
“Không có đường quay lại.”
Anh nghe câu nói không bằng tai mà thấy nó vang lên trong đầu mình. Norton đã thu nhận được sức mạnh thần giao cách cảm, Morini nghĩ. Cô ấy không xấu, cô ấy tốt. Không phải mình cảm nhận thấy ma quỷ, mà đó là thần giao cách cảm, anh tự nhủ, hòng thay đổi chiều hướng một giấc mơ mà tận trong tâm khảm anh biết đã được cố định và không thể tránh khỏi. Rồi Norton lặp lại, bằng tiếng Đức, không có đường quay lại. Và, thật nghịch lý, cô quay người và bước đi khỏi hồ bơi và lạc vào trong một khu rừng hầu như không thể nhìn thấy qua màn sương, một khu rừng tỏa ra ánh sáng đỏ lóng lánh, và chính trong ánh sáng đỏ lóng lánh này Norton biến mất.
♣ ♣ ♣Một tuần sau, sau khi đã diễn giải giấc mơ ít nhất theo bốn cách khác nhau, Morini đi London. Quyết định thực hiện chuyến đi là một thay đổi hoàn toàn so với thói thường của anh, vì anh vốn chỉ đi hội nghị, họp hành, vé máy bay và tiền lưu trú đều do nơi mời thanh toán. Lần này chẳng có lý do công việc nào và anh tự trả tiền vé máy bay và khách sạn của mình. Cũng không thể nói anh đáp ứng yêu cầu giúp đỡ của Liz Norton. Bốn ngày trước anh mới nói chuyện với cô và bảo anh sắp đến London, một thành phố mà lâu rồi anh không ghé.
Norton vui mừng mời anh ở lại nhà cô, nhưng Morini nói dối đã đặt khách sạn. Khi anh hạ cánh ở Gatwick, Norton đã chờ anh ở đó. Hôm đó họ ăn sáng với nhau, tại một quán ăn gần khách sạn của Morini, và đêm đó họ ăn tối ở nhà Norton. Suốt bữa tối, đồ ăn thường thôi nhưng Morini lịch sự khen ngợi, họ trò chuyện về Archimboldi, về danh tiếng đang lên của ông và vô số lỗ hổng trong câu chuyện về ông còn đó chờ lấp đầy, nhưng sau đó, trong khi dùng món tráng miệng, cuộc trò chuyện rẽ sang hướng thân mật hơn, ôn lại chuyện cũ đến tận ba giờ sáng thì họ gọi taxi và Norton giúp Morini đi vào trong buồng thang máy cũ kỹ của tòa nhà, rồi xuống sáu bậc thang, mọi thứ, như Morini nhớ lại trong đầu, đều dễ chịu hơn nhiều so với mong đợi.
Giữa bữa sáng và bữa tối, Morini chỉ một mình, thoạt tiên gần như không dám ra khỏi phòng, nhưng sau đó, chán quá nên anh quyết định ra ngoài và đi đến tận Công viên Hyde, và lang thang không chủ ý ở đó, đắm chìm trong suy tưởng, không chú ý hay nhìn thấy ai. Vài ba người nhìn anh chăm chú với vẻ tò mò, bởi họ chưa bao giờ thấy một người ngồi xe lăn di chuyển với vẻ quyết tâm và với tốc độ ổn định như thế. Khi cuối cùng dừng lại anh thấy mình đang ở bên ngoài Vườn Ý, người ta gọi nó như thế, mặc dù với anh khu vườn không có chút Ý nào, nhưng ai mà biết được, anh ngẫm nghĩ, đôi khi người ta ngờ nghệch đến không thể tin được về những thứ ngay dưới mũi mình.
Anh rút một cuốn sách ra khỏi túi áo khoác và bắt đầu đọc trong khi lấy lại hơi sức. Chẳng mấy chốc anh nghe thấy một tiếng chào cất lên, rồi tiếng một thân hình nặng nề buông xuống băng ghế gỗ. Anh chào lại. Người lạ có mái tóc màu vàng rơm, bạc thếch và bẩn thỉu, và nặng ít nhất phải hai trăm năm mươi pound. Họ ngồi nhìn nhau một chốc rồi người lạ hỏi có phải anh là người nước ngoài. Morini nói anh là người Ý. Người lạ muốn biết liệu có phải anh sống ở London, và hỏi cuốn sách anh đang đọc là cuốn gì. Morini đáp anh không sống ở London và cuốn sách anh đang đọc là Il libra di cucina di Juana Ines de la Cruz, của Angelo Morino, viết bằng tiếng Ý, dĩ nhiên, mặc dù kể về một bà xơ người Mexico. Về cuộc đời của bà xơ và một số công thức của bà.
“Vậy bà xơ Mexico này thích nấu ăn?” người lạ hỏi.
“Nói vậy cũng phải, nhưng bà còn làm thơ nữa,” Morini đáp.
“Tôi không tin được các bà xơ,” người lạ nói.
“À, bà xơ này là một nhà thơ vĩ đại,” Morini nói.
“Tôi không tin được mấy người nấu ăn mà dùng công thức,” người lạ nói, như thể ông ta không nghe thấy anh.
“Vậy ông tin ai?” Morini hỏi.
“Những người ăn khi đói, hẳn là vậy,” người lạ nói.
Rồi ông ta tiếp tục giải thích rằng cách đây lâu rồi ông làm việc cho một công ty sản xuất cốc, mỗi cốc mà thôi, cốc trơn và cốc in những dòng chữ hay chuyện vui vui như: Xin Lỗi, Tôi Đang Trong Giờ Uống Cà Phê! hay Bố Yêu Mẹ hay Chén Cuối Hôm Nay, Chén Cuối Mãi Mãi, đại khái vậy, cốc với những lời ghi trung tính, rồi một ngày nọ, hẳn là do nhu cầu, những dòng chữ ghi trên cốc thay đổi đáng kể và người ta bắt đầu in ảnh, đầu tiên ảnh trắng đen, sau đó công việc kinh doanh tốt đến nỗi người ta chuyển sang ảnh màu, một số hài hước nhưng một số cũng tục tĩu.
“Thậm chí họ còn tăng lương cho tôi,” người lạ nói. “Ở Ý có loại cốc như vậy không?” ông ta hỏi.
“Có chứ,” Morini nói, “có câu tiếng Anh có câu tiếng Ý.”
“Ừm, đó là tất cả những gì mà bọn tôi có thể đòi hỏi,” người lạ nói. “Tất cả bọn tôi đều làm việc vui vẻ hơn. Các quản lý làm việc vui vẻ hơn, và sếp trông vui vẻ. Nhưng sau vài tháng làm những chiếc cốc ấy tôi nhận ra sự vui vẻ của tôi là giả tạo. Tôi cảm thấy vui bởi tôi thấy những người khác vui vẻ và bởi tôi biết mình nên cảm thấy vui, nhưng tôi không thực sự vui. Thật ra, tôi cảm thấy tệ hơn trước khi họ tăng lương cho tôi. Tôi nghĩ mình đang trải qua một giai đoạn tồi tệ và tôi cố không nghĩ về nó, nhưng sau ba tháng tôi không thể tiếp tục giả vờ rằng không có chuyện gì trật chìa. Tâm trạng tôi tệ hại, tôi hung hăng hơn nhiều so với trước đây, bất cứ việc nhỏ xíu nào cũng làm tôi nổi khùng, tôi bắt đầu say xỉn. Nên tôi đối diện với vấn đề đó, và cuối cùng tôi nhận ra mình không thích làm loại cốc này. Đêm, tôi thề, tôi đau khổ như một con chó. Tôi nghĩ mình phát điên, rằng mình không biết mình đang làm gì hay nghĩ gì. Những ý nghĩ của tôi hồi đó bây giờ vẫn còn làm tôi sợ hãi. Một hôm tôi nói chuyện thẳng thắn với một trong các quản lý. Tôi nói mình chán làm những chiếc cốc ngu xuẩn này lắm rồi. Đó là một quản lý tốt, ông tên là Andy, và ông luôn luôn cố gắng trò chuyện với công nhân. Ông hỏi tôi có phải tôi thích làm những chiếc cốc mà trước đây chúng tôi đã làm không. Đúng vậy, tôi nói. Cậu nghiêm túc hả, Dick? ông hỏi tôi. Hoàn toàn nghiêm túc, tôi trả lời. Những cái cốc mới khiến cậu phải làm nhiều việc hơn à? Không hề, tôi nói, công việc vẫn tương đương, nhưng những cái cốc chết tiệt này trước đây không khiến tôi tan tành như thế này? Ý cậu là sao? Andy nói. Là mấy cái cốc gớm ghiếc này trước đây không làm phiền tôi còn bây giờ chúng hủy hoại tôi từ bên trong. Vậy cái của nợ gì làm cho chúng khác đi, ngoài việc hiện đại hơn. Chính xác là vậy, tôi đáp, những chiếc cốc trước đây không hiện đại lắm, và thậm chí nếu cố làm hại tôi, chúng cũng không thể. Tôi không cảm thấy vết đâm của chúng, nhưng bây giờ những chiếc cốc gớm ghiếc này giống như những hiệp sĩ samurai chết tiệt vũ trang bằng những thanh kiếm samurai chết tiệt, chúng khiến tôi phát khùng. Dù sao đó là một cuộc trò chuyện dài,” người lạ nói. “Người quản lý lắng nghe tôi, nhưng ông ấy chẳng hiểu lấy một từ tôi nói. Ngày hôm sau tôi đòi tiền lương rồi nghỉ việc. Từ đó tôi không đi làm nữa. Anh nghĩ sao về chuyện này?”
Morini lưỡng lự trước khi trả lời.
“Tôi không biết,” cuối cùng anh nói.
“Mọi người đều nói vậy: họ không biết,” người lạ nói.
“Bây giờ anh làm gì?” Morini hỏi.
“Không làm gì cả, tôi không làm việc nữa, tôi là một thằng ăn mày London,” người lạ nói.
Cứ như là ông ta đang chỉ ra một điểm du lịch, Morini nghĩ, nhưng anh thận trọng không nói ra.
“Vậy anh nghĩ sao về cuốn sách đó?” người lạ hỏi.
“Sách nào?” Morini hỏi.
Người lạ chỉ một ngón tay núc ních của mình vào cuốn sách, do Sellerio xuất bản, ở Palermo, mà Morini đang hờ hững cầm trên một bàn tay.
“Ồ, tôi nghĩ nó rất hay,” anh nói.
“Đọc tôi nghe vài công thức đi,” người lạ nói, bằng cái giọng mà Morini thấy có vẻ dọa dẫm.
“Tôi không biết mình có thời gian không,” anh nói, “tôi phải gặp một người bạn.”
“Bạn anh tên gì?” người lạ hỏi bằng cùng một giọng như trước.
“Liz Norton,” Morini nói.
“Liz, tên đẹp,” người lạ nói. “Còn anh tên gì, nếu anh không phiền cho tôi hỏi?”
“Piero Morini,” Morini nói.
“Lạ,” người lạ nói, “tên anh gần như y chang tên tác giả cuốn sách.”
“Không phải,” Morini nói, “tôi là Piero Morini, còn ông ta tên là Angelo Morino.”
“Nếu anh không phiền,” người lạ nói, “ít nhất đọc cho tôi nghe tên vài công thức. Tôi sẽ nhắm mắt và tưởng tượng ra chúng.”
“Cũng được,” Morini nói.
Người lạ nhắm mắt và Morini bắt đầu đọc tên vài công thức từ xơ Juana Ines de la Cruz, chậm rãi và với ngữ điệu của một diễn viên.
Sgonfiotti alformaggio
Sgonfiotti alia ricotta
Sgonfiotti di vento
Crespelle
Dolce di tuorli di uovo
Uova regali
Dolce alla panna
Dolce alle nod
Dolce di testoline di mom
Dolce alle barbabietole
Dolce di burro e zucchero
Dolce alia crema
Dolce di mamey
Khi anh đọc tới dolce di mamey, dường như người lạ đã thiếp ngủ và Morini đi khỏi Vườn Ý.
♣ ♣ ♣Ngày hôm sau gần giống hệt ngày đầu. Lần này Norton đến gặp anh ở khách sạn và trong khi Morini thanh toán hóa đơn cô đặt chiếc vali duy nhất của anh vào trong cốp xe. Khi họ rời đi, cô lái đúng con đường mà anh đi đến Công viên Hyde hôm trước.
Morini nhận ra và im lặng ngắm đường phố, và rồi công viên xuất hiện, với anh trông như một bộ phim về rừng già, màu sắc sai lệch, buồn bã kinh khủng, thẫm đen lại, cho đến khi chiếc xe rẽ và biến mất sau những con đường khác.
Họ ăn cùng nhau tại một khu mà Norton mới khám phá, khu này nằm gần sông, từng có vài nhà xưởng và ụ cạn ở đây, còn giờ thì các cửa tiệm, cửa hàng thực phẩm, và nhà hàng thời thượng mở cửa trong các tòa nhà tân trang lại. Một cửa tiệm nhỏ chiếm diện tích tương đương bốn căn nhà của công nhân, Morini tính. Nhà hàng, cho mười hai hay mười sáu người. Có tiếng của Liz Norton ca ngợi khu phố và nỗ lực của những người đưa nó nổi trở lại.
Morini nghĩ rằng từ nổi là sai, bất chấp cái hơi hướm hàng hải của nó. Thực tế, trong lúc ăn món tráng miệng anh thấy như muốn khóc, hay đúng hơn, lả đi, trượt nhẹ khỏi ghế của mình trong khi mắt dán vào gương mặt Norton, và không bao giờ tỉnh dậy. Nhưng bây giờ Norton đang kể câu chuyện về một họa sĩ, người đầu tiên tới sống trong khu này.
Đó là một thanh niên khoảng ba mươi ba tuổi, được biết đến nhưng chưa đến mức nổi tiếng. Lý do đích thực anh ta chuyển tới là bởi giá phòng ở đây thấp hơn những chỗ khác. Ngày ấy khu này kém sôi động hơn. Vẫn còn những công nhân già sống ở đây nhờ vào lương hưu, nhưng không có thanh niên hay trẻ con. Phụ nữ hoàn toàn vắng mặt: hoặc họ đã chết hoặc ở trong nhà cả ngày, không bao giờ ra ngoài. Chỉ có một quán rượu, xập xệ như phần còn lại của khu. Nói tóm lại, một nơi chốn cô đơn, tồi tàn. Nhưng có vẻ như điều này khơi dậy trí tưởng tượng của người họa sĩ và gây cảm hứng cho anh làm việc. Anh ta cũng là một dạng người cô đơn. Nếu không phải, thì cũng là thoải mái với việc ở một mình.
Do vậy khu này không làm anh ta sợ hãi. Thật ra anh ta phải lòng nó. Anh ta thích tối đi về nhà, dạo hết dãy nhà này sang dãy khác mà không gặp người nào. Anh ta thích màu sắc của những ngọn đèn đường và ánh sáng đổ xuống trước các ngôi nhà. Những chiếc bóng di chuyển khi anh ta di chuyển. Những bình minh xám tro hay đen như bồ hóng. Những con người kiệm lời tụ tập trong quán rượu, nơi anh ta là khách quen. Nỗi đau, hay ký ức về nỗi đau, ở đây bị hút đi bởi cái gì đó không tên cho đến khi chỉ còn lại một khoảng trống. Cái nhận thức rằng đẳng thức này là có thể: nỗi đau cuối cùng biến thành sự trống rỗng. Cái nhận thức rằng đẳng thức tương tự áp dụng cho mọi việc, đại khái vậy.
Vấn đề là, anh ta làm việc hăng hái hơn bao giờ hết. Một năm sau anh ta có một buổi trình diễn ở phòng tranh Emma Waterson, một không gian cách tân ở Wapping, và đó là một thành công to lớn. Anh ta mở ra một thứ mà sau này sẽ được coi là thời kỳ suy đồi mới hay thuyết thú vật Anh. Những bức tranh trong buổi trình diễn khai mạc của trường phái này đều to, khổ mười nhân bảy bộ, khắc họa phần còn lại của đống tan hoang chính là khu anh ta ở, với các sắc xám lẫn vào nhau. Như thể họa sĩ và khu phố đã đạt tới tình trạng cộng sinh toàn phần. Như thể, nói cách khác, họa sĩ vẽ khu phố hay khu phố vẽ họa sĩ, bằng những nhát cọ dữ dội mà u ám. Các bức họa không tồi. Tuy nhiên, buổi trình diễn sẽ không thành công đến thế hay gây ra tác động như thế nếu không nhờ bức tranh trung tâm, vốn nhỏ hơn nhiều so với các bức khác, một kiệt tác mà nhiều năm sau này dẫn dắt các nghệ sĩ Anh quốc theo con đường của thời kỳ suy đồi mới. Bức tranh này, nhìn một cách đúng đắn (mặc dù người ta không bao giờ có thể chắc chắn về việc nhìn nó một cách đúng đắn), là tỉnh lược của những tự họa, đôi khi là đường xoắn ốc của những tự họa (tùy góc nhìn), khổ bảy nhân ba bộ rưỡi, ngay chính giữa tranh treo bàn tay phải tẩm khô của họa sĩ.
Chuyện xảy ra như sau. Một sáng nọ, sau hai ngày làm việc hăng say với các bức tự họa, họa sĩ chặt phăng bàn tay vẽ của mình. Anh ta lập tức băng cánh tay và mang bàn tay đến một thợ nhồi bông thú mà anh ta quen, người này đã được báo trước về nhiệm vụ. Sau đó anh ta tới bệnh viện, ở đó người ta cầm máu và khâu cánh tay lại. Có một lúc ai đó hỏi tai nạn xảy ra thế nào. Anh ta trả lời anh ta sơ ý chặt phải bàn tay mình bằng một nhát rựa trong khi đang làm việc. Các bác sĩ hỏi bàn tay bị đứt ra đâu rồi, vì có khả năng nối lại được. Anh ta nói do quá giận dữ và đau đớn nên đã vứt nó xuống sông trên đường tới bệnh viện.
Mặc dù giá ở trên mây, buổi trình diễn bán sạch. Bức họa kiệt tác, nghe nói, về tay một người Ả Rập làm việc ở London, cùng bốn bức tranh lớn. Chẳng lâu sau, họa sĩ phát điên và vợ anh ta (khi đó anh ta đã có gia đình) không còn lựa chọn nào khác ngoài gửi anh ta vào một nhà an dưỡng ở ngoại ô Lausanne hay Montreux.
Anh ta sống ở đó cho đến bây giờ.
Trong khi đó, các họa sĩ khác bắt đầu chuyển đến khu này. Chủ yếu vì nó rẻ, nhưng cũng bởi vì họ bị thu hút bởi huyền thoại về người đã vẽ bức tự họa cực đoan nhất của thời đại chúng ta. Kế đó các kiến trúc sư kéo đến, rồi một số gia đình mua những ngôi nhà được tân trang và cải tạo lại. Rồi sau đó là các cửa tiệm, các nhà hát thể nghiệm, các quán ăn hiện đại, cho đến khi nó trở thành một trong những khu thời thượng nhất ở London, chẳng còn rẻ tí nào như đã từng có tiếng.
“Anh thấy câu chuyện đó thế nào?”
“Anh không biết nghĩ gì,” Morini nói. Thôi thúc muốn khóc - hay đúng hơn, muốn ngất - vẫn còn đó, nhưng anh cố ngăn lại.
♣ ♣ ♣Họ ăn bữa xế ở nhà Norton. Chỉ khi đó cô mới bắt đầu nói về Espinoza và Pelletier, bằng giọng hờ hững, như thể chuyện quá quen thuộc nên không đáng quan tâm hay thảo luận với Morini (cô để ý thấy anh thất vọng, nhưng cô thận trọng không căn vặn, biết rằng bị vặn hỏi thường chẳng dễ chịu gì), và thậm chí cũng không phải là điều mà bản thân cô muốn đem ra bàn luận.
Đó là một buổi chiều rất êm ái. Ngồi trên ghế bành, Morini chiêm ngưỡng phòng khách của Norton - sách và ảnh đóng khung treo trên các bức tường trắng, những tấm ảnh và đồ lưu niệm bí ẩn, sở thích của cô thể hiện trong những thứ đơn giản như sự lựa chọn đồ đạc, rất có gu, thoải mái và khiêm nhượng, và thậm chí trong cả mảng đường rợp cây mà chắc chắn cô nhìn thấy mỗi sáng trước khi ra khỏi căn hộ - và anh bắt đầu cảm thấy dễ chịu, như thể các sự vật biểu trưng cho bạn anh bao bọc lấy anh, như thể chúng cũng là biểu hiện của sự xác nhận, có lẽ anh không hiểu ngôn từ của nó, nhưng dù sao điều ấy vẫn khiến anh thoải mái.
Sắp sửa ra về, anh hỏi tên họa sĩ mới được nghe kể và liệu cái buổi trình diễn kinh khủng ấy có cuốn catalog nào không. Ông ấy tên là Edwin Johns, Norton nói. Rồi cô đứng dậy tìm trên kệ sách. Cô tìm thấy một cuốn catalog lớn và trao nó cho Morini. Trước khi mở ra anh tự hỏi liệu nằn nì chuyện này có phải là ý tưởng hay hay không, nhất là khi bây giờ anh cảm thấy quá thư giãn. Nhưng nếu không làm thế mình sẽ chết mất, anh tự nhủ, và anh mở cuốn catalog ra, thật ra nó còn hơn cả một cuốn catalog mà là một cuốn sách nghệ thuật trình bày hoặc cố gắng trình bày toàn bộ tiến trình sự nghiệp của Johns. Có một tấm ảnh của Johns trên trang đầu, từ thời trước khi ông tự chặt tay, đó là một thanh niên tầm hai mươi lăm tuổi nhìn thẳng vào máy ảnh, hơi nhoẻn miệng mỉm cười một nụ cười không rõ bẽn lẽn hay nhạo báng. Tóc anh ta sẫm và thẳng.
“Quà cho anh đó,” anh nghe Norton nói.
“Cảm ơn em,” anh nghe thấy mình trả lời.
Một tiếng sau họ cùng ra sân bay, và một tiếng sau nữa Morini đã trên đường bay về Ý.
♣ ♣ ♣Trong quãng thời gian này, một nhà phê bình người Serbia trước đây không mấy tên tuổi, giáo sư tiếng Đức tại Đại học Belgrade, đăng một bài báo lạ lùng trên tạp chí do Pelletier phụ trách, một bài báo trong chừng mực nào đó gợi nhớ về những phát hiện vụn vặt của một nhà phê bình người Pháp xuất bản cách đây nhiều năm về Hầu tước de Sade, bao gồm bản sao của những giấy tờ mơ hồ cho thấy Hầu tước từng ghé một tiệm giặt ủi, một ghi chép về những mối quan hệ của ông với một ông bầu nhà hát nào đó, một hóa đơn khám bệnh kèm theo toa thuốc, một đơn đặt hàng áo chẽn ghi rõ cách kết nút và màu, v.v., tất cả kèm theo các ghi chú dài dòng mà từ đó chỉ có thể rút ra một kết luận duy nhất: Sade đã tồn tại, Sade đã giặt quần áo, đã mua quần áo mới và thư từ qua lại với những con người nay đã tuyệt nhiên bị xóa sạch khỏi tấm bảng thời gian.
Bài báo của giáo sư người Serbia cũng tương tự vậy. Trong trường hợp này, người được truy dấu là Archimboldi, không phải Sade, và bài báo bao gồm một cuộc điều tra kỳ công và thường là dễ nản lòng khởi đầu từ Đức, tiếp tục qua Pháp, Thụy Sĩ, Ý, Hy Lạp, trở lại Ý, và kết thúc tại một hãng lữ hành ở Palermo, dường như ở đó Archimboldi mua vé máy bay đi Maroc. Một ông già, một người Đức, giáo sư người Serbia nói. Ông vung vẩy những từ ông già và người Đức như vẫy đũa thần để phơi ra một bí mật, và cùng lúc những từ ấy cung cấp cái dấu ấn của văn chương phê bình siêu cụ thể, một thứ văn chương không suy đoán hoàn toàn không chứa đựng ý tưởng, khẳng định, phủ định, nghi ngờ, hoàn toàn không có chủ ý nào để định hướng, cả ủng hộ lẫn phản đối, chỉ là một con mắt tìm kiếm những yếu tố hữu hình, không phán xét mà chỉ đơn giản lạnh lùng trình bày chúng, ngành khảo cổ học bản sao, và, cũng bởi vậy, ngành khảo cổ học máy photocopy.
♣ ♣ ♣Với Pelletier đó dường như là một bài báo kỳ lạ. Trước khi cho in, anh gửi một bản cho Espinoza, Morini và Norton. Espinoza nói nó có thể dẫn tới đâu đó, và mặc dù nghiên cứu và viết bài kiểu đó giống như là công việc khổ sai, như nấc thấp nhất của công việc tay chân, anh nghĩ, và nói, cũng tốt khi trong dự án Archimboldi có chỗ cho những kẻ cuồng tín lì lợm nhất hạng này. Norton nói cô luôn luôn có cảm giác (trực giác của phụ nữ) sớm muộn gì Archimboldi cũng sẽ xuất hiện đâu đó ở vùng Maghreb, và phần duy nhất đáng đọc trong bài báo của giáo sư người Serbia là tấm vé mang tên Benno von Archimboldi, mua trước khi chiếc máy bay Ý khởi hành bay tới Rabat một tuần. Từ giờ trở đi chúng ta có thể tưởng tượng ông ấy mất tích trong một cái hang trên dãy Atlas, cô nói. Morini nín thinh.
♣ ♣ ♣Ở đây chúng ta nên làm rõ nhằm hiểu đúng (hay không đúng) bài của giáo sư người Serbia. Thực sự đã có một chỗ được đặt dưới tên Benno von Archimboldi. Tuy vậy, nó chưa bao giờ được xác nhận, và vào thời điểm khởi hành không có Benno von Archimboldi nào xuất hiện tại sân bay. Theo kiến giải của giáo sư người Serbia, vấn đề không thể nào rõ ràng hơn. Không nghi ngờ gì Archimboldi đã đích thân đặt chỗ. Chúng ta có thể hình dung ra ông ở khách sạn, có vẻ thất vọng về chuyện này hay chuyện nọ, có thể đang say sưa, thậm chí có thể gà gật, vào cái giờ sâu thẳm như địa ngục ấy (với mùi buồn nôn nghẹn ngào của nó) khi các quyết định lịch sử được đưa ra, nói chuyện với cô gái ở hãng Alitalia và đưa nhầm bút danh của mình thay vì đặt chỗ theo tên trong hộ chiếu, một sai sót mà sau đó, tức ngày hôm sau, ông sẽ sửa chữa bằng cách đích thân đi tới văn phòng hãng hàng không mua vé bằng tên của mình. Điều này giải thích sự vắng mặt của một Archimboldi trên chuyến bay tới Maroc. Dĩ nhiên, có những khả năng khác: phút chót, sau khi nghĩ lại lần thứ hai (hay thứ tư), Archimboldi có thể đã quyết định không đi nữa, hay đi đâu đó khác, ví dụ Hoa Kỳ, hoặc có thể tất cả chỉ đơn giản là một trò đùa hay hiểu nhầm.
Bài báo của giáo sư người Serbia có mô tả nhân dạng của Archimboldi. Mô tả này chỉ dựa vào tường thuật của nhà văn người Swabia. Dĩ nhiên, trong bài của nhà văn Swabia, Archimboldi là một nhà văn trẻ hậu chiến. Tất cả những gì giáo sư người Serbia đã làm là đưa ra tuổi của ông, biến chính chàng trai trẻ đó, người từng tới Friesland năm 1949 với cuốn sách duy nhất đã in, thành một ông già, bảy lăm hay tám mươi tuổi, người giờ đây đã có một sự nghiệp đồ sộ nhưng ít nhiều có cùng những tính cách ấy, như thể Archimboldi, không giống đa số mọi người, không thay đổi và vẫn là con người ấy. Đánh giá bằng tác phẩm, nhà văn của chúng ta rõ ràng là một con người bướng bỉnh, giáo sư người Serbia nói, ông bướng bỉnh như một con lừa, như một con vật da rất dày, và nếu như vào một buổi chiều buồn bã nhất ở Sicilia ông ấp ủ kế hoạch du hành tới Maroc, bất kể ông đã sơ ý đặt chỗ dưới tên Archimboldi, thay vì tên trên giấy tờ, không có lý do gì không thể nghĩ rằng ngay ngày hôm sau ông đổi ý và tới hãng lữ hành, lần này dùng tên chính thức và hộ chiếu hợp pháp, và rằng ông đã không khởi hành, như bất kỳ ai trong số hàng nghìn ông già độc thân người Đức, băng qua bầu trời mỗi ngày một mình hướng tới các quốc gia Bắc Mỹ.
♣ ♣ ♣Già và một mình, Pelletier nghĩ. Chỉ một trong hàng nghìn ông già sống một mình. Như machine célibataire*. Như cái kẻ độc thân đột nhiên già nua, hay như cái kẻ độc thân sau khi trở về từ một chuyến du hành ở tốc độ ánh sáng, thấy những kẻ độc thân khác trở nên già nua hay biến thành những trụ muối.
Hàng nghìn, hàng trăm nghìn những machine célibataire băng qua một biển nước ối hằng ngày trên máy bay của hãng Alitalia, ăn spaghetti al pomodoro và uống rượu Chianti hay grappa, mắt nhắm hờ, tin chắc rằng thiên đường của những người về hưu không phải ở Ý (hoặc, do đó, ở bất cứ nơi nào tại châu Âu), những kẻ độc thân bay tới các sân bay nhộn nhịp ở châu Phi hay Mỹ, bãi chôn voi. Những nghĩa trang vĩ đại ở tốc độ ánh sáng. Chẳng hiểu tại sao mình lại nghĩ tới những chuyện này, Pelletier nghĩ. Đốm trên tường và đốm trên da, Pelletier nghĩ, nhìn tay mình. Đèo mẹ thằng Serbia.
♣ ♣ ♣Rốt cuộc, sa