I Chương 4.
Ngày 1 tháng Giêng năm 1969, Joe bắt đầu cuộc hành trình đi vào cảnh lưu đày, và việc không chọn đường Nam tiến dễ dàng để tới Boston mà chọn những xa lộ đóng băng ở miền Bắc đã thể hiện rõ tính cách của anh, anh cũng không hề nghĩ đến việc gọi điện thoại cho ông bố bà mẹ bất lực của mình: cha anh sẽ cằn nhằn còn mẹ anh sẽ khóc lóc, giữa cha mẹ và con cái sẽ chẳng nói được điều gì thích đáng cả.
Anh đi nhờ xe lên thung lũng trung tâm bang California, tới Sacramento thì theo hướng Đông tới Reno. Các ngọn đèo cao đều phủ tuyết, vì vậy thỉnh thoảng anh có thể ngước lên cả hai bên thấy những dải băng đặc nằm cách ba, bốn foot[6] phía trên đầu. Rồi anh cắt ngang qua bang Nevada trống trải hoang vắng để tới Salt Lake City, dành một vài ngày ở đây để cảm nhận thủ đô của những người theo đạo Mormon, nhưng những phút giây ngây ngất đầu tiên - sự phấn khích mà anh kiếm tìm, cảm nhận về nước Mỹ - chỉ tới sau này, khi anh vượt qua những vùng đất hoang bao la cằn cỗi của bang Wyoming. Con đường chạy dài về phía Đông bằng những đường uốn lượn đẹp mắt qua núi non và những đồng bằng vô tận. Anh nhanh chóng vượt qua năm, sáu mươi dặm đường, không hề nhìn thấy dù chỉ một trạm xăng, chỉ thỉnh thoảng mới có một thị trấn nhỏ xíu trông như con bê lạc đàn lang thang vô định trong khoảng mênh mông của bầu trời và vùng đất hoang vu.
Trên dãy núi Continental pide chia cắt vùng đất phía Tây mà Joe vừa đi qua với vùng phía Đông mà anh sắp đến, một cơn bão tuyết đuổi kịp anh, rồi khi anh ngồi trong chiếc xe tải xuyên qua đêm tối tiến về Cheyenne, ánh đèn pha phản chiếu lên hàng triệu bông tuyết lấp lánh.
“Đây là vùng đất tuyệt vời,” anh hài lòng lẩm bẩm với lái xe, nhưng người này chỉ lo ngại nhìn con đường trước mặt càu nhàu, “Đáng lẽ họ nên để nó lại cho người da đỏ.”
Phía Đông thành phố Rawlins, tuyết phủ dày đến nỗi máy cày cũng bị sa lầy, buộc một hàng dài xe tải và những chiếc xe con tư nhân liều lĩnh phải dừng lại ở ngã tư, giao với đường 130 từ phía Nam. Lái xe và hành khách chen chúc trong một quán ăn nhỏ, gặp đúng lúc không có người giúp việc, ông chủ phải mệt bở hơi tai phục vụ cà phê và bánh cuộn.
“Đây là vùng đất tuyệt vời,” Joe nói với một nhóm người đang túm tụm quanh lỗ thông hơi của bếp lò.
“Anh đi về phía Đông hay Tây?” một người hỏi.
“Đông.”
“Anh không đi lính à?” một người lớn tuổi hỏi, chỉ vào mái tóc dài của Joe.
“Không.”
Sau này Joe không sao hình dung lại được những gì diễn ra tiếp theo, nhưng không biết thế nào mà mọi người lại nảy ra ý nghĩ anh đang đi về phía Đông để hoàn thành thủ tục tuyển quân, họ khăng khăng đòi trả tiền cà phê và mua thuốc lá cho anh.
“Những năm tháng tuyệt vời nhất tôi từng trải qua chính là thời gian ở trong quân đội,” một anh lái xe tuyên bố.
“Họ đã dạy tôi làm thế nào tránh xa rắc rối,” một người khác tán thành.
Một người đàn ông lớn tuổi xen ngang, “Tôi đã trải qua ba năm tuyệt diệu ở Nhật.” Ông ta cười thích thú. “Tôi đã đánh nhau với bọn con hoang da vàng bé nhỏ từ Guadalcanal tới vịnh Leyte; tôi ngủ với bọn chúng từ Osaka tới Tokyo - và tôi sẽ làm lại cả hai việc này.”
“Bọn gái Nhật có tuyệt hảo không?” một người trẻ hơn hỏi.
“Hạng nhất.”
“Vùng phía Đông của đất nước này có thú vị không?” Joe hỏi.
“Thú vị à?” người đàn ông lớn tuổi khịt mũi. “Không có một inch nào ở Nhật lại không thú vị. Cậu đã nghe nói đến Nikko chưa? Khi nào ở Việt Nam và được nghỉ phép, hãy nhanh chóng làm một chuyến lên Tokyo và bắt tàu đến Nikko đi, con trai. Cậu sẽ thấy thứ gì đó.”
“Tôi muốn nói đất nước này. Miền Đông ở đây có đẹp không?”
“Đây là một đất nước xinh đẹp, từ cầu Golden Gate đến cầu Brooklyn,” một anh lái xe nói với vẻ thành kính, “và anh đừng bao giờ quên nó.”
Giọng nói thấm đượm tình yêu nước đã làm thay đổi tâm trạng chung, và một lái xe bảo Joe, “Khi nào cậu gia nhập quân đội, nhất định họ sẽ cắt trụi mái tóc dài của cậu, nhóc ạ. Nó sẽ làm cho cậu khá hơn đấy.” Cánh lái xe nhất trí là kỷ luật trong quân đội sẽ có ích cho Joe, và nghe họ ca ngợi những ích lợi của nó, anh thầm nghĩ mình thật hèn nhát biết bao khi để cho mọi người tưởng rằng anh sắp nối tiếp bước chân họ trong khi thực ra anh đang lợi dụng lòng mến khách của họ để trốn chạy. Anh nén cảm giác xấu hổ lại và nghĩ: Nếu mình nói với họ mình đang trốn quân dịch, chắc họ sẽ nện mình đến chết mất.
Xấu hổ bởi sự không trung thực của mình, anh rời quán ăn bước vào trong cơn bão, ánh đèn pha kỳ quái từ những chiếc xe đang xa dần trên đường hắt vào màn đêm tuyết phủ. Có những lúc, thế giới của anh hình như rất nhỏ bé, không rộng lớn hơn vòng tròn mà các bông tuyết tạo ra, nhưng lại có những lúc, khi ánh sáng đã mất hút, nó trải rộng ra thành một thảo nguyên vô tận, lặng lẽ và mênh mông. Đứng trong cơn bão, bị giam hãm giữa vòng tròn ánh sáng nhưng vẫn bị đẩy về phía chân trời, anh đã cảm nhận được ý nghĩa của thế giới này, cảm nhận được sự huyền diệu vĩnh viễn không thể hiểu được, mà từ nay về sau anh là một phần có tri giác của nó.
Đồng thời, lần đầu tiên anh hiểu rõ giá trị của nước Mỹ, mênh mông và hỗn mang trong bóng đêm tràn ngập. “Đây là một mảnh đất đáng để chiến đấu vì nó,” anh lẩm bẩm, không thấy có gì mâu thuẫn trong việc là một người trốn quân dịch nhưng lại thiết tha chiến đấu vì một mảnh đất mà anh ta cảm thấy tươi đẹp. Trong chừng mực xét đoán của anh, nhà yêu nước cao quý nhất anh từng gặp trong bốn năm vừa qua chính là bà Rubin, một bà nội trợ Do Thái ngồi trong tầng hầm nhà thờ giáo hội Trưởng lão, cố gắng đem lại chút ổn định nào đó từ trong tình trạng rối ren mà đất nước bà đã lâm vào.
Ngay khi đặt chân tới New York, anh đi thẳng đến Quảng trường Washington, nơi ngôi nhà thờ anh tìm trông giống hệt cái anh đã bỏ lại ở California và cũng là nơi người đàn bà thuộc giáo phái Quaker tư vấn cho anh có thể chính là chị em của bà Rubin. Bà khẳng định với anh việc làm thì rất sẵn, nhưng anh phải thận trọng trong khi tìm kiếm, “Cậu phải tránh những nơi người chủ có thể đòi xem thẻ quân dịch. Và hãy cảnh giác với những vị lớn tuổi ở liên đoàn xây dựng. Họ rất ái quốc và họ đòi hỏi cậu cũng phải ái quốc... theo cách của họ. Nhưng đây là một địa chỉ có thể có ích. Người ta đang phá một tòa nhà cũ và họ sẽ vui mừng nếu có bất kỳ người khoẻ mạnh nào tới làm.”
Anh đến nhận việc tại một công trường gần Công viên Gramercy, nơi có một cái hố rất rộng ngay cạnh một ngôi nhà lớn của tư nhân đang bị đập đi. Viên đốc công giải thích, “Điều phiền toái là mấy tay gàn dở muốn giữ nguyên mấy cái trần. Hình như chúng được chạm khắc từ một trăm năm trước. Công việc của cậu là đưa chúng xuống nguyên vẹn.” Joe chưa kịp nói gì thì ông đốc công đã ấn cái xà beng vào tay cậu, hét lên, “Nhớ đấy, nếu chúng tôi muốn phá mấy cái trần chết tiệt này, chúng tôi đã dùng quả tạ sắt rồi. Chúng tôi muốn chúng nguyên vẹn một khối.” Lát sau, một viên trợ lý đi vào căn phòng, nơi Joe đang làm việc trên giàn giáo, và thì thầm, “Nếu ai hỏi thẻ công đoàn của cậu thì cậu là nghệ sĩ tự do đang cứu cái trần này cho một viện bảo tàng nhé.”
“Bảo tàng nào?”
“Bảo tàng Kiến trúc và Thiết kế New York,” người đàn ông nói nhanh. “Chẳng có viện bảo tàng nào tên như vậy cả và nó sẽ giữ cho những tay ở công đoàn bận rộn cho tới tận tuần sau mới hiểu ra được.” Công việc bụi bặm và vất vả, nhưng khi anh leo xuống đất nghỉ giải lao, viên trợ lý nói: “Hãy tưởng tượng cậu là Michelangelo. Ông ta làm việc trên đó hai mươi năm, tôi biết được điều này vì đã xem phim. ‘Nhà ngươi sẽ làm việc trên đó nếu ta bảo vậy!’” Ông ta tiếp tục gào lên với giọng điệu rất kịch: “Ta là Giáo hoàng. Quay trở lại làm việc ngay.”
Ban đêm Joe ngủ trong nhà trọ mà người đàn bà ở nhà thờ giới thiệu, và anh mệt đến nỗi thiếp đi ngay. Khu vực quanh đó rất náo nhiệt, và suốt cả ngày anh thấy đám thanh niên tụ tập ngoài đường, có cả những cô gái rất quyến rũ, nhưng anh không nhập bọn. Nhiệm vụ trước mắt của anh là kiếm đủ tiền để vượt biên sang Canada.
Lần cuối cùng anh tới nhà thờ, bà tư vấn đưa cho anh một địa chỉ ở New Haven và dặn: “Hãy tới sau sáu giờ chiều. Văn phòng này do người trường Yale điều hành, ban ngày họ phải lên lớp.”