IX Chương 3.
Tôi từng nghe lập luận kỳ cục rằng chính các đại diện kỹ thuật đã tạo điều kiện cho Hoa Kỳ có cuộc sống tốt đẹp. Tức là theo nghĩa đen, có hàng nghìn công ty Mỹ không làm được gì hơn bán hòa vốn cho khách hàng ở Hoa Kỳ. Mức lợi nhuận của họ do lượng tiêu thụ ở nước ngoài quyết định. Và họ không thể bán hàng ra nước ngoài nếu không cung cấp các chuyên gia giỏi kỹ thuật để bảo đảm cho sản phẩm vận hành.
Chúng ta hãy xem xét từng ý kiến một. Một hãng tủ lạnh mà tôi biết - hay có thể là một hãng xe hơi hay công ty sản xuất thiết bị thông tin liên lạc - có thị trường tại Hoa Kỳ cho một trăm nghìn đơn vị sản phẩm. Nhưng do cạnh tranh, giá cả vật liệu và thang lương, công ty đó không lãi một xu với sản lượng ít như vậy. Do đó, với khoản phụ trội không đáng kể cho việc hoạch định tổng chi phí, và với phí tổn nguyên liệu thô và nhân công đã được giảm thiểu, công ty sản xuất thêm một trăm nghìn sản phẩm nữa, đem bán ở nước ngoài. Bỗng nhiên hoạt động này lại có lãi và mọi người đều có lợi hơn - người tiêu dùng Mỹ, người lao động Mỹ, công ty vận tải biển Mỹ, nhà đầu tư Mỹ và người tiêu dùng nước ngoài, riêng thành phần cuối cùng này được mua sản phẩm chất lượng cao với giá bằng một phần mười số tiền anh ta phải trả nếu có người thử cung ứng nó tại địa phương.
Hãy tạm quên một thực tế là để tạo điều kiện cho người nước ngoài mua được tủ lạnh, chúng ta đã đưa tiền cho họ thông qua con đường viện trợ nước ngoài. Một cá nhân hay một quốc gia phải sử dụng tiền của mình vào việc gì đó chứ. Và ngoài ra, chín mươi xu của mỗi đồng đô la ấy lại quay về tay chúng ta - thế thì có ai thiệt thòi đâu? Tôi nghĩ có lẽ anh sẽ rất ngạc nhiên nếu biết rằng biết bao nhiêu thứ anh có thể mua được là do lợi nhuận trong sản xuất đã được bảo đảm bởi số lượng tiêu thụ ở nước ngoài.
Người đại diện kỹ thuật có vai trò gì? Tôi nhớ lại những năm năm mươi, khi thị trường ở nước ngoài hầu như là của riêng chúng ta... à, chúng ta và người Anh. Sau đó người Nhật láu cá bắt đầu chen chân vào, nhưng thành thực mà nói, thời kỳ đó sản phẩm của họ không được bền chắc lắm - máy móc thì mau hỏng; linh kiện thì khó kiếm... và bao nhiêu nhân công ở Pakistan nói được tiếng Nhật chứ?
Chính người Đức - tức là người Tây Đức - cùng người Thụy Điển và đặc biệt là người Thụy Sĩ đã thay đổi tất cả. Trước tiên họ sản xuất máy móc chất lượng cao - không khá hơn sản phẩm của chúng ta và người Anh, nhưng cũng rất tốt. Thế thì khác nhau ở chỗ nào? Họ đảm bảo với bất kỳ khách hàng nào ở các nước chậm phát triển, “Nếu cỗ máy này hỏng vào ngày thứ Hai - đã là máy móc thì phải hỏng hóc thôi, như các vị đã biết qua kinh nghiệm với máy Mỹ - các vị điện cho chúng tôi và chúng tôi sẽ đưa một người lên máy bay trong vòng hai giờ và anh ta sẽ có mặt ở chỗ các vị vào tối thứ Ba để giải quyết vấn đề của các vị.” Và họ đã thực hiện đúng như vậy. Họ đã cho chúng ta thấy một cách tiếp cận quan hệ công nghiệp hoàn toàn mới. Chắc hẳn họ phải chi một triệu đô la cho các chuyến đi bằng máy bay, nhưng lại thu được mười triệu từ việc đó, bởi vì tin tức lan truyền, “Ông mua hàng của Đức thì họ sẽ bảo hành tốt cho máy móc.”
Thế còn người Mỹ? Vậy đấy, những năm đó các chàng trai của chúng ta khá là hống hách. Họ đã bán hàng chất lượng cao rồi, và nếu có trục trặc ấy chỉ là tại bọn ngu đần không biết điều khiển thôi. Bao giờ rảnh rỗi, chúng ta sẽ cử ai đó đến giải thích thêm. Hồi đó chúng ta ngạo mạn lắm.
Người Anh thì sao? Nói mà buồn thay. Họ biết tay nghề công nhân trong các nhà máy của họ cao nhất thế giới, đạo đức kinh doanh của họ tốt nhất, nhân viên hiện trường trong vai trò đại diện là đáng tin cậy nhất - vì vậy nếu một thằng ngố chết tiệt nào đó ở Miến Điện hay Pakistan làm hỏng máy móc, bọn chúng nhất định có thể tự giải ngố được nếu không thì cứ chờ cho đến khi ai đó ở London ngẫu nhiên đáp tàu chạy hơi nước của hãng P. and O. đến. Tôi còn nhớ rõ một kỹ thuật viên người Anh từng làm việc cùng tôi trong một dự án ở Hyderabad. Một công nhân Ấn Độ nhận ra mình không thể dùng vặn vít để lựa đinh vít vào đúng vị trí, vì vậy anh ta mới lấy búa đập nhẹ. “Lạy Chúa tôi!” người Anh kia kêu lên căm phẫn và giành lấy búa, vung lên trước đôi mắt sững sờ của anh công nhân. “Anh không biết người ta gọi cái này là gì sao?” anh ta hỏi bằng một giọng mỉa mai lạnh lùng. “Một cái vặn vít của Mỹ.” Sau đó anh ta làm một bài lên lớp ngắn cho người công nhân kia về sự giảm sút của trình độ lành nghề đáng tin cậy trên khắp thế giới và cảnh cáo người đó không bao giờ được dùng búa đóng đinh ốc vào máy móc của Anh nữa. Chỉ người Mỹ mới làm thế. Sau đó ở khách sạn, anh nói với vẻ buồn phiền thực sự về nỗi đau lòng mà anh cảm thấy khi phải chứng kiến tình trạng tay nghề có trách nhiệm cao giảm sút đều đều. “Chẳng trách cái máy chết tiệt ấy bị hỏng. Đời thủa nhà ai lại đi vặn đinh vít bằng búa cơ chứ!”
Trong khi đó người Đức, Thụy Điển và Thụy Sĩ lại bay ngay đến để lo giữ cho máy móc của họ chạy tốt, và nếu phát hiện một người Ấn Độ lấy búa đóng đinh vít, họ sẽ đề xuất với trụ sở chính là có lẽ cái đinh vít đặc biệt ấy nên được thay bằng một thứ gì đó tốt hơn để người ta có thể dùng búa cố định.
Bất cứ ý nghĩ nào tôi từng có cho rằng sản phẩm của Mỹ nhất định phải tốt hơn do quyền năng thiêng liêng nào đó của nền công nghiệp Mỹ đều tan biến khi tôi quan sát những người Đức ấy. Họ không chỉ sản xuất những sản phẩm tuyệt hảo mà còn biết cách làm cho khách hàng hài lòng, và sau khi bắt đầu mất thị trường trên khắp thế giới, chúng ta mới nghĩ ra giải pháp của mình cho vấn đề ấy. Chúng ta sẽ không cử chuyên gia bay từ New York đến. Chúng ta sẽ có chuyên gia sống ngay tại hiện trường. Nếu Đức có thể cung cấp sự hỗ trợ trong vòng hai ngày thì chúng ta sẽ làm việc đó trong hai giờ.
Đó chính là cách để các đại diện kỹ thuật từng trải và cô đơn của chúng ta trở thành một bộ phận chức năng của hệ thống Mỹ. Nếu một hộ gia đình ở Des Moines, bang Iowa, được ngủ yên nhờ một anh lính Mỹ nào đó đang đứng gác dọc theo tuyến DEW[82] thì cũng chính hộ gia đình đó được mua nhiều hàng hóa với giá hời vì một kỹ thuật viên người Mỹ nào đó ở Sumatra hay Peru đang góp sức giữ cho công ty của mình có thể đứng vững. Đường biên giới không bao giờ ở nơi chúng ta tưởng, những người có năng lực nên canh gác đường biên giới ấy thì hơn.
Hãy xem thời gian Harvey Holt còn lại một mình ở trung tâm Sumatra để duy trì hệ thống thông tin liên lạc mà UniCom đã lắp đặt cho chính phủ Indonesia. Anh được cử làm việc tạm thời tại Simpang Tiga, sân bay gần Pakanbaru, tìm cách giải quyết trục trặc nào đó phát sinh tại một trạm tiếp âm nằm cao trên một quả đồi nhỏ có đỉnh nhìn xuống rừng rậm. Nhiệt độ là 38, độ ẩm 100 phần trăm. Thiết bị thông thường bị gỉ sạch trong hai tháng đầu và phải thay bằng thép không gỉ.
Khi Holt tổ chức một đoàn đi bộ để đưa anh từ Pakanbaru đến trạm trên đồi, một vài công nhân đứng tuổi người Sumatra khuyên anh, “Nên mang theo một người đi săn chuyên nghiệp thì hơn.” Anh đáp, “Tôi có súng rồi,” vì vậy họ đành nhún vai và lo lắng tiễn anh lên đường.
Hoàng hôn ngày thứ nhất, đoàn người nghe thấy một tiếng thét kinh hoàng, và giật mình ngoảnh lại đúng lúc thấy người đi cuối hàng bị một con hổ chắc phải dài đến ba mét tính từ mũi đến móng chân sau cào phăng mặt. Các vị thấy đấy, phần lớn những người đến xem hổ trong vườn thú chỉ để ý những cái răng to tướng và nói, “Nó cắn đứt đôi một người lớn dễ như bỡn.” Không phải như vậy. Vấn đề là con hổ đã lẻn đến vồ con mồi từ phía sau. Người ta tuyệt đối không thể nghe thấy tiếng con hổ tiến đến gần. Rồi, với một cú nhảy mạnh áp đảo, con hổ lăng vuốt chân phải về phía trước, khoanh vòng quanh mặt nạn nhân, trong khi vuốt trái cắm sâu vào vai trái và cổ họng. Với đòn hung bạo thứ nhất, con hổ xé toạc cả mặt lẫn hai con mắt của mục tiêu, hủy hoại hoàn toàn hai bộ phận này. Với đòn thứ hai, nó giật đứt khí quản cùng một số mạch máu chủ trên vai. Với bộ răng, tất nhiên, nó ngoạm vào cổ, nhưng việc này không cần thiết vì chính cái tát mạnh mẽ bằng vuốt mới gây ra cái chết. Trong khoảng ba mươi giây đồng hồ sau khi bộ vuốt cào trúng, mục tiêu đã chết, và đêm hôm đó con hổ kéo lê anh công nhân vào rừng rậm trước khi Holt kịp quay lại với cây súng.
Lúc ấy trời đã chạng vạng, vì hổ báo thường thích săn bắt khi màn đêm buông xuống. Thế rồi, do tình thế thôi thúc, Holt quyết định ngay những gì phải làm. Anh tập hợp công nhân lại để dựng trại và dặn họ chú ý giữ cho lửa cháy. Anh sẽ đuổi theo con hổ. Họ cảnh báo anh là không ai có thể theo dấu hổ vào ban đêm, nhưng anh đáp, “Tôi sẽ không theo dấu nó.”
Anh tự tắt đèn, phát hiện vết máu trong ánh sáng mờ nhạt, liền lần theo con đường gồ ghề mà con hổ đã kéo xác anh công nhân. Khi vết máu biến mất trong rừng sâu, Holt không chú ý đến nó nữa mà tiếp tục bám sát con đường anh vẫn theo từ đầu. Cuối cùng, anh đến một khoảng rừng thưa nhỏ, nơi cỏ dại thay thế cho cây cối rậm rạp. Tại đó, dưới ánh sáng cuối cùng trong ngày, anh quan sát xung quanh và chọn một cái cây có cành tạo thành một chạc đôi cách mặt đất khoảng ba mét rưỡi. Người nhễ nhại mồ hôi, tay trầy xước vì vỏ cây xù xì, anh leo lên cái bệ thô sơ đó, bám thật chắc, và còn phòng xa dùng thắt lưng buộc đầu gối vào một cành cây to để ngay cả khi ngủ gật cũng không thể rơi xuống được. Rồi anh bắt đầu chờ đợi.
Anh nắm chặt cây súng trong tay phải, đèn pin chắc nịch trong tay trái, và suốt mấy giờ đồng hồ trước nửa đêm anh lắng nghe những âm thanh hoang dã của ban đêm nổi lên trong rừng rậm Sumatra. Anh nhận ra tiếng lợn rừng, tiếng chim đêm và côn trùng. Anh đoán rằng chuyển động hầu như không một tiếng vang phát ra từ cái cây gần chỗ anh chắc hẳn là do một con rắn, nhưng vùng này không có rắn độc nên anh không quan tâm lắm.
Tiếng động mà anh mong ngóng, tiếng gầm gừ thỏa mãn của một con hổ no nê lần mò về hang sau bữa tiệc vừa ý, đêm hôm đó anh không nghe thấy, vì vậy khi trời hửng sáng anh bèn tháo thắt lưng buộc đầu gối, tụt xuống đất và nằm dưới bóng cây đánh một giấc mấy tiếng đồng hồ liền, hài lòng là con hổ hẳn cũng đang ngủ. Buổi chiều, anh trải qua một phen khốn khổ khi nhận thấy lũ côn trùng đang thám hiểm khắp người mình. Hơi nóng không sao chịu nổi. Mồ hôi chảy thành dòng xuống lưng anh như nước lũ rút khỏi thành phố. Anh không có nước mà cũng không liều mạng đi kiếm được vì trông thấy lũ kền kền lượn vòng trên cao rình rập hòng xâu xé phần thịt người chết, việc này chứng tỏ con hổ đã bỏ cái xác lại và đang lang thang đâu đây trong rừng rậm.
Holt tin chắc là con hổ, sau khi no bụng, sẽ không tấn công nhóm công nhân lần nữa nhưng nó sẽ rời khỏi rừng sâu và lộn lại đến khoảng rừng thưa rồi băng qua đó để đi tiếp đường cũ về phía bên kia. Anh đoán nó sẽ đi qua bãi trống này ngay sau nửa đêm.
Tại sao Holt biết được điều này? Bất kể được cử đến công tác ở đâu, anh đều tận dụng tối đa cơ hội tìm hiểu địa hình và dân địa phương. Anh có đức tính ham hiểu biết không bao giờ thỏa mãn, cộng thêm khả năng hấp thu và hiểu thấu kiến thức thực nghiệm. Từ những ngày đầu ở Sumatra, khi các trung tâm thông tin liên lạc và trạm tiếp âm khác nhau đang được xây dựng, anh đã bị loài hổ hấp dẫn, và mặc dù chưa bắn hạ được con nào, anh hiểu rõ cần phải có những gì để làm được như vậy. Anh tin chắc vào ý kiến của mình về loài hổ cũng ngang với đánh giá của mình về ống điện tử radio: “Nếu anh có nơi ẩn náu cao hơn ba mét rưỡi, cành cây sẽ vướng đường ngắm. Thấp hơn thì con hổ có thể tóm được anh khi nó vồ lấy đèn.”
Vì vậy lúc nhá nhem tối Holt lại leo lên chạc cây cách mặt đất ba mét rưỡi - trong tình trạng mệt mỏi, nhớp nháp mồ hôi, ngứa ngáy bởi những vết côn trùng đốt và môi miệng khô khốc vì khát. Đó là sáu tiếng đồng hồ dài dặc trước nửa đêm, và anh đã ngủ lơ mơ hai lần, nhưng chiếc thắt lưng cài chặt giữ anh ngồi vững.
Khoảng nửa đêm, những tiếng động lúc này đã quen thuộc càng quấy rối anh, nhưng tai anh vẫn phải căng ra ngóng đợi dấu hiệu duy nhất không thấy đâu. Chẳng có con hổ nào. Hai giờ sáng, chợt có tiếng động lạ, nhưng đó chỉ là con vật nhỏ hơn nào đó đang bận tâm đến những vấn đề của bản thân. Bốn giờ, con hổ vẫn bặt tăm và Holt đã bắt đầu buồn ngủ trĩu người, nhưng đến năm rưỡi, ngay trước lúc bình minh, anh nghe thấy một tiếng gầm hoang dã, như thể con hổ phởn phơ đang chuyện trò với chính mình, và khi tiếng gầm gần hơn, Holt lại bắt đầu toát mồ hôi.
Chính là con thú ấy, đáng sợ nhất trong số những con vật ăn thịt người, và nó sắp đi qua cái cây, đúng như Holt dự đoán. Đêm rừng đặc quánh đến nỗi ngay cả cái bóng một vì sao in xuống cũng không lộ rõ, vì vậy mánh khóe là phải chờ cho đến khi nó đến gần khoảng rừng thưa, rồi, với nòng súng và đèn pin trong tay trái, làm lóa mắt con thứ bằng ánh sáng bật lên bất thình lình. Trong một khoảnh khắc, con hổ sẽ đứng sững, ngơ ngác trước cuộc chạm trán bất ngờ, và chính lúc ấy, anh phải bắn thẳng vào tim con vật, đập tan sức mạnh của nó. Nếu anh bắn trượt, con hổ bị thương sẽ lần theo dấu vết anh và không bao giờ bỏ cuộc cho đến khi nó chết vì mất máu hoặc tìm thấy anh và giết anh.
Holt nổ súng và bắn trượt. Giá có sự chuẩn bị để bắn từ trên cây xuống, anh sẽ bố trí thiết bị giữ đèn pin, để rảnh cả hai tay sử dụng súng. Hoặc anh sẽ tìm một người giúp điều khiển ánh sáng. Còn như tình huống này, khi đèn bật, anh cũng giật mình hoảng sợ chẳng kém gì con hổ, vì ngay bên dưới anh là con thú khổng lồ, vằn vện và ghê rợn những răng cùng vuốt, đang gầm lên. Cây đèn pin vô tình va phải nòng súng, bèn trượt đi, và khi cố nắm nó chắc hơn, tay trái Holt hơi rung rồi mất tự chủ, thế là phát đạn lạc đi đâu mất. Ngay lập tức, anh vội nắm chặt đèn pin và khẩu súng rồi bắn lần nữa, nhưng lúc này con hổ đã chồm lên và viên đạn găm vào vai trái nó. Lực của viên đạn cũng đủ mạnh để đẩy lùi con vật đang giữa đà nhảy, nhưng lại không trúng vào điểm chí tử, Holt nghe thấy con thú điên cuồng lăn lộn giữa những đám cây con và bụi rậm trong khi tìm nơi ẩn náu trong rừng sâu.
Holt không bao giờ kể anh nghĩ gì trong giây phút nguy ngập ấy, nhưng tôi có thể suy ra được qua hành động của anh. Mặc dù trời vẫn chưa sáng, anh tháo thắt lưng, cẩn thận luồn qua đỉa quần, giấu cây đèn pin phiền phức đi và thận trọng tụt từ trên cây xuống. Anh bước chầm chậm vòng quanh thân cây, chú ý để lưng lúc nào cũng quay vào phía trong, mặt lúc nào cũng xoay về hướng phát ra tiếng gầm dữ tợn của con hổ. Anh hy vọng con thú sẽ tấn công mình, nhưng cũng biết là cùng với bình minh tới, con thú khổng lồ sẽ thấy tốt hơn hãy tạm rút lui để liếm vết thương, sau đó sẽ quay lại xử lý con người kia.
Trong ánh bình minh mờ nhạt đầu tiên, Holt nhìn rõ vệt máu mà mình phải dò theo. Anh không bao giờ nảy ra ý nghĩ mình còn có lựa chọn nào khác. Nguyên tắc của mọi vùng định cư ở Sumatra hay Malaya hay Miến Điện hay Ấn Độ, nơi hổ báo thường rình mò, rất rõ ràng: “Khi đã làm một con hổ bị thương, anh phải tìm và giết nó. Nếu anh không làm được, nó sẽ giết sạch toàn bộ dân làng.”
Suốt cả ngày hôm đó Harvey Holt kiên trì bám theo con thú bị thương, mỗi lúc một thêm thận trọng, vì anh biết khi con hổ đã bình tĩnh lại sau cơn choáng váng vì bị trúng đạn cỡ lớn, tính xảo trá của nó cũng sẽ phục hồi, và cơn điên cuồng khao khát trả thù cũng tăng thêm. Gần đến giữa trưa, Holt nhận ra con hổ đã chuyển từ vai trò bị săn đuổi sang vai trò đuổi bắt.
Buổi chiều nóng bức ngột ngạt ấy, trong hoàn cảnh không có thức ăn và không có cơ hội đến gần suối để khỏi bị hổ vồ, là khoảng thời gian cực kỳ khổ sở đối với Holt, về chuyện này, vài năm sau anh có kể cho tôi nghe vài lần: “Làm sao tôi biết nó vẫn lẩn quẩn ở đó ư? Tôi cảm thấy nó ở đó. Nhưng tất nhiên nó có lợi thế. Nó nghe thấy tôi mà!”
Khi trời sắp chạng vạng, Holt có cảm giác hoang mang sợ hãi lần đầu tiên. Nếu không chạm trán với con thú trong một vài phút trời còn sáng, anh có thể làm được gì trong bóng tối? Con hổ có bỏ đi một cách đơn giản và biến mất trong rừng sâu không? Thế thì Holt làm sao theo dấu nó?
Nỗi lo con hổ có thể bỏ mặc anh hóa ra lại vô căn cứ, vì khi màn đêm buộc anh phải trèo lên một cái cây khác, con thú đã đi theo anh, nhưng lấp đầy không gian đêm trống trải bằng vô số tiếng gầm đáng sợ. Nó biết rằng đến sáng con người kia sẽ phải xuống đất để sa vào hàm răng đang nhe ra và móng vuốt đang giương sẵn của mình. Suốt đêm con thú dữ lồng lộn gầm thét, nhưng điều làm cho cảnh tượng có vẻ ma quái là mỗi khi Holt có cơ hội rọi đèn pin, hy vọng bắn một phát vào con thú, cây cối hay bụi rậm lại cản trở, thành ra Holt nhìn thấy hình thù vằn vện nhưng không nổ súng được vì cành lá sẽ làm viên đạn chệch hướng. Và con hổ sẽ tránh ra chỗ khác như một bóng ma hung hiểm.
Bấy giờ lại đến lượt cơn đói hành hạ, và cả cơn khát. Hai lần Holt có cảm tưởng như mình phải nhảy từ trên cây xuống để đi tìm nước; thậm chí anh còn thử thúc đầu gối vào thắt lưng xem có làm nó đứt được không. Qua những mẩu chuyện mà sau này được nghe Holt kể, tôi đoán chắc hẳn anh đã bị mê sảng phần lớn thời gian, hay ít nhất cũng bị những âm thanh và hình ảnh mà anh không kiểm soát được quấy nhiễu, nhưng bất cứ hành động hấp tấp nào anh dự tính cũng bị tiếng gầm gừ của con hổ chặn lại. Và đêm cứ trôi qua như vậy.
Bình minh lên, con hổ sẽ thành mục tiêu lồ lộ cho người đi săn, vì vậy nó bỏ đi, và một lần nữa Holt lại cẩn thận luồn thắt lưng vào đỉa quần, giấu đèn pin, và tụt xuống để thực hiện công việc cực kỳ ghê sợ mà anh vẫn phải đương đầu. Suốt cả buổi sáng, người và thú lượn đi lượn lại hết vòng này đến vòng khác một cách thận trọng và quyết tâm, bên nào cũng cố gắng bắt được đối thủ trong thế có lợi cho mình. Holt có hai viên đạn cỡ lớn trong nòng súng. Con hổ có hai bộ vuốt mà cơn đau buốt nhói dội lên từng đợt và truyền dọc xuống thân bên trái làm cho lợi hại gấp đôi. Không một tia nắng nào lọt được qua vòm lá và dây leo chằng chịt trĩu nặng phía trên những nơi hai đối thủ rình rập nhau. Có một lần Holt phải khụy xuống bên một dòng suối phủ kín lá rụng để uống nước vì anh sắp chết khát, nhưng vừa mới hớp vội được có mấy ngụm dè dặt thì đã cảm thấy sau lưng có gì đó lay động, thế là anh buộc phải đứng lên bước tiếp.
Giữa trưa, độ ẩm trong rừng trở nên không chịu nổi. Một lần Holt từng hỏi tôi: “Làm sao một người sắp chết khát lại đổ mồ hôi nhiều đến thế được nhỉ?” Hai lần trong khoảng thời gian đó dường như anh sắp lả đi, nhưng mối nguy hiểm rình rập phía sau bức màn lá cây rậm rịt đã giữ cho anh tỉnh táo.
Và rồi gần đến giữa buổi chiều, cái nóng gay gắt đã dịu đi một chút, Holt bất ngờ gặp một dòng suối thứ hai, và anh đã bị mất nước nhiều đến nỗi không thể tự kiềm chế lâu hơn được nữa mà phải ngã sấp xuống uống ừng ực. Anh vừa làm vậy, con hổ, đang chăm chăm trông đợi chính khoảnh khắc đó, nhờ tính xảo quyệt ở động vật mà hiểu được rằng một người hoạt động liên tục như vậy, đổ mồ hôi nhiều như vậy, tất sẽ phải uống nước, lập tức phóng vụt ra khỏi nơi ẩn nấp bên bờ suối, nhảy vọt lên ba bước dài phi thường, hạ xuống với bộ vuốt xòe rộng và hàm răng nhe sẵn để rồi đối mặt với nòng một cây súng cỡ lớn vừa đột ngột xoay đúng vị trí vào phút chót.
Một tiếng nổ chát chúa vang lên, rồi đến tiếng thứ hai. Không hề hoảng sợ, Holt bắn thẳng vào ức con hổ đang chồm đến, và tay anh nắm chắc cây súng đến mức viên đạn thứ hai trúng gần như đúng vị trí của viên đạn thứ nhất, phá vỡ cấu trúc xương của con thú to lớn và làm nổ tung quả tim của nó.
Bộ móng vuốt, như được ý chí của bản thân tiếp thêm sinh khí, vẫn điên cuồng cào Holt, nhưng đều trượt. Cái đầu đồ sộ, với bộ ria tua tủa và những đường vằn nhăn nhúm dữ tợn, lao vào mặt Holt sát đến nỗi anh có thể cảm thấy răng của nó sượt qua vai mình. Trong lúc giãy chết, thân nó rơi ngang qua người anh, máu phọt ra vấy bẩn quần áo anh. Và trên các cành cây quanh đó, chim chóc và khỉ ríu rít bàn tán về sự kiện lạ lùng mà chúng vừa được chứng kiến.