1 - CỔ VĂN TRUNG QUỐC
Tôi còn nhớ hồi mười sáu, mười bảy tuổi, một buổi trưa hè bác tôi dắt tôi thăm ngôi mộ một ông nghè giữa cánh đồng Phú Xuyên (Sơn Tây).
Mộ nằm dưới một gốc đa cổ thụ, giữa một cái gò rộng khoảng dăm sào, nhìn ra một cánh đồng chiêm mùa đó loang loáng nước, xa xa bên mặt là núi Hùng và bên trái là núi Tản. Ngôi miếu ở trước mộ đã thấp lại hẹp, tường và mái đen những rêu, đôi câu đối chữ còn chữ mất. Hỏi thì bác tôi đáp rằng chỉ biết cụ nghè họ Nguyễn, sống vào cuối đời Lê, ở nơi khác lại miền này dạy học, họ hàng không có ai, khi mất dân làng nhớ ơn mà lập miếu.
Tôi bùi ngùi. Hiển đạt như ông nghè thời xưa là tột bực, thế thì vì lẽ gì phải bỏ quê quán, lại nơi thô lậu này để gõ đầu dăm ba đứa trẻ rồi gởi luôn nắm tàn cốt ở gò này?
Khi đứng dậy ra về, bác tôi ngâm một câu mà đến nay tôi còn nhớ:
Phú quý mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn[1]
Tôi xin được nghe tiếp, người đáp:
- Ngẫu hứng mà nên, không có ý đối.
Khoảng mười ba năm sau, khi lõm bõm đọc bộ “Cổ văn quan chỉ”, tôi thường thấy thấp thoáng hiện trên trang giấy hình ảnh ngôi mộ cụ nghè giữa cánh đồng bát ngát đó; dường như văng vẳng có cả tiếng sáo diều và thoang thoảng có cả hương lúa cấy nữa.
Và tôi có cảm tưởng rằng nắm xương mồ kia với những danh thơm trong sách này tất cùng chung một tâm sự, một hoài bão. Đều là những bậc thông minh, tài trí siêu quần, mà đều bất đắc chí và đều coi phú quí như phù vân, trọng khí tiết hơn sinh mạng; chỉ khác, người thì giãi bày tâm sự trên giấy, kẻ thì không; nhưng đã là chung một tâm sự thì người giãi bày chẳng phải chỉ giãi bày riêng cho mình mà kẻ không giãi bày cũng như đã giãi bày rồi vậy. Cho nên tập cổ văn này chẳng phải chỉ là tiếng “kêu”[2] của riêng dăm ba chục nhà mà là tiếng “kêu” của cả một thời cổ dài mấy nghìn năm nữa, của cả thời đại chúng ta và những thời đại sẽ tới nữa. Nếu không phải vậy thì tại sao sinh sau cổ nhân mà đọc văn cổ nhân ta cũng muốn gào lên với cổ nhân, nhỏ luỵ với cổ nhân?
Tuy nhiên tâm sự tuy chung mà tâm hồn thì xưa và nay dường như có hơi khác. Thời nay chắc còn những vị như Khuất Nguyên, Giả Nghị, như Đào Tiềm, Phương Hiếu Nhụ…, lẽ nào lại không? Vậy mà mỗi khi muốn có cái cảm giác nhẹ nhàng như người tắm dưới suối lên rồi đứng hóng gió trên ngọn đồi thì chúng tôi cứ phải lật bộ Cổ văn ra chứ không tìm được trong một tác phẩm hiện đại nào cả. Thật là công hiệu, chỉ đọc mươi hàng chúng tôi đã được thở cái không khí của cổ nhân. Đó là cái lợi lớn nhất của Cổ văn đối với chúng tôi[3].
Còn như cái lợi về luyện văn: nghị luận thì chặt chẽ mà đột ngột, tự sự thì giản lược mà linh hoạt, miêu tả thì tài hoa mà gợi hình, lời văn thì hàm súc và cảm động vì luôn luôn thành thực; cái lợi đó chúng tôi khỏi phải bàn tới, mà cổ nhân cũng chẳng muốn chúng ta bàn tới.
Sài gòn, ngày 15-5-1965
Chú thích:
[1] Cụ Nguyễn Hiến Lê có ba người bác: bác cả tên Nhuận hiệu là Tùng Hương, bác hai tên Cổn hiệu là Kế Phương, bác ba tên Côn hiệu là Phương Sơn. Người ngâm câu “Phú quý mạc cầu, nhất phiến băng tâm cư loạn” là cụ Kế Phương. Đến khoảng năm 1946, cụ Phương Sơn đối lại: Thư hoa chân ái, sổ thiên văn tự lưu phương. Một người bạn của cụ Nguyễn Hiến Lê dịch 2 câu đó như sau: Phú quí chẳng màng, giữ tấm băng trinh thời loạn; Sách hoa riêng thích, thơm trang giấy mực đời sau. (Goldfish).
[2] “Bất bình tắc minh” (Hàn Dũ).
[3] Trong Hồi kí, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết thêm: “Cho tới bây giờ, tôi vẫn cho những bài Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, Hĩ vũ đình kí của Tô Đông Pha, Tuý ông đình kí của Âu Dương Tu, Lan Đình tập tự của Vương Hi Chi, Nhạc Dương lâu kí của Phạm Trọng Yêm… là những viên ngọc nhỏ trong văn học Trung Hoa”. (Goldfish).