← Quay lại trang sách

Chương hai ÂM MƯU DƯƠNG DỤNG

Âm muu dương dụng, lấy nghịch làm thuận

Dương mưu âm thi, lấy thuận làm nghịch.

Trong xã hội hiện đại do khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin phát triển nhanh chóng khiến cho việc liên lạc giữa người này với người kia rất thuận lợi và có nhiều phương thức. Từ đó đòi hỏi mọi người phải có kinh nghiệm và nghệ thuật giao tiếp trong xã hội.

Bất kể xã hội biến đổi như thế nào, thời đại phát triển ra sao, con người là «chúa tể của muôn loài», ai cũng đều có chí lớn và nguyện vọng vượt trội hơn người và dốc sức xây dựng một sự nghiệp.

Có người trong cạnh tranh đã thành công, trở thành nổi tiếng; nhưng có người lại bị thất bại thảm hại, tìm không ra hướng đi.

Thực ra, mỗi người đều có «mưu kế» riêng, «cách sống» riêng của họ, mấu chốt là ở chỗ ai là người biết rõ tiềm năng của mình, phát hiện và phát huy ưu thế của mình, giương cao cái mạnh, hạn chế cái yếu kém như thế nào, từ đó đạt được mục đích nhẹ nhàng mà chắc chắn.

Cuộc sống giống như đi đường, nếu muốn đi nhanh phải là chân trái đi trước, thì chân phải ở sau; nếu muốn chân phải ở trước, thì chân trái sẽ phải ở sau, nếu hai chân đều muốn đi trước, tốc độ càng chậm thêm – người sẽ không đi như người nữa mà sẽ trở thành con thỏ nhảy nhót.

Cũng giống như việc thở của con người: nếu muốn sống thì phải có thở ra, có hít vào, chỉ thở ra mà không hít vào, hoặc chỉ hít vào mà không thở ra, con người đều không thể sinh tồn được.

Kinh nghiệm của cuộc sống cũng như vậy. Người ta không thế cả một đời luôn hớn hở đắc ý, thuận buồm xuôi gió, nhất định sẽ có gập ghềnh, nhất định sẽ có thất bại và không ít lần lúng túng khó xử. Là bậc đại trượng phu thì nên xem mọi việc sai lầm của đời người bình thản một chút, chính là cái gọi là đại trượng phu biết co biết duỗi.

Bất kể là nam hay nữ, bất kể họ có phát ngôn hoặc tuyên bố hay không, ở nơi sâu thẳm trong lòng mọi người, đều là tìm trăm phương ngàn kế để cho cuộc đời của mình đẹp hơn, đầy đủ hơn.

Cái đẹp có thể có nhiều phương thức.

Đàn ông có thể thông quá sức mạnh của mình, thông qua sự nghiệp của mình v.v... để đạt được mục đích đẹp. Phụ nữ cũng vậy - họ đơn giản nhất là vận dụng tướng mạo, khí phách, tu dưỡng v.v... đẹp có thể làm cho con người tâm tính vui vẻ, việc này không nói cũng hiểu.

Chúng ta sẽ dùng cái đẹp để thảo luận vấn đề. Có một số người vì sao suốt một đời sống ảm đạm. Thật ra không phải là Thượng Đế không công bằng đối với họ – thậm chí họ có khuôn mặt và ngoại hình rất xuất sắc, song vì sao họ không được tạo lập cuộc đời sáng lạn?

Đó là vì: họ không phải là «người có chí» trong cuộc sống, không biết vận dụng mưu trí để làm phong phú cuộc đời. Đàn ông rượu chè ăn uống bê tha như cái xác không hồn; Đàn bà trở thành lọ hoa và búp bê không có trái tim, họ không biết được giá trị đời người của mình.

Xét theo những người bình thường trong xã hội từ xưa đến nay đa phần nữ giới không để ý đến vẻ bề ngoài của nam giới, cái họ chú trọng là sự tinh nhanh tháo vát, vẻ dí dỏm và năng lực sáng tạo của người đàn ông. Còn nam giới chú trọng đến nữ giới, cũng không chỉ là đôi má đào. Bởi vì trong cái nhìn của nam giới, nữ giới không phải vì xinh đẹp mà đáng yêu, hoàn toàn ngược lại, họ vì đáng yêu mà xinh đẹp.

Thế thì, trong đời sống hiện thực, những nam giới và nữ giới bình thường, thế nào mới là «đạt tiêu chuẩn»?

Chỉ có một câu trả lời: Biết lẽ phải trái đúng sai, hay còn gọi là biết về đạo âm dương, mới có thể làm cho cuộc đời của mình phong phú lên, sáng lạn lên và đẹp lên.

1. Muốn chiếm đoạt phải đem cho trước

Thả con săn sắt, bắt con cá sộp.

Bạn đã từng câu cá chưa? Phàm những người từng có kinh nghiệm câu cá, đều có thể hiểu được một điều tối thiểu: nếu muốn dẫn cá từ đáy nước vào trong chiếc giỏ của mình, trước hết phải chuẩn bị tốt mồi câu, phải dụ cá đến ăn mồi câu, từ đó mới có thể bắt được con cá lớn.

Cho nên người ta thường nói: Kẻ muốn được tiện lợi lớn, trước tiên phải thiệt thòi nhỏ.

Trong đời sống xã hội và cạnh tranh chốn thương trường, để đạt được mục đích đã định, người ta trước hết bảo vệ lợi ích của mình, sau đó nghĩ cách giành lấy lợi ích của đối phương (bao gồm chiếm lĩnh thị trường của đối phương, đoạt lấy ưu thế của đối phương). Muốn vậy mình sẽ phải nhường một bước trước, hoặc nhường ba bước trước, thậm chí nhường năm bước trước – Cho đối phương một số chỗ tốt và lợi ích trước, sau đó chờ đợi thời cơ chín muồi, không những có thể giành lại những cái mình mất, mà còn có thể đoạt lấy nhiều thứ lớn hơn.

Thời Xuân Thu – Chiến quốc, nhà tư tưởng lớn Lão Tử đã từng nói: «Tương dục nhược chi, tất cố cường chi; tương dục phế chi, tất hồi hưng chi; tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi».

(Ý nói: Muốn làm suy yếu nó, phải tạm thời tăng cường nó; muốn phế bỏ nó, phải tạm thời phất nó lên; muốn chiếm đoạt nó, phải tạm thời đem cho nó.)

Tương truyền khi Lão Tử đi qua cửa quan Hàm Cốc, cho người khác ăn bánh, phân cho họ mỗi người một chiếc để ăn, còn dư lại một chiếc, Lão Tử muốn ăn, nhưng ngượng mà không trực tiếp cầm để ăn. Ông nhường cho bạn trước, bạn ngượng không nhận, đẩy lại cho Lão Tử, trong tình huống đối phương nhường lại, Lão Tử liền «danh chính ngôn thuận» ăn chiếc bánh này. Từ đó đưa ra kết luận nói «tương dục đoạt chị, tất cố dữ chi» (muốn chiếm đoạt nó, phải tạm thời đem cho nó).

Cuối thế kỷ XIX, trên tờ «Thân báo» xuất bản tại Thượng Hải đã đăng câu chuyện dầu hỏa của Mỹ đã đánh vào thị trường Trung Quốc thế nào:

Trung Quốc do thói quen của xã hội tự cấp tự túc mấy ngàn năm, khiến cho người Trung Quốc nói chung đều thiếu ý thức trao đổi hàng hóa. Mọi người thời đó ban đêm đều dùng dầu đậu nành để thắp đèn. Lúc đó có một anh chàng tên là Henry từ Mỹ đến Trung Quốc bán đèn bão, nhưng không có một nhà nào dùng «trò chơi nước ngoài» chụp đèn bằng pha lê của anh ta. Trong tình huống không thể đem những chiếc đèn bão chở về New York nữa, anh ta đã phải đem tặng không cho người Trung Quốc thuộc tô giới Thượng Hải mỗi nhà một chiếc đèn bão, lại còn biếu thêm một lít dầu hỏa nữa. Người Trung Quốc lúc đó không biết dầu hỏa là gì, càng không biết có thể từ lòng đất rút dầu lên để thắp đèn, chỉ vui vì được chiếm không một sự tiện lợi. Không dùng thì bỏ phí mà dùng thì cũng không mất gì.

Thế là, mọi người đều thử dùng đèn bão dầu hỏa để chiếu sáng. Cảm thấy quả nhiên so với đèn dầu đậu nành của Trung Quốc vừa sáng lại vừa chống gió chống mưa, nên nhà nhà đều ưng ý và phổ biến rộng rãi.

Henry hàng ngày đem thêm dầu đến tận cửa cho những người Trung Quốc dùng đèn bão, khiến cho những người Trung Quốc dùng dầu đậu nành từ chỗ không thèm nhìn ngó đến đèn bão cũng bắt đầu tiến hành dùng thử một cách hiếu kỳ. Henry liền nắm lấy đặc điểm người ta thích chiếm tiện lợi nhỏ, đã đem tất cả số đèn bão và dầu hỏa biếu hết cho mọi người.

Tiếp theo, anh ta lập tức từ Mỹ vận chuyển đến Trung Quốc một số lượng lớn dầu hỏa bắt đầu bán cho những người sử dụng đèn bão. Trong thời gian nửa năm, dầu hỏa đã chiếm lĩnh được thị trường ở Thượng Hải. Mọi người cùng lấy việc dùng đèn bão làm mốt. Sau một năm chiếc đèn nhỏ dùng dầu đậu nành truyền thống Trung Quốc đã bị đẩy ra khỏi các khu phố của Thượng Hải. Henry do vậy đã phát tài to, trở thành vua bán dầu hỏa thời đầu của Mỹ.

Trong cuộc sống hàng ngày, những chuyện giống Henry có rất nhiều. Người thành công thường là những người sau khi bị trắc trở, đã biết lợi dụng tâm lý mọi người biết đều thích chiếm tiện lợi, muốn chiếm đoạt thì trước tiên phải biết cho, từ đó sẽ đạt được mục đích cuối cùng của mình.

Cuối thời Xuân Thu, Trí Bá là một trong bốn vị khanh trướng của nước Tần, dựa vào uy danh và thế lực của mình, ông đã đòi đất với Ngụy Tuyên tử. Ngụy Tuyên tử nghe theo lời của Nhiệm Đăng đã «cắt đất giao cho ông ta». Lại đòi đất đối với Hàn Khang tử, Hàn Khang tử cũng không dám không cho. Nhưng khi Trí Bá đòi đất với Triệu Tương tử, thì bị từ chối. Trí Bá cả giận, liền bức hiếp hai nước Hàn, Ngụy bao vây Triệu Tương tử tại Tấn Dương (nay là vùng Tây Nam Thái Nguyên tỉnh Sơn Tây), dẫn nước vào trong thành. Triệu Tương tử lợi dụng mâu thuẫn hai nước Hàn, Ngụy với Trí Bá, đang đêm cử Trương Mạnh Đàm ra khỏi thành, thuong thuyết với hai nước Hàn, Ngụy, ba nước thông mưu với nhau cùng đánh Trí Bá, Trí Bá thua và bị giết, vùng đất của ông ta cũng bị ba nước chia nhau. Cái đó gọi là chiếm đoạt của người thì bị người đoạt lại. Lại chuyện Tấn Hiến công tặng ngọc quý cho Ngu, rồi lại diệt Ngu tức là «cho nó để rồi chiếm đoạt nó». Tấn Hiến công dự định mượn đường từ nước Ngu đi đánh nước Ngụy, liền dùng ngọc quý của vùng Thùy Cúc và xe bốn ngựa của vùng Khuất Sản đem tặng cho nước Ngu. Ngu vương trông thấy ngọc quý và tuấn mã, yêu thích không nở bỏ, bất chấp sự phản đối của Cung Chi Kỳ và những người khác, đã chấp nhận ý kiến của Tấn Hiến công. Do đó quân Tấn đã đi qua nước Ngu đi đánh nước Quắc, không tổn hao binh lực bao nhiêu, đã đánh xong nước Quắc. Quân Tấn quay về hội sư tại nước Ngu, nước Ngu không hề chuẩn bị, cũng không có năng lực chống lại sự tấn công của quân Tấn, rất nhanh chống bị quân Tấn đánh phá, Ngu vương cũng bị bắt sống. Việc đó gọi là «cho nó để rồi lấy lại nó».

Xã hội là do mọi người đưa vào quan hệ lợi ích kết thành. Mọi người đều đứng trên lập trường lợi ích của mình để đánh giá cuộc sống, do đó người khôn ngoan phải nên xét thời cơ không nên so đo tính toán.

Phàm là những người biết chơi cờ đều hiểu đạo lý «thí tốt giữ xe». Đây là trò chơi trí tuệ, thể hiện kinh nghiệm sống truyền thống của người Trung Quốc. Nhưng, nói đi phải nói lại, người ta cũng không thể mưu tính được hết mọi nhẽ, thế thì quá thông minh, đôi khi tính quá hóa quẩn, trái lại có thể buộc cả mình vào trong đó. Cái gọi là «trộm gà không được lại mất nắm gạo» chính là cái lý này.

Đạo của âm dương, khi căng khi trùng, vừa thuận vừa nghịch, bồi bổ và xúc tiến lẫn nhau như thế mới hợp lẽ.

2. Trước giúp tăng thêm vẻ ngạo mạn, sau ra tay diệt mạnh

Trong thương trường hoặc trong chiến trường, khi sức mạnh của đối thủ lớn hơn hẳn sức mạnh của mình, hoặc khi thực lực cạnh tranh của đối thủ so với mình lớn hơn rất nhiều, nếu muốn thắng đối thủ, thì có thể cho nó hưng thịnh lên trước, phát triển lên trước, đây chính là điều kiện tạo cho nó đi theo hướng phản diện.

Ví dụ, có thể cố ý trao cho nó nhiều quyền lực để đối thủ chiếm được tiện lợi rất lớn, để cho nhược điểm nhân tính của đối thủ bộc lộ ra đầy đủ – nó tất nhiên sẽ hống hách lộng quyền, làm xằng làm bậy, tưởng chừng như nhất thiên hạ, đầu óc choáng váng, đợi đến lúc mọi mưu mẹo của nó đã dùng hết, bạn sẽ thừa cơ xuất kích, lúc cần ra tay thì ra tay, thu địa bàn của nó về tay mình.

Bậc đại trượng phu phải nên lòng dạ rộng mở, xem thiên hạ là của mình.

Henry Ford, người sáng lập công ty ô tô Ford của Mỹ, sau chiến tranh thế giới lần thứ I chỉ là một người thợ sửa chữa cơ khí con con. Để sáng lập Công ty ô tô Ford, ông ta có ý thức nâng đỡ hơn hai mươi xưởng xe hơi cỡ nhỏ, trước khi mình chưa phát đạt, tiến hành hợp tác nhượng lợi với những xưởng này, một khi thời cơ của mình chín muồi, liền lợi dụng uy lực của thị trường, thu mua toàn bộ mười mấy xưởng nhỏ này vào tay mình, chỉ một lần hành động trở thành tập đoàn xí nghiệp chế tạo ô tô lớn nhất nước Mỹ, thậm chí nổi tiếng cả trên thế giới.

Chuyện như thế, trên thương trường đâu đâu cũng có, kinh nghiệm thành công của nhiều công ty xuyên quốc gia đều là giống như vậy.

Sự thật chứng minh, những người nhìn xa biết rộng có thể nhìn thấy rõ tương lai biết cách để cho người khác phát triển, để cho người khác phát tài, cuối cùng tất cả những cái người khác sáng tạo ra, có thể quy về mình toàn bộ.

Trong lịch sử Trung Quốc, thời Tây Hán, Hoắc Quang nắm quyền lớn trong triều đình, và còn có quyền cao mấy triều liền. Thời Hán Vũ đế, ông nhận chức Phụng xa Đô úy, thời Hán Chiêu đế ông làm Đại tư mã tướng quân, được phong Bác Lục hầu, phò tá Chiêu đế còn thơ ấu chấp chính. Sau khi Hán Tuyên đế lên ngôi, liền cảm thấy họ Hoắc quyền lực quá lớn, tạo thành uy hiếp đối với mình, bèn muốn tiêu diệt lực lượng của họ Hoắc. Thế là Hán Tuyên đế ráo riết phong hầu, thăng quan tiến tước đối với gia tộc họ Hoắc. Đây chính là làm cho họ Hoắc xa hoa dâm dật, tự cao tự đại, không coi các bạn đồng liêu ra gì nữa. Sau khi Hoắc Quang chết, gia đình họ Hoắc càng thêm ngang ngược bất chấp pháp luật, lợi dụng Ngự y Thuần – Vu Diễn đầu độc chết Hứa Hoàng hậu. Hán Tuyên đế bèn quyết tâm tiêu diệt họ Hoắc, tới tấp điều thân thuộc của họ đi nơi khác, làm yếu quyền hành sau này, đồng thời mượn cớ Hoắc Vũ vịn vào bệnh không lên triều, mưu đồ làm loạn, liền tiến hành đánh dẹp, bắt bỏ ráo riết, bắt giữ xử lý từng người một. Cả nhà họ Hoắc bị lục soát và chém giết, kết cục rất bi thảm.

Để cho đối thủ phát triển, thật ra không phải là mình không phát triển, mà là trong phát triển, mình ngấm ngầm nắm chặc phương hướng, tìm kiếm cơ hội, sáng tạo cơ hội, cuối cùng đạt được mục đích thẳng đối thủ.

3. Trước mở, sau khép

Chúng ta nên làm một người lương thiện thẳng thắn.

Nhưng, đối với những kẻ dã tâm trắng trợn, những kẻ rắp tâm hủy diệt bạn bè, nếu như theo dương kinh, thì cần phải đối chọi quyết liệt, một bước không nhường. Mà việc đó trên thực tế là đấu dũng, không phải đấu mưu, rất có thể khi tranh đấu với đối thủ, cái bạn mất sẽ nhiều hơn so với lúc đầu, kết cục còn bi thảm hơn so với dự tính.

Đấu tranh cần phải chú trọng sách lược, đấu tranh cũng là một môn nghệ thuật.

Mao Trạch Đông một đời chỉ nói đấu tranh, hơn thế còn thương xuyên nói đến nghệ thuật đấu tranh. Vì vậy có thể nói: họ dùng cương, ta dùng nhu, thì có thể lấy nhu khắc cương; họ dùng dương ta dùng âm, thì có thể lấy âm khắc dương, lấy âm thắng dương. Trong «Kinh Dịch», truyền thống cua Trung Quốc đâu đâu cũng toát lên tư tưởng của phép biện chứng.

Đối với những người muốn đặt bạn vào chỗ chết, sách lược cần áp dụng là đối với họ trước dùng lời lẽ khiêm nhường hết sức lễ độ, nhường trước một bước, tranh thủ đạo nghĩa, gọi là «trước lễ sau binh», «trước quân tử sau tiểu nhân». Cố ý làm tăng vẻ ngạo mạn của đối phương, để anh ta ung dung tự đắc công kích khắp nơi, bốn phía bị thù địch, đợi đến khi anh ta bị khó khăn, ta sẽ hành động.

Ví dụ, nước Ngô sau khi đánh thắng nước Việt, ngang tàng đắc chí, chuẩn bị phát động chiến tranh đối với nước Tề. Việt vương liền phụ họa, xúi giục nước Ngô đánh Tề. Mục đích là ở chỗ: dâng cho nước Ngô bằng lợi ích vật chất nhất định, khiến cho Ngô vương vui sướng, đồng thời kính cẩn lễ phép với Ngô, xúi giục Ngô vương thân chính dẫn quân đội tấn công nước Tề. Nếu như nước Ngô đánh nhưng không thắng, lực lượng của nước Ngô liền bị suy yếu. Nếu như đánh thắng, Ngô vương khẳng định cho mình là nhất thiên hạ, thừa thắng đánh nước Tấn mạnh hơn, quả đúng như vậy, lực lượng bên trong của nước Ngô trống rỗng, nước Việt bèn có thể thừa cơ có chỗ hổng đột nhập vào, đem quân sang Ngô. Thực tiễn về sau đã chứng tỏ: chủ trương «trước mở sau khép» của nước Việt là đúng đắn. Việt vương Câu Tiễn thừa thời cơ nước Ngô đánh nước Tấn, đã thân chinh dẫn 3000 dũng sĩ đánh nước Ngô, cuối cùng tiêu diệt nước Ngô dễ dàng.

Napoléon Đại đế của nước Pháp, ở châu Âu thậm chí cả thế giới là đại anh hùng rất tài giỏi. Bọn vua chúa phong kiến châu Âu lúc đó, để bảo vệ lợi ích của họ đã nhao nhao chỉ trích Napoléon là tên ác ôn, là tên phá hoại điên rồ, là tên quỷ dữ, đồng thời đã tổ chức thành Liên quân châu Âu, tiến hành đánh dẹp Napoléon. Dưới sức ép to lớn, Napoléon cầm đầu quân đội của mình đã phải nhân nhượng nhiều lần. Khi lực lượng phát triển đến giai đoạn nhất định, nội bộ Liên quân châu Âu do mâu thuẫn về lợi ích đã trở nên thay đổi, hơn nữa bị nhân dân các nước châu Âu phản đối. Lúc này, Napoléon liền phát động phản kích, chỉ một lần hành động đã đập tan được sự tấn công của địch, giành được thắng lợi cuối cùng.

Người ta nếu muốn giành được thành công lớn về sự nghiệp, thì nên bằng lòng chịu thiệt, thậm chí bằng lòng chịu thiệt mà không phàn nàn, không nên so đo tính toán quá nhiều, vì mục tiêu cao xa, vì lý tưởng cao hơn người khác, cần biết thiết thực bắt tay làm từ bây giờ, bắt tay làm cả việc chịu thiệt.

4. Trước nhường lợi, sau được lợi

Hễ đến những ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, các cửa hàng buôn bán lớn đều đưa ra chiêu bài «bán khuyến mãi» nhanh, tìm trăm phương ngàn kế thu hút mọi người, khiến người ta vui vẻ móc tiền từ trong túi ra để mua hàng.

Nhường lợi, kỳ thực là trước nhường cho bạn được lợi nhỏ, còn cuối cùng nhà buôn giành được khoản lợi lớn.

Cái gọi là «không nỡ rời con, sao bắt được sói» chính là cái lẽ này.

Thời Tây Hán, tộc người Thiền Vu yếu mà tộc người Đông Hồ mạnh, Môtu của tộc Thiền Vu giết cha là Touman tự lập quân chủ. Đông Hồ nghe nói Môtu lập thành quân chủ, bèn cử người đến bảo Môtu: «Muốn được ngựa thiên lý thời Touman». Quần thần đều nói đây là ngựa quý của Hung Nô không thể cho, nhưng Môtu lại nói không thể vì một con ngựa mà ảnh hưởng đến quan hệ với nước láng giềng, đã đem ngựa dâng cho. Không lâu, Đông Hồ lại sai người đến đòi lấy Vu thị Hoàng hậu, các đại thần đều rất phẫn nộ, cho rằng hành động này của Đông Hồ là rất vô lễ, một người đàn bà mà ảnh hưởng đến quan hệ với nước láng giềng, lại đem Vu thị dâng cho Đông Hồ. Vốn là giữa Đông Hồ với Hung Nô có khoảng đất hoang hơn 1.000 dặm, hai nước mỗi nước ở một bên. Đông Hồ nói: «Mảnh đất này là đất hoang, ta muốn chiếm nó». Các đại thần nói: «Mảnh đất này vốn chính là đất hoang, cho họ cũng được, không cho họ cũng được». Lần này, Môtu nổi giận lên đùng đùng nói: «Đất đai là căn bản của quốc gia, làm sao có thể cho người khác?» đồng thời đem những người đồng ý cắt đất chém đầu hết. Sau đó Môtu mặc áo giáp đội mũ sắt lên ngựa, dẫn quân đi đánh Đông Hồ. Lúc đầu Đông Hồ coi thường Môtu, cũng không chuẩn bị bố trí phòng ngự, khi đại quân của Môtu kéo đến, Đông Hồ trở tay không kịp, không lâu bị đại quân của Môtu diệt ngay tức khắc.

Người ta nên biết vứt bỏ, nên dám vứt bỏ, đồng thời lại phải sành vứt bỏ.

Những năm gần đây các bài ca lưu hành hát: «Dám liều bỏ mới có thể thắng».

Song, chỉ dựa vào dám liều, ở thời đại ngày nay thì khả năng thắng rất nhỏ. Đại bộ phận những người hoàn thành sự nghiệp đều xử lý mình ở «điệu thấp», xử lý sự nghiệp của mình ở «điệu thấp», mà còn ngấm ngầm vứt bỏ tất cả những cái nên vứt bỏ, từ đó giành ra thời gian và tinh lực chiếm lĩnh mục tiêu lớn hơn, cao hơn. Đây chính là muu kế tuyệt vời của những người biết đọc Âm kinh.

Chỉ biết đọc Dương kinh, chỉ có thể khích lệ cái dũng thất phu của con người, mà cần phải cùng đọc cả Âm kinh và Dương kinh, mới có thể hoàn thành sự nghiệp, mở mang cơ đồ.

5. Nếu muốn duỗi cần phải co trước

Bẩm sinh của con người chính là trước co sau duỗi.

Không co thì không thể có duỗi, hình thái của con người nằm trong bụng mẹ là co cuộn người lại. Vì sự sinh trưởng sau khi ra đời, người ta trước hết cần phải co lại sau đó mới có thể duỗi ra.

Đạo lý này rất đơn giản. Cây cỏ trước khi nảy mầm là co cuộn thân lại.

Trong cuộc sống, trong sự nghiệp, khi một người ở trong thoái trào, hoặc trong thất bại, hoặc khó khăn, hoặc trong nghịch cảnh, thì cần phải vận dụng trí tuệ «co lại». Nếu trong lúc như thế một mực nhấn mạnh «duỗi», việc đó tất nhiên có thể cả đến tính mạng của mình cũng không giữ nổi, thì còn có tư cách gì để nói đến sự nghiệp, nói đến tình yêu, nói đến lý tưởng, nói đến tương lai nữa?

Thời Đường Huyền tông, Ngụy Tri Cổ và Diêu Sùng đều làm việc trong triều, địa vị ngang nhau. Ngụy Tri Cổ vốn là do Diêu Sùng tiến cử. Hai con trai của Diêu Sùng ở Lạc Dương làm ăn không lương thiện, còn muốn dựa vào quan hệ cũ của cha mình để nhờ Ngụy Tri Cổ. Ngụy Tri Cổ không những không giúp, trái lại đó bẩm báo với Huyền tông, nhưng những việc này đều bị Diêu Sùng biết cả.

Một hôm, Huyền tông triệu kiến Diêu Sùng đến hỏi tình hình của hai con ông, Diêu Sùng đã suy đoán được ý của Huyền tông, liền nói: «Hai con của thần phân công điều khiển và quản lý ở Đông đô, nhưng chúng là người có lòng bản lĩnh tương đối cao mà rất ít sợ, chắc rằng chúng thường làm phiền Ngụy Tri Cổ».

Huyền tông vốn cho rằng Diêu Sùng sẽ bao che con cái của mình, không ngờ tới ông có thể chân thành thẳng thắn có một không hai đến như thế.

Thế là lại hỏi ông ta làm thế nào có thể khẳng định như thế, Diêu Sùng nói: «Ngụy Tri Cổ là do thần tiến cử. Con trai thần đương nhiên có thể lợi dụng việc tiến cử của thần mà đến xin Ngụy Tri Cổ giúp ».

Huyền tông cho rằng Diêu Sùng nói có lý, liền muốn trách mắng Ngụy Tri Cổ, nhưng lúc này Diêu Sùng lại hết sức bảo vệ Ngụy Tri Cổ, nói: «Hành vi của con thần bất chính, có nợ ơn lớn của bệ hạ, quở trách Tri Cổ, các đại thần ở bên ngoài ắt cho rằng bệ hạ vị nể riêng tư với thần».

Huyền tông không quở trách Ngụy Tri Cổ, nhưng không bao lâu đã giáng ông xuống làm Công bộ Thượng thư. Diêu Sùng chỉ là nói những điều hay cho người khác mà đạt được mục đích của mình, sự tài giỏi khôn khéo thủ đoạn của ông ta không thể không làm cho người ta khâm phục.

Trong «Tây sương ký» của Vương Thực Phủ, Hồng nương đã từng có một đoạn lời hát cho Lão phu nhân:

Khi phải nhường cho người khác thì nên nhường,

..........

Chúng ta đối nhân xử thế, cũng nên có cương có nhu, xử lý khéo léo.

Thời Tam quốc những người xưng hùng nổi dậy như ong vỡ tổ, anh hùng không ngừng xuất hiện. Lưu Bị mang hoài bão lớn, nhưng trước khi ông giành được thế, đành phải ăn nhờ ở gửi, tá túc vào trong đại doanh của Tào Tháo.

Một lần, Tào Tháo uống rượu luận anh hùng, ông ta nói, trên đời ngày nay người thật sự có thể hoàn thành nghiệp lớn chỉ có Tào Mạnh Đức và Lưu Huyền Đức thôi. Lưu Bị vừa nghe câu nói này bỗng nhiên khiếp sợ đến run bắn người, để rơi cả đũa xuống đất, chính lúc đó trên trời lóe chớp và kèm tiếng sấm vang, Lưu Bị vôi vàng giấu nỗi kinh hoàng của mình...

«Co lại » là trí tuệ của đời người.

Thường thường người ta đều có thể làm được «duỗi ra», nhưng rất khó làm được «co lại» giống như Lưu Bị. Đồng thời «co» cũng là để bảo vệ mình vượt qua chỗ khó khăn, từ đó giành được phát triển sau này.

Việc này liên quan đến vấn đề «thể diện» truyền thống của người Trung Quốc.

Quan niệm «thể diện» của người Trung Quốc đã có từ lâu. Bắt đầu từ Khổng Tử đã hay nói đến thể diện. Có một số người thậm chí vì thể diện, có thể vứt bỏ hạnh phúc một đời của mình. Hầu như người ta cần phải một đời sống vì thể diện.

Trung Quốc có câu cổ ngữ: «Người cần mặt, cây cần vỏ». Nếu như đến sự nghiệp đều không thể giữ được, đến tính mệnh đều bị uy hiếp, thế mà vẫn cần thể diện thì có tác dụng gì?

Thể diện là thiết kế cho đời người, hoặc nói thể diện cũng chính là quan niệm đạo đức của người ta vậy.

Người ta sống như thế nào, cũng đều phải theo quy luật. Ít thì năm sáu mười năm, nhiều thì tám chín mười năm. Con người hiện đại cần phải có cách sống hiện đại, không thể cái này cũng quan tâm, cái kia cũng quan tâm. Cái này cũng không bỏ ra được, cái kia cũng không bỏ được, đến cuối cùng tất nhiên một việc không thành.

Biết chọn hay bỏ, trên thực tế chính là biết sống.

6. Phát sinh ra thế thắng người sau, vẫn có thể xem là mưu cao

Người ta xuất phát từ lòng tự tôn hoặc xuất phát từ thể diện, thường đều muốn hơn người giành phần thắng.

Hơn hai ngàn năm trước Khổng Tử đã từng nói: Đời người có ba điều khuyên lớn: sai lầm người trẻ tuổi thường dễ phạm nhất chính là «đấu dũng». Trong thời đại cạnh tranh, người ta đặc biệt dễ để lộ ra dũng khí, hào khí và dã tâm của mình.

Những thứ này đều là dương kính, còn âm kinh mách bảo cho người ta: Tạo thế thắng người sau cùng vẫn có thể xem là một mưu cao.

Trong chuyện «Thủy Hử» Lâm Xung là giáo đầu tám mươi vạn quân cấm vệ, bị những loại như Cao Cầu vu cáo hãm hại, bị rơi vào nghịch cảnh, trên đường giải đến nhà tù, đã ghé đến nhà bạn cũ là Sài Tiến. Sài Tiến là người nổi tiếng trên đời bởi trọng nghĩa khinh tài, giao thiệp rộng rãi với các hào kiệt trong thiên hạ. Trong trang ấp của ông đã nuôi hàng loạt «thực khách», ông đã ngưỡng mộ Lâm Xung từ lâu, đồng thời đón Lâm Xung đến trang ấp của ông, đối đãi như khách quý. Cách làm đó của ông đã làm cho Hồng giáo đầu vô cùng bực tức, do đó đã luôn luôn khiêu khích, muốn đọ võ với Lâm Xung, muốn đưa Lâm Xung vào chỗ chết. Mà Lâm Xung lúc đó trên mặt bị khắc chữ, toàn thân đầy vết thương, tỏ ra mình không dám đọ võ, việc này lại càng làm cho Hồng giáo đầu kiêu căng hết sức.

Dưới sự chủ trì của Sài Tiến, bằng phương thức đánh đố, Lâm Xung bị bức triển khai một trận đấu võ với Hồng giáo đầu. Trước cuộc đọ võ, Lâm Xung nhường nhiều lần, Hồng giáo đầu thì tấn công mãi. Lâm Xung liên tục hét «chơi đi, chơi đi...», khi mưu mẹo của Hồng giáo đầu sử dụng hết, Lâm Xung dùng một cây thương nhè nhẹ cất lên với thế «bốn lạng nhổ bật ngàn cân» đã đánh ngã Hồng giáo đầu lăn xuống đất.

Tạo thế thắng người sau, càng có thế phát huy mưu trí và sức mạnh của con người.

Tăng Quốc Phan là một đao phủ trấn áp phong trào Thái Bình Thiên quốc. Nhưng khi ông ta mới thành lập Tương quân bóp chết Thái Bình Thiên quốc, lại liên tiếp thất bại, khiến cho Từ Hy Thái hậu và bọn quý tộc tại triều đình ở Bắc Kinh hết sức bất mãn, thậm chí có người công khai đề xuất phải giết Tăng Quốc Phan, muốn lấy đầu của Tăng Quốc Phan để tạ ơn vương triều Đại Thanh.

Trong tình huống cực kỳ khó khăn, trên tờ biểu của Tăng Quốc Phan tâu lên Hoàng thượng chỉ có thể viết: Thần cúc cung tận tụy, nhưng càng đánh càng thua.

Song, ông ta biết những điều này tâu lên, tất nhiên là có thể chuốc lấy họa chết. Thế là liền đổi lại: Thần cúc cung tận tụy nhưng càng thua càng đánh - «càng đánh càng thua» và «càng thua càng đánh», số chữ giống nhau, chỉ là đảo lộn lại một chút vị trí, thì ý tứ đã hoàn toàn khác. Điều này vừa thuyết minh rõ tình hình chiến đấu ở tiền tuyến, không nói dối Hoàng đế, lại bày tỏ được quyết tâm của Tăng Quốc Phan.

Sự thực quả nhiên cũng như thế, dưới sự đánh dẹp không ngừng của Tăng Quốc Phan và Tương quân, phong trào Thái Bình Thiên quốc rầm rầm rộ rộ, cuối cùng đã bị trấn áp.

Đối nhân xử thế «ra tay trước là mạnh», cố nhiên có mặt tốt, nhưng đồng thời cũng có mặt bất lợi.

Cần phải nhớ: bọ ngựa bắt ve, không dè chim sẻ đứng sau. (Ý nói: vì ham lợi trước mắt mà quên họa sau lưng). Bạn cho rằng bạn là người tài giỏi, nhưng rừng trong thiên hạ bao la, chim gì đều có thể có. Những người tài năng lớn hơn bạn vẫn nhiều, có người chỉ vì cơ hội chưa đến mà thôi.

Cho nên, cuộc sống cũng vậy, sự nghiệp cũng vậy đều cần phải «nhìn trước một chút» là hay nhất. Khổng Tử nói: «Suy nghĩ thật kỹ rồi mới làm», không nên cho rằng khắp nơi đều là vàng bạc châu báu, thò tay ra muộn, sẽ có thể bị người khác nhặt hết, sẽ có thể không có phần của mình.

Người khéo xử sự là những người trước nhường cho người khác phát tài, sau đó đem những người phát tài và toàn bộ của cải quy về của mình. Cơ hội luôn luôn có, chỉ là cơ hội của một số người ở trước, cơ hội của một số người ở sau. Còn người muốn thành công, thì nên thà để cho cơ hội của mình ở sau, mà không nên hấp tấp đi tranh giành cái gì với người khác.

«Tôn Tử binh pháp» có nói: «Người không đánh mà làm khuất phục quân của địch là thượng sách». Ai có thể trong cuộc sống, trong sự nghiệp không đánh mà thắng, người đó chính là anh hùng.

Trung Quốc có câu cổ ngữ «Ra khỏi nước mới nhìn thấy hai cổ chân»; phương tây cũng có câu tục ngữ có ý tương tự, là: «Ai cười sau cùng thì người đó cười hay nhất».

Chúng ta nên lĩnh hội sâu sắc hàm ý của những câu nói đầy trí tuệ này, dùng nó để chỉ đạo lời nói và việc làm của chúng ta, nhất thiết không nên cười trước lúc chưa đáng cười, ra tay trước lúc không đáng ra tay. Hai việc này của bạn một khi bị người khác nhìn ra, thì sẽ không thể có được trò gì nữa, việc còn lại chính là mình phải đứng ở dưới sàn diễn, xem người khác biểu diễn các trò trên vũ đài thời đại.

Người xưa nói: «Chỉ có đức mới động đến trời, chỉ có khoan dung mới dung nạp được mọi người». Khi chung sống với mọi người đương nhiên nên có độ lượng nhất định, quan tâm đại cục, nhìn xa, giá như một việc nhỏ cỏn con đều phải tính toán so đo, lòng dạ hẹp hòi, không khoan dung nổi người khác, ắt sẽ có thể gây nên sự ngờ vực cho người khác, dẫn đến bị hãm hại mà không thể tự bảo toàn. Nếu muốn bảo toàn được mình, thực hiện hoài bảo lớn của mình, thì phải biết không bị quấy rầy vì việc nhỏ, không động lòng vì lợi nhỏ, không làm tổn hại lâu dài vì cái trước mắt, không vì cái tạm thời mà hại từ nay về sau. Biết kết hợp tính kiên định của nguyên tắc với tính linh hoạt của sách lược, tính toán từ lâu dài, tính toán từ toàn cục, co duỗi vừa phải, tiến thoái nhịp nhàng.

Như vậy, sẽ có thể tránh được rất nhiều phiền phức không cần thiết, cũng có thể giảm bớt tai nạn của mình, tự bảo toàn trong điều kiện môi trường phức tạp, phát triển trong hoạt động chính trị xã hội không ngừng biến đổi.

Thời Tam quốc, Tào Phi ngụy trang mình, từ đó bảo đảm chắc chắn được ngôi Thái tử.

Trong lịch sử Tào Tháo dự định «phế Phi lập Thực». Tào Phi được biết ngôi Thái tử của mình khó giữ được, liền cầu kế của môn khách Giả Hủ. Môn khách liên nói với Tào Phi: «Mong tướng quân hãy tôn trọng đức độ đúng mức, tăng cường tu dưỡng đạo đức của bậc đại trượng phu, không từ khó nhọc, không ngại oán hờn, siêng năng chịu khó, làm tốt đạo làm con, chỉ như thế mà thôi».

Tào Phi nghe theo lời chỉ giáo, liền ngấm ngầm hạ quyết tâm rèn luyện ý chí của mình. Một hôm, Tào Tháo hỏi Giả Hủ những việc có liên quan đến việc phế, lập, môn khách không nói không rằng, Tào Tháo cảm thấy chẳng hiểu gì cả, bèn lại hỏi: «Ta và ông nói chuyện, vì sao ông không trả lời?». Môn khách nói: «Thần đang nghĩ về cha con của Viên Bản Sơ và Lưu Cảnh Thăng». Tào Tháo cười to. Viên Bản Sơ và Lưu Cảnh Thăng đều bỏ con trưởng lập con thứ, cho nên anh em hai nhà Viên và Lưu tàn sát lẫn nhau, bị người khác tiêu diệt.

Không lâu, Tào Tháo đưa quân đi đánh trận, Tào Phi và Tào Thực đều đứng ở bên đường tiễn đưa. Tào Thực ca ngợi công lao của Tào Tháo, xuất khẩu thành chương, mọi người đứng hai bên nhìn chăm chú, Tào Tháo cũng rất vui sướng. Tào Phi đứng một bên lại tỏ ra kém cõi, buồn bã như mất đi cái gì, Ngô Chất ghé vào tai nói thầm: «Vương nên làm cái gì, chảy nước mắt cũng được». Khi chia tay, Tào Phi chảy nước mắt mãi không thôi, quỳ xuống đất vái, quyến luyến không rời. Tào Tháo cũng vì thế cảm động. Từ đó các đại thần cho rằng, Tào Thực tuy có tài hoa, nhưng lòng thành không bằng Tào Phi. Tào Thực đã thích sao làm vậy, không trau chuốt cho mình, còn Tào Phi dùng cách chống đỡ, cố ý làm khác người để che đậy mình, cung nữ hai bên đều hết sức khen ngợi ông ta, cho nên cuối cùng Tào Tháo đã thay đổi ý nghĩ «phế Phi lập Thực», tiếp tục xác định Tào Phi là Thái tử.

Tào Phi đã được lập Thái tử, các quan hai bên đều chúc mừng Biện phu nhân, đòi Biện phu nhân phải mang bạc nén của nhà ra để thưởng cho mọi người. Nhưng Biện phu nhân lại nói: «Đại vương cho rằng Tào Phi lớn tuổi nên lập nó làm Thái tử. Đối với ta, chỉ cần không quở trách ta không giáo dục tốt Tào Phi thì là việc vui rồi, đâu có lý do gì để thưởng cho mọi người?». Sau khi Tào Tháo biết, rất phấn khởi. Ông khen ngợi Biện phu nhân, nói: «Giận không đổi sắc mặt, vui không mất lễ tiết, là việc khó làm nhất. Nhưng, Biện phu nhân lại làm được, thật là không giản đơn». Tào Phi lấy việc cố ý làm khác người để che đậy mình, được Tào Tháo và mọi người khen ngợi, từ đó giữ vững được địa vị Thái tử của mình, có thể nói là một kế sách tự bảo toàn thành công.

Đôi khi, vì mục tiêu cao hơn, hoặc để giành được lợi ích lớn hơn, chịu ép dạ cầu toàn thật ra không phải là để mất nhân cách, mà là tỏ ra sức mạnh nhân cách của con người ở tầng thứ cao hơn.

7. Khi nào co lại, khi nào duỗi ra

Một đời của con người giống như một dòng sông không thể chảy thẳng về phía trước, thông thẳng ra biển cả, tất nhiên phải uốn lượn quanh co theo địa thế, địa mạo. Khi bạn ngồi trên máy bay nhìn xuống, sẽ có thể thấy dòng sông vốn giống như một đoạn ruột của con người. Tự nhiên có thể làm cho người ta lĩnh hội được tính quanh co và phức tạp của cuộc sống.

Nói chung, khi người ta rơi vào trong nghịch cảnh, hoặc nói khi gặp đen đủi thì nên nén chịu để cầu toàn cất đi sự sắc sảo. Đây chính là công năng của sự co lại. Từ đó lấy sự co lại để tìm cách duỗi ra, chờ thời cơ sáng tạo lại vẻ huy hoàng của sinh mệnh.

Thời Cách mạng tháng Mười Nga, Xô viết vừa mới giành được chính quyền, nước Đức đã có khuynh hướng xâm lược sang phía Đông. Rất nhiều người chủ trương tổ chức quân đội tuyên chiến với nước Đức, còn Lênin lại không đồng ý làm như thế, đặc biệt phái người sang Đức tiến hành hòa giải, ký kết điều ước bất lợi đối với Xô viết.

Đây là một việc thỏa hiệp, hành động này thật ra không tỏ rõ lập trường cách mạng của Lênin và Bônsơvich không kiên định, mà là trước kẻ thù lớn mạnh, buộc phải làm như vậy. Bằng không thì chính quyền cách mạng vừa sinh ra sẽ bị đánh đổ nhanh chóng.

Một quốc gia là như thế, một cá nhân cũng là như thế. Khi tình thế phát triển bất lợi cho mình, cần phải chọn sách lược nén chịu để cầu toàn, bền bỉ chờ thời cơ, nhất thiết không nên nôn nóng.

Người xưa nói: «Việc nhỏ trong lòng không chịu nổi, sẽ làm rối loạn mưu lớn». Mọi người đều cần phải có mục tiêu và lý tưởng này, cam chịu cô độc, cam chịu bị khinh bỉ, thậm chí bằng lòng bị xã hội và người thân hiểu lầm, đều không nên ngã lòng.

Van Gogh, một trong những nhà danh họa vĩ đại nhất trên thế giới, khi sống đã chịu hết mọi đau khổ, không có tiếng tăm gì, cả đến cuộc sống cá nhân cũng không có cách gì bảo đảm. Ông dùng tinh lực suốt cả cuộc đời đã vẽ được hơn hai ngàn bức tranh, nhưng chỉ bán ra được vẻn vẹn một bức, cuối cùng dưới sức ép của cuộc sống và tinh thần, ông đã tự sát.

Nhưng, sau mấy chục năm trôi qua, nghệ thuật của ông lại được nhân dân các nước trên thế giới xem là tác phẩm nghệ thuật quý giá. Trong cửa hàng bán đấu giá nghệ thuật những năm 80 ở London, tác phẩm «Hoa hướng dương» của ông bán được giá cao nhất trong tác phẩm nghệ thuật thế giới.

Thời đại chúng ta đang sống, do sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và thông tin, khiến cho nhịp sống không ngừng tăng nhanh, rất nhiều người đã nảy sinh tâm tình xốc nổi bộp chộp, chỉ biết lăn lộn, tiến thủ, phát triển mà bỏ qua tác dụng của việc «co lại». Đây là một nguy hiểm lớn của việc đối nhân xử thế và theo đuổi mọi sự nghiệp.

Trước tác kinh điển của văn hóa cổ đại Trung Quốc «Chu Dịch» nêu lên tư tưởng «tiềm long vật dụng» (rồng ẩn không phát huy tác dụng). Tức dưới điều kiện nhất định, chờ đợi thời cơ, ngóc đầu vùng dậy.

Khổng Tử trong «Hệ từ hạ», thì lấy loài «sâu đo» bò làm ví dụ so sánh với «rồng rắn» ngủ đông, giải thích thêm «tiềm long vật dụng» là gi. Ông nói «Việc co lại của con sâu đo cũng là để đi đến duỗi ra; giấc ngủ mùa đông của rồng rắn, cũng là để bảo tồn thân thể». Chu Hy đời nhà Tống thì phát huy tư tưởng này thêm một bước, cho rằng «co lại, duỗi ra, tăng lên và giảm xuống» là «cái lý muôn thuở không đổi». Ông chỉ rõ, khi thời cơ chưa đến, phải «rút lui để tự thuần dưỡng, cùng trốn với thời gian», phải học được «tuân dưỡng thời hối» tức là ẩn cư chờ đợi.

Phùng Mộng Long thời Minh trong tác phẩm «Trí nang» của ông, cho rằng con người giống như động vật, khi tình thế của nó bất lợi, nên tạm thời rút lui, « ấy co lại làm duỗi ra», bằng không thì sẽ đổ ngã, thậm chí diệt vong. Ông nói: Trí là nguồn gốc của thuật, thuật là sự chuyển hóa của trí. Nếu như một người không có trí mà nói thuật, thì anh ta sẽ có thể giống như bù nhìn, trước biến đổi thất thường chỉ biết cười khì, lại chẳng có ích gì với công việc, xét đến cùng không thể thành sự nghiệp. Ngược lại, nếu như một người không có thuật mà nói trí, anh ta sẽ giống như người lái thuyền tự khoe khoang mái chèo bơi như gió, bất kể bến cảng đường đi hiểm trở thế nào anh ta đều có thể đi qua. Nhưng trên thực tế, thật sự gặp phải ghềnh hiểm sóng dữ, anh ta liền bó tay vô kế, kêu trời la đất, chạy thuyền như thế không lật thuyền mất mạng thì đó mới là điều lạ! Con sâu do biết co cuộn thân mình, loài chim dữ biết ẩn náu trong đất, con rắn có thể tự mình cắn vào rốn và hành vì chỉ ra vết thương cho người ta xem của con trăn, đều là sự biểu hiện của thuật bảo tồn thân thể. Động vật đều có trí tuệ như thế, lấy đó để bảo toàn thân thể của mình, chẳng lẽ loài người chúng ta lại không bằng động vật?

Đương nhiên không phải vậy.

Con người cần biết bảo vệ mình để chờ thời cơ phát triển mình.

Thuở xưa, Lý Nhĩ (Lão Tử) hóa thành người Hồ, người Vũ đánh trần cả nước nên cởi áo, Khổng Ni đọ tài săn bắn, Tản Nghi Sinh (thời Chu) đưa hối lộ, Trọng Ung cắt tóc xăm mình, cởi trần coi là trang điểm, những người không hiểu đạo lý ở trong đó nói: «Trí tuệ của bậc Thánh hiền cũng có lúc dùng cạn». Những người hiểu biết nguyên do của nó lại nói: «Thuật của Thánh hiền xưa nay cũng chưa có lúc nào nghèo nàn».

Hiền hòa nhưng không thuận theo gọi là giả vờ lấy lệ; ẩn náu mà không hiện rõ gọi là kế mưu. Trong lòng có quỷ kế nhưng không liều lĩnh sỗ sàng gọi là quyền mưu hiếm thấy. Không biết ôn hòa, làm việc luôn có thể gặp trở ngại, không thể thuận lợi trôi chảy. Không biết ẩn giấu, liền có thể làm lộ mình ra hết, bốn phía bị thù ghét, việc gì làm cũng không thành. Không biết dùng quỷ kế, thì khó tránh gặp phải vận đen. Cho nên nói, thuật làm cho con người trở nên thần thánh, trí thì làm cho lý trí của con người được kiềm chế.

Thuật co duỗi của Phùng Mộng Long, thông tục dễ hiểu, kết hợp cổ kim, kết hợp lý và việc, có sức thuyết phục nhất định. Quan sát theo suốt lịch sử, rất nhiều nhân vật lịch sử, nếu muốn hoàn thành sự nghiệp của mình, thực hiện lý tưởng của mình, khi cần thiết phần nhiều đều sử dụng thuật co duỗi, để bảo tồn mình, chờ đợi thời cơ, để mong thời cơ trở lại hoặc làm lại cái khác. Đồng thời lịch sử cũng chỉ rõ, biết sử dụng khéo thuật co duỗi, cần co thì co, cần duỗi thì duỗi, nắm chắc và vận dụng tốt phép biện chứng co duỗi là con đường quan trọng của nhiều nhân vật lịch sử thành công.

Không nên tranh hơn kém của một ngày với người khác cũng là kỹ xảo «co lại».

Cơ quan thực hành chế độ quan chức, anh A về lực học là đại học chính quy, về tài hoa cũng vào hàng nhất nhì ở cơ quan; về tuổi tác đang ở độ sung sức, nhưng mối lần đề bạt đều không có phần của anh ta, mà những người năng lực so với anh ta kém, trình độ thấp hơn anh ta, vào cơ quan cũng muốn hơn anh ta, lại từng người từng người trở thành cấp trên và lãnh đạo của anh ta.

Nguyên nhân tại đâu?

Nguyên nhân của nó chính là ở chỗ: Anh A chỉ biết để lộ tài hoa, cho rằng mình cái này cũng mạnh hơn người khác, cái kia cũng có khả năng hơn người khác, mọi chỗ mọi nơi biểu hiện ra một tình thế tiến thủ, từ đó khiến cho mọi người sinh ra ác cảm, cho rằng anh ta mặc dù có năng lực, cũng có tài cán, nhưng không khiêm tốn, quá kiêu căng, không xem ai ra gì. Mỗi lần khảo sát cán bộ, người ta đều có ý kiến này.

Còn những người khéo che giấu sự sắc xảo, khéo xử lý quan hệ nhân tế, lại được đông đảo mọi người đánh giá tốt.

Ông B đã từng cho ông A làm trợ lý, sau khi được đề bát lên cương vị lãnh đạo, khi lần đầu tiên lên báo cáo đã mỉm cười khiêm tốn nói với các đồng chí của cơ quan: «Tôi, con người này năng lực công tác có hạn, sức học cũng không cao, chỉ là sự bồi dưỡng của tổ chức và tín nhiệm của các đồng chí đã cho tôi đứng ở vị trí này...», vừa khéo léo lại dễ nghe, khiến cho mọi người bất kể là phục ông ta hay không phục anh ta đều đành phải thừa nhận sự thật trước mắt.

Cho nên, năng lực của con người cần phải nhiều mặt. Đối xử với mọi người, cũng là một loại năng lực, hơn nữa thậm chí so với năng lực nghiệp vụ của bạn còn quan trọng hơn.

Khi một người gặp thời vận đang lên cần phải che dấu sự sắc xảo của mình, còn khi anh ta ở vào lúc tình huống bất lợi, càng nên biết nhẫn nại.

Tục ngữ nói: «Trên đầu chữ «tâm» có một con dao, muôn việc «nhẫn» là thượng sách».

Người không biết nhẫn, trong cuộc sống không thể sinh tồn. Khi sinh tồn khó khăn cần phải nhẫn nại, khi gặp trắc trở cần phải nhẫn nại, khi tình yêu thất bại vẫn cần phải nhẫn nại.

«Nhẫn» là một loại trí tuệ, «nhẫn» cũng là một biểu hiện của «co lại».

Trong lịch sử có không ít nhân vật khi cuộc đấu tranh của họ thất bại, để bảo toàn mình, luôn giả vờ chết nằm xuống, chịu đau hy sinh, kiềm chế mình không lộ thanh sắc, lấy đó làm cho đối thủ mất cảnh giác, thừa thời cơ trốn thoát.

Như Lưu Tú đối với Lưu Huyền là một điển hình của kiểu co duỗi này.

Năm cuối tân triều Vương Mãng, đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa nông dân quy mô lớn, hai anh em Lưu Diễn và Lưu Tú người Thái Dương, Nam Dương (nay là miền Tây Nam Tảo Dương tỉnh Hồ Bắc) thừa cơ khởi binh, lấy việc xây dựng lại triều Hán làm khẩu hiệu «chiêu binh mãi mã». Về sau gia nhập Lục Lâm quân. Lưu Huyền là người cùng họ, mới đầu vào Bình Lâm binh, được tôn là Cánh Thủy tướng quân, về sau cũng nhập vào Lục Lâm quân. Năm 23 sau công nguyên xưng Đế, niên hiệu là Cánh Thủy. Sau khi tân triều Vương Mãng bị diệt vong, ông dời đô đến Trường An, rất nhanh liền phản bội khởi nghĩa. Quay giáo lại giết hại tướng lĩnh quân nông dân. Anh trai của Lưu Tú là Lưu Diễn liền bị Lưu Huyền giết.

Theo lẽ thường tình, Lưu Tú khẳng định không thể tha thứ Lưu Huyền, nhất định phải tìm ông ta để tính nợ, để báo thù giết anh. Nhưng, Lưu Tú lại có cách suy nghĩ của mình. Ông ta không những không tìm Lưu Huỳnh tính nợ, trái lại bề ngoài lại ung dung thản nhiên như không có việc đó. Khi lên chầu Lưu Huyền vẫn là vẻ mặt vui vẻ, ăn nói nhũn nhặn, tuyệt nhiên không chủ động nhắc đến việc anh bị giết. Ông ta không mặc đồ tang, không cử hành tang lễ, nói năng ăn uống vẫn như bình thường. Chẳng lẽ ông ta không chút buồn rầu đối với sự thật Lưu Huyền giết hại anh trai của mình? Thực ra không phải như vậy.

Anh trai vốn là bậc công thần, vì tranh quyền bị giết, trong lòng ông ta đương nhiên là căm giận bất bình, ông buồn rầu vì anh mình, mặc dù ban ngày bề ngoài ra vẻ lạnh nhạt như thường, nhưng ban đêm lại thường nước mắt chảy đầm đìa trên gối. Ông nhất định phải hoàn thành sự nghiệp anh ông chưa hoàn thành. Nhưng trước mắt xét cho cùng ông là bề dưới của Lưu Huyền. Nếu như ông ta không thể kiềm chế, chất vấn Lưu Huyền, rất có khả năng sẽ bị giết hại, kết cục sẽ giống như anh ông. Như thế thì còn có ý đồ to lớn gì đáng nói nữa? Mục đích báo thù cho anh làm thế nào có thể thực hiện? Huống hồ mình cũng là bậc công thần.

Trong trận đánh lớn ở Côn Dương, ông dẫn 13 kỵ đột phá vòng vây cứu viện đã lập được kỳ công. Lưu Huyền biết rất rõ điều đó. Lúc này, nếu như trình bày một chút lịch sử vẻ vang, hoặc có thể nịnh Luu Huyền, tăng cường mức độ tin tưởng của ông ta đối với mình. Nhưng Lưu Tú lại không nhắc đến một lời tự có mưu cáo của ông ta.

Lưu Huyền thấy Lưu Tú khoan hồng đại lượng như thế, lương tri cắn rứt cảm thấy hết sức xấu hổ, liền lệnh cho Lưu Tú làm Phá lỗ Đại tướng quân, phong Vũ Tín hầu. Năm 23 sau công nguyên, Lưu Tú đến vùng Hà Bắc hoạt động, đã phế bỏ sự thống trị khắc nghiệt của Vương Mãng, thả tù nhân, giành được lòng dân. Ông lấy việc khôi phục chế độ nhà Hán làm khẩu hiệu nên đã giành được sự ủng hộ của quan lại và địa chủ ở nơi đó, thế lực ngày càng lớn mạnh. Lưu Tú cảm thấy thời cơ thực hiện ý đồ to lớn của mình đã đến, liền cắt đứt quan hệ với Lưu Huyền. Trấn áp và thu nạp biên chế quân khởi nghĩa nông dân Đồng Mã, lực lượng không ngừng lớn mạnh, trải qua đấu tranh lâu dài, cuối cùng đánh bại Lưu Huyền giành được thiên hạ.

Năm 25 sau công nguyên, Lưu Tú xưng Đế định đô tại Lạc Dương, xây dựng nên chính quyền Đông Hán. Đến năm 37 sau công nguyên thống nhất toàn Trung Quốc. Trong thời gian 32 năm tại ngôi, ông trước sau đã 9 lần ban bố mệnh lệnh giải phóng nô tỳ và cấm sát hại nô tỳ. Đồng thời nhiều lần xuống chiếu thư miễn tội cho tù nhân cho làm thứ dân, giảm nhẹ tô thuế lao dịch, phát chẩn cứu tế, khởi công xây dựng thủy lợi. Tinh giản hơn 400 huyện, tinh giản quan lại, tiết kiếm chi tiêu, kiềm chế cường hào, củng cố tập quyền trung ương, có tác dụng tích cực đối với việc ổn định và phồn vinh kinh tế xã hội.

8. Lòng thương xót dùng cho ta

Nietzsche cho rằng: Con người là động vật có tình thương xót.

Lòng thương xót mọi người đều có. Khi mình rơi vào nghịch cảnh, vận dụng đầy đủ lòng thương xót của đối phương, khiến đối phương không đến nỗi làm hại mình, cũng là sách lược nhân sinh cực kỳ quan trọng.

Đây đương nhiên là một cảnh tượng giả nén chịu để cầu toàn, mục đích của nó chính là ở chỗ, nắm chặt lấy tâm lý «nhân từ» của đối phương, làm ra bộ dáng đáng thương, ăn nói khép nép, lấy đó để giành được sự tín nhiệm của đối phương, bảo toàn mình, từ đó tìm cơ hội phát triển mình.

Thời Xuân thu, Việt vương Câu Tiễn sau khi lên ngôi không lâu (năm 496 trước CN-465 trước CN, ở ngôi) trong một trận đánh tại Phù Tiêu (nay là phía tây nam Ngô, huyện Giang Tô) bị quân Ngô phản kích, toàn quân tiền phong bị đại bại, lui về núi Cối Kê (nay là Thiệu Hưng, Triết Giang) để bảo toàn, nhưng cuối cùng bị đánh bại. Từ đó, nước Việt là nước chư hầu của nước Ngô.

Việt vương Câu Tiễn thua trận bị bắt làm tù binh và làm con tin tại nước Ngô. Con người ông ở nước Ngô dấn sâu vào chốn nguy, đương nhiên là lành ít dữ nhiều, làm không khéo sẽ có họa bị giết, bị nỗi đau mất nước. Nhưng suy nghĩ đến lợi ích của cả nước Việt, để báo thù rửa nhục, ông cam tâm làm nô lệ ở nước Ngô, chịu nhẫn nhục để cầu sống, để chờ ngày trở về nước Việt sớm, làm phấn chấn lại lòng dân, làm nước giàu dân mạnh để tiêu diệt nước Ngô. Ở nước Ngô, ông chẳng còn một chút uy phong của quốc vương nữa, mà là «mình cầm binh khí lại đi tắm ngựa cho vua Ngô». Ông không phàn nàn, mà ban đêm đem ngựa đi tắm sạch sẽ, để nịnh Ngô vương Phù Sai.

Ông vốn là vua của một nước lại đi tắm ngựa cho người khác, sao có thể bằng lòng được? Nhưng nghĩ đến nỗi nhục của đất nước, vẻ tôn nghiêm của nhân cách thì không suy nghĩ nữa. Khi Ngô vương mắc bệnh nặng, ông hầu hạ thuốc thang bên cạnh và còn tự mình nếm phân của vua để chẩn bệnh. Câu Tiễn sở dĩ phải làm như thế, chẳng qua là muốn lợi dụng lòng thiện của Ngô vương Phù Sai, giành được lòng thương xót của ông ta. Mẹo này của Câu Tiễn đặc biệt có hiệu quả.

Thời gian về sau, Ngô vương Phù Sai đã thật sự đồng tình với Câu Tiễn, không để cho ông ta làm con tin ở nước Ngô nữa, mà quyết định thả Câu Tiễn về nước. Để lừa Ngô vương Phù Sai thêm bước nữa, trước lúc chia tay ông đã tỏ ra không nỡ xa rời với Ngô vương Phù Sai, nước mắt chảy đầy mặt, cảm tạ lòng nhân đức của Ngô vương.

Nhưng, ông ta vừa đạp chân lên đất nước, liền phục hồi lại bộ mặt ban đầu, như thả hổ về rừng, ông ta thề phải báo thù rửa nhục, khôi phục địa vị độc lập của nước Việt.

Thế là ông ta nằm gai nếm mật, rèn luyện ý thức của mình, mười năm sinh sôi nhân khẩu, tích tụ vật chất, làm cho nước giàu dân mạnh, luyện binh diễn tập, tăng cường quốc phòng.

Về sau, Ngô vương đưa quân lên phía Bắc, đại hội chư hầu tại Hoàng Trì (nay là tây nam Phong Khưu, Hà Nam) giành liên minh với nước Tấn. Việt vương Câu Tiễn cho rằng thời cơ đã đến, liền lúc trống vắng tập kích vào nước Ngô, Ngô vương Phù Sai bị buộc phải điều quân trở về, xin giảng hòa với nước Việt. Nhưng Việt vương Câu Tiễn quyết chí diệt Ngô, đã từ chối giảng hòa.

Năm 473 trước công nguyên, quân Việt tấn công vây thành Cô Tô (nay là Tô Châu, Giang Tô), Ngô vương Phù Sai tự vẫn chết, nước Ngô lớn mạnh một thời đã diệt vong, Việt vương Câu Tiễn đã thực hiện được nguyện vọng báo thù rửa nhục cho đất nước. Thuật co duỗi của Việt vương được Hàn Phi đánh giá rất cao, Hàn Phi nói: «Câu Tiễn vào làm «hoạn» (quan) ở Ngô, mình cầm binh khí mà đi tắm ngựa cho Ngô vương, cho nên có thể giết Phù Sai ở Cô Tô».

Đương nhiên, trong cuộc sống hiện thực, quan hệ giữa người này với người khác thật ra chẳng phải là đều là quan hệ một mất một còn như Ngô