← Quay lại trang sách

Chương ba ÂM DƯƠNG KINH «DƯƠNG DỤNG» -ÂM MƯU NHƯ THẾ NÀO?

Lấy âm khắc dương, lấy nhu khắc cương

Lấy tĩnh chế động, lấy hằng ứng biến.

Đạo âm dương, bên căng bên trùng.

Thường thường người ta chỉ chú ý «Đạo dương» mà bỏ qua «Đạo âm». Theo quan điểm của «Kinh Dịch»: «Một âm một dương mới thành đạo».

Bất kể là thời xưa hay thời nay, bất kể là Trung Quốc hay là nước ngoài, bất kể là thời chiến hay thời bình, bất kể là người dân thường sống ở nhà hay là chính khách trên «chiến trường» hoặc lẫn lộn trên «thương trường» đều không tách rời đạo của Âm, Dương.

Trước kia người ta hiểu lầm rằng những người dùng phương thức «đường vòng» để làm một việc, bị gọi là con đường không chính đáng. Hoặc nói: «Người này đang thực hiện âm mưu, giở mánh khóe. Thật ra trong cuộc sống mỗi một người ngay thẳng chỉ cần họ dám nhìn thẳng vào mình, sẽ thấy trong cuộc sống thường ngày mình vẫn thường xuyên có thể giở một chút «âm mưu nhỏ» làm một chút trí trá. Mục đích cuối cùng chẳng qua là để cho mình sống được tốt hơn một chút!

Ở đây chúng ta cần phải chỉnh lý ngữ nghĩa của từ «âm mưu» - âm mưu kỳ thực không ngấm ngầm, âm mưu hoàn toàn có thể «dương dụng», từ đó làm cho hướng tư duy của người ta chuyển biến, phá bỏ những khuynh hướng sai lầm cứng nhắc cực đoan hóa lâu nay như «không đúng tức sai, không phải ta tức địch, không phải đẹp tức xấu, không thật tức giả» qua đó mỗi người đối đãi với thế giới, đối đãi với người khác, đối đãi với mình một cách biện chứng.

1. Giả dại giả ngây tài tình

Trong tình huống bình thường, người ta đều tranh giành nhau tỏ rõ trí tuệ và tài năng của mình, lấy tinh khôn tài giỏi làm tự hào.

Song, trong thời đại phong kiến đen tối «hôn quân bạo chúa, có lúc trí tuệ và ngày tháng trở thành tai họa người ta phải tự hủy hoại tự chịu nhục nhã, giả điên giả dại mới thoát nạn.

Đây thật là bi kịch của lịch sử, làm cho người ta không tài nào hiểu được đây là chỗ khôn khéo hay là chỗ đáng buồn của nhân loại. Chỉ vì sinh tồn, người ta phải nảy sinh thủ đoạn mới sống được.

Vận dụng giả điên giả dại, điển hình nhất chính là dùng hình tượng giả điên giả dại để che giấu tài năng của mình, nhẫn nhục chịu đựng, dùng sách lược thoái để tiến. Cơ Tử thời nhà Thương là một ví dụ.

Thương Trụ vương là vua cuối thời nhà Thương, ông ta quen thói bạo ngược, hoang dâm vô độ, suốt ngày đêm chè chén vui chơi với Đát Kỷ là sủng phi của ông và bọn sủng thần quý tộc, sống cuộc sống hư bại «rượu tầy hồ thịt tầy núi», «ăn uống thâu đêm». Ông ta thường ra ngoài đi săn du chơi, khiến cho đồng ruộng hoang vu, dân chúng không sống nổi.

Những năm cuối, Trụ vương ngày càng thậm tệ, hình phạt nặng nề nghiêm ngặt, dâm loạn vô độ, từ chối những lời khuyên can, che giấu khuyết điểm, đánh mạnh vào các trọng thần tôn thất, sát hại người trung thành lương thiện, dẫn đến tình thế đất nước nguy ngập, lòng người rối loạn. Thứ huynh của ông là Vi Tử nhiều lần khuyên can, ông căn bản không nghe. Để tránh tai họa, Vi Tử đã tức giận bỏ đi. Cơ Tử là chú ruột của Thương Trụ vương, ông ta với tư cách là Thái sư, nhìn thấy tình huống này nhưng cũng chịu bó tay. Một ông chú khác của Thương Trụ vương, Thiếu sư Tỷ Can cho rằng làm một viên đại thần không thể không bất chấp cái chết để khuyên can.

Thế là, ông đã vất vã khuyên răn Trụ vương, khuyên liền ba ngày không dời, Trụ vương nổi nóng đem giết chết ông, lại còn moi tim của ông để xem, nói: «Tỷ Can tự cho mình là bậc thánh, ta nghe nói tim của bậc thánh có bảy buồng, ta phải xem tim của ông ta có phải có bảy buồng không?». Cơ Tử vô cùng sợ hãi, sợ Trụ vương tàn bạo giở ngón độc ác đối với mình. Thế là đã giả vờ điên, đầu tóc rũ rượi, nói năng lung tung, không có một chút vẻ tôn nghiêm của Thái sư, hoàn toàn giống như một người điên. Trụ vương thấy ông ta như thế, liền đem ông giam vào trong nhà lao.

Nước Chu vốn là chư hầu của nhà Thương, khi Chu Văn vương ở ngôi đã dự định tiêu diệt nhà Thương liền tiến hành nhiều việc chuẩn bị. Sau khi Chu Võ vương lên ngôi, chiêu nạp kẻ hiền người tài, dốc sức vì nước, làm cho đất nước hưng thịnh lên rất nhanh.

Lúc đó, ông thấy Thương Trụ vương làm nhiều điều ngang trái, khiến cho các đại thần và chư hầu đồng loạt đều ly khai ông ta, cảm thấy thời cơ diệt Thương đã chín muồi, liền bàn bạc với mưu thần Lã Thượng, nhanh chóng dẫn 3.000 dũng sĩ, 45.000 giáp binh liên hợp với 800 quân chư hầu ồ ạt đi đánh dẹp Thương Trụ vương.

Trụ vương đem quân chống lại tại Mục Dã (nay là phía Nam huyện Kỳ tỉnh Hà Nam). Nhưng binh sĩ do căm giận Trụ vương cho nên đã quay giáo phản chiến. Thương Trụ vương thấy mọi người chống lại, người thân thì xa rời, thế lớn đã mất, liền chạy trốn về quốc đô Triều Ca (nay thuộc huyện Kỳ, Hà Nam), trèo lên Lộc Đài, mặc áo báu vào, rồi tự thiêu chết. Triều nhà Thương diệt vong, vương triều Tây Chu được thành lập. Lúc này, Chu Võ vương đã thả Cơ Tử từ trong nhà tù ra.

Cơ Tử là một nhà chính trị đầu tiên từ thời xưa đã vận dụng kế giả điên giả dại.

Ông bản thân là Thái sư, nhưng lại không có cách gì khuyên Trụ vương thi hành chính sách lương thiện. Đối mặt với hành vi tàn bạo của Trụ vương, ông từ sợ hãi nảy ra kế bảo toàn mình, là thông qua việc giả điên để làm cho mình may thoát khỏi nạn. Khi Trụ vương lên ngôi không lâu, bắt đầu sử dụng đũa ngà voi, sau khi Cơ Tử trông thấy đã nói: «Dùng đũa ngà voi, thế thì nhất định không thể dùng các đồ dùng bằng đất sét nữa, mà là phải dùng cốc bằng tê ngọc». Dùng đũa ngà voi và cốc tê ngọc, cũng nhất định không thể ăn những thứ «trà thô cơm đạm», mặc những thứ «vải thô áo ngắn» và ở dưới mái nhà tranh được rồi. Áo gấm chín tầng, đài cao phòng lớn, lấy đó làm tiêu chuẩn, trắng trợn theo đòi, thiên hạ không đủ để cung cấp. Cống phẩm quý lạ ở nơi xa xôi, việc chế tác xe ngựa, xây dựng cung thất, đều không có chỗ tận cùng. Bắt đầu từ đây, tôi e rằng ông ta sắp bước đến con đường cùng».

Quả nhiên, không ngoài dự định của Cơ Tử, Trụ vương nhanh chóng bắt xây dựng Lộc Đài, xây dựng «quỳnh thật ngọc môn» chứa chất ê hề các đồ quý hiếm ở trong đó, còn dân chúng thì chịu không hết khổ, lòng người ly tán.

Trụ vương còn thường xuyên ăn uống thâu đêm, uống tới mức choáng váng, say túy lúy, đến ngày tháng đểu quên hết, không biết hôm đó là ngày nào tháng nào, liền hỏi người xung quanh, người xung quanh đều trả lời: «Không biết». Trụ vương liền sai người đi hỏi Cơ Tử.

Cơ Tử nghĩ một lát, trả lời nói: «Tôi uống say rồi, cũng không rõ hôm nay là ngày gì». Sau khi sứ giả đi, các đệ tử của ông hỏi Cơ Tử: «Ngài biết hôm nay là ngày gì, vì sao lại nói không biết?». Cơ Tử nói: «Là chủ của thiên hạ, mà làm cho cả một nước chuyển dịch cả khái niệm về thời gian và ngày tháng, thiên hạ đã đến lúc nguy cấp rồi. Nhưng việc mà mọi người cả một nước đều nói không biết, chỉ có một mình ta nói biết, thế thì ta há chẳng phải là cái nguy đang đến trước mắt rồi ư? Cho nên ta giả vờ mượn say rượu, cũng thoái thác nói không biết». Từ sự việc này có thể thấy, Cơ Tử đề phòng Trụ vương có lòng nghi đối với mình, mọi chỗ mọi nơi đều phải bo bo giữ mình.

Là một nhà chính trị, Cơ Tử dựa vào tài chính trị của mình, từ lâu đã nhạy bén từ việc nhỏ. Nhìn nhận ra Trụ vương ắt sẽ đi vào con đường diệt vong. Nhưng không có sức xoay chuyển trời đất, lại thấy lòng son dạ sắt của Tỷ Can được đổi lại một kết cục hết sức bi thảm. Cho nên, để bảo toàn mình, đã nghĩ ra kế hay giả điên giả dại, qua việc ngụy trang khéo léo, dựng cảnh tượng giả để mê hoặc Trụ vương, với mục đích là thực hiện thoát chết.

Trụ vương mặc dù đem Cơ Tử giam lại, nhưng rốt cuộc không biết ông ta. Đây chính là chỗ thành công của ông mượn cái giả để che giấu cái thật.

Không chỉ là các bầy tôi bình thường, mà ngay cả các con em hoàng gia, người được phong vương, cũng không thể không sử dụng phương pháp này để bảo toàn mình. Bắc Hải vương Lưu Mục thời Đông Hán ham đọc sách, coi trọng người hiền tài, xưa nay được Quang Vũ đế và Hán Minh đế yêu thích. Khi đó, Tây Vực đi lại hữu nghị với vương triều Đông Hán, Thiện Thiện vương gửi con trai của mình đến Lạc Dương làm con tin.

Theo quy định, Bắc Hải vương cử sứ giả đến Kinh sư chúc mừng. Trước khi sứ giả lên đường, Lưu Mục hỏi ông ta: «Nếu như Hoàng thượng hỏi đến ta, ông nói như thế nào?». Sứ giả nói: «Đại vương lòng trung hiếu thuận, nhân từ lương thiện, kính trọng người hiền, làm sao thần không cứ theo tình thực tâu lên?».

Lưu Mục nghe những lời này xong, liền nói: «Nếu ông cứ nói thật như thế, thì ta sẽ nguy mất. Đó đều là việc của ta thời nhỏ. Ông nếu vì ta tính liều, thì chỉ có thể nói ta từ sau khi kế thừa vương vị, ý chí sút kém, chỉ thích vui chơi, nữ sắc và ca xướng. Cứ như thế, ta mới có thể tránh được tai họa». Sứ giả liên tục nói vâng. Con em hoàng gia và cả những người được phong vương, nếu như có tiếng làm tốt, uy vọng càng cao càng có thể làm cho Hoàng đế không yên tâm, bởi vì họ có khá năng uy hiếp ngôi vua của Hoàng đế.

Do vậy, Lưu Mục vì để làm cho Hoàng đế yên tâm, mới dùng kế mượn giả để che giấu cái thật, đây là biện pháp tốt nhất bảo toàn mình.

Quách Tử Nghi thời Đường công trạng lừng lẫy, nhưng cửa lớn của nhà ông thường xuyên mở, mặc cho mọi người vào ra, cũng không hỏi đến. Con em gia đình họ Quách cho rằng bất kể người sang hèn đều có thể vào nhà trong, sẽ có thể mở lòng gần gũi mà suồng sã.

Song Quách Tử Nghi lại nói: «Việc này, đạo lý ở trong đó làm sao các người hiểu được. Năm trăm con ngựa của ta hoàn toàn dựa vào quốc gia cung cấp cỏ, hưởng quan bổng có 1.000 người, tiến lên không có chỗ, lùi lại không có đường. Nếu như kín cổng cao tường, trong ngoài không thông, nếu như người có lấy cớ vu tội, gán cho tội danh không phục, xử chém cả nhà, đến lúc đó thì hối lại không kịp. Hiện tại mở toang hết cửa, dù có người muốn nghĩ đủ mọi lời gièm pha, cũng không có cơ hội nữa». Mọi người nghe xong, đều hoàn toàn bái phục.

Ban đầu, Quách Tử Nghi vốn là tránh xa tai họa, nhưng thật sự khôn khéo tài giỏi vẫn là Quách Tử Nghi.

Trong «Kinh Dịch», chúng ta có thể thấy một số chỗ sự tích có liên quan với Cơ Tử, còn Quách Tử Nghi thì là Đại tướng quân thanh danh hiển hách thời Đường. Các nhân vật lịch sử này cũng là người có học rộng rất biết bảo toàn mình.

Có một số người chính vì không khéo xây dựng phát triển mình, kết quả khiến cho sự nghiệp, tình yêu, quan hệ cấp trên và dưới, quan hệ xóm giềng đều hỏng bét hết.

* Quách Hoa là một học sinh giỏi tốt nghiệp trường Đại học Phúc Đán, Thượng Hải. Anh ta rất may mắn được phân công làm việc trong cơ quan nhà nước, thầy giáo và bạn học đều kiêu hãnh vì anh ta, cho rằng tương lai tiền đồ của anh ta rất lớn, bản thân anh cũng rất coi trọng phần công tác không dễ dàng kiếm được của mình, hàng ngày đi sớm về muộn, cố gắng chăm chỉ, trong thời gian ngắn đã mở ra tiền đồ tốt.

Cấp trên của anh, chủ nhiệm văn phòng rất khen ngợi tài hoa và tinh thần làm việc của anh, đã nhiều lần biểu dương. Anh cũng biết ơn đối với chủ nhiệm, trong lòng nghĩ: Có người lãnh đạo tốt như thế, đánh giá cao mình, mình nhất định phải làm ra thành tích, để không phụ sự ưu ái của lãnh đạo đối với mình.

Một lần chưa đến giờ làm việc, anh cầm các giấy tờ đến văn phòng chủ nhiệm. Vừa bước vào cửa, không ngờ bắt gặp chủ nhiệm và nữ nhân viên đánh máy ở cơ quan, cô Lý đang ôm hôn nhau mức độ quan hệ không phải ở mức bình thường.

Anh ta bối rối, vội vàng lui ra ngoài.

Việc này làm xáo động rất lớn đến tư tưởng của anh, khiến anh ta không biết phải làm thế nào mới tốt. Từ đó, nhìn thấy chủ nhiệm, anh đều ngượng ngập cứ như vừa làm việc gì sai, trong lòng vẫn rờn rợn, luôn cảm thấy chủ nhiệm sẽ nghĩ mình nói lung tung ra bên ngoài. Vì thế mà suốt ngày anh ta chẳng làm được việc gì tốt.

Trong một lần họp mặt bàn bè với thầy giáo, thấy tinh thần của anh giảm sút, mọi người hỏi anh đã xảy ra chuyện gì, anh đều không nói. Về sau, khi hội tiệc kết thúc, anh đem chuyện này nói riêng với thầy giáo của mình, hy vọng thầy cho ý kiến.

Thầy giáo đã cho anh một kế hay là: giả vờ hồ đồ. Bởi vì:

Một là, chủ nhiệm là người lãnh đạo trực tiếp đến anh, lại là người Quách Hoa chịu ơn dù anh nhìn thấy việc này, nhưng cũng không nên tung tin ra ngoài. Làm như thế là cung cấp «chỗ đuổi» của chủ nhiệm cho đối thủ chính trị và các đối thủ khác của ông ta, từ đó chôn vui hết toàn bộ tiền độ của chủ nhiệm.

Hai là, mặc dù chủ nhiệm là người đàn ông có vợ, nhưng vợ của ông đã ra nước ngoài, sang Nhật Bản đã 2 năm, tình cảm của hai người rốt cuộc ra sao không ai cũng biết. Có thể chủ nhiệm vẫn giữ quan hệ vợ chồng danh nghĩa với người phụ nữ đã ra nước ngoài kia, nhưng cũng có thể đã không còn quan hệ gì với người phụ nữ đó nữa.

Ba là, «việc kia» của chủ nhiệm với cô Lý nếu như truyền ra, mọi người có thể cho là một tin xấu của cơ quan, khẳng định có thể lấy việc này để phủ định công tác của chủ nhiệm, đồng thời có thể đuổi cô Lý đi khỏi cơ quan, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Bốn là, tình cảm của con người giống như sinh hoạt xã hội đều rất phức tạp. Hiện tượng thật ra không thể nói lên bản chất. Chưa biết chừng giữa hai người họ không phải là quan hệ nam nữ bất chính, mà là quan hệ tình yêu thật lòng. Chỉ là do thời cơ và điều kiện chưa đến, không tiện công khai mà thôi.

Tóm lại, thầy giáo yêu cầu Quách Hoa đối với việc này, không nên có thái độ «nửa úp nửa mở», mà phải có biểu hiện chứng tỏ «không nhìn thấy gì hết».

Quách Hoa thấy có lý, đã tiếp nhận ý kiến của thầy giáo.

Trong công tác, anh ta vẫn như trước đây, cần làm gì thì làm việc ấy. Trong cơ quan trước nay cũng không có ai bàn tán vấn đề quan hệ của chủ nhiệm với cô Lý.

Sau khi sự việc xảy ra, ban đầu chủ nhiệm đối với Quách Hoa có chút thiếu tự nhiên, thậm chí mọi chỗ đều đề phòng, trong lời nói và hành động còn lộ vẻ ám hiệu nhắc nhở.

Nhưng Quách Hoa theo «kế sách» thầy giáo đã bày cho anh ta, đôi khi làm như vô tình truyền đạt cho chủ nhiệm thông tin: «Ông cứ việc yên tâm, tôi tuyệt đối không làm hỏng việc của ông, cũng tuyệt đối không thể để cho người khác nắm được «chỗ đuối» của ông».

Do vậy chủ nhiệm càng thấy Quách Hoa đích thực là một người kín đáo tử tế, không thể làm hỏng việc lớn của mình, càng thêm tín nhiệm anh. Đồng thời còn đem nhiều công tác quan trọng của cơ quan ủy thác cho anh thực hiện.

Sau một năm, chủ nhiệm và cô Lý chính thức tiến hành lễ kết hôn.

Việc này khiến cho tất cả mọi người ở cơ quan đều ngẩn người ra, cho rằng đây là «đánh chớp nhoáng», «đánh nhanh thắng nhanh». Mọi người xôn xao bàn tán: «Làm sao mà trước kia chưa hề nhìn thấy dấu hiệu gì?».

Thực ra, một năm trước chủ nhiệm đã ly hôn với vợ của ông ở Nhật Bản rồi. Nguyên nhân vì vợ ông ở Nhật Bản đã có một mối tình khác và đã lập lại gia đình.

Trong buổi hôn lễ, chủ nhiệm và cô Lý đều nâng ly tới tấp chúc rượu Quách Hoa và nói: «Anh thật là một người rất có bản lĩnh, là người rất đáng tin cậy, chúng tôi thành thật cảm ơn anh».

Không bao lâu, chủ nhiệm được đề bạt đảm nhiệm công tác lãnh đạo cơ quan cấp thành phố. Quách Hoa đã tiếp thay ca của chủ nhiệm, trở thành cán bộ lãnh đạo trẻ nhất trong cơ quan.

Thử nghĩ, nếu như lúc đó Quách Hoa đầu óc không bình tĩnh, đem việc mình trông thấy tung ra ngoài, thì có thể làm cho người ta thêm mắm thêm muối thêu dệt, gây ra một trận sóng gió lớn, rất có thể chủ nhiệm sẽ mất hết uy tín, cô Lý cũng sẽ bị làm cho lúng túng. Một cặp người yêu thật lòng yêu nhau có thể bị dư luận làm hại, thậm chí có thể bị làm cho tan nát.

Giả vờ mơ hồ hoặc nói là giả ngây ngô, ở mức độ cao là biện pháp của người lương thiện xuất phát từ mục đích lương thiện dùng đối với người khác, đối với mình đều có ích lợi.

Có thể khẳng định rằng, cách «giả vờ» này hoàn toàn không thể làm hại người khác và mình. Mà trong cuộc sống, người không «giả vờ» việc gì, rất có thể dẫn đến làm hại người khác, ngược lại cũng có nghĩa là làm hại mình.

Lý lẽ này rất đơn giản.

Trong «Thánh kinh» nói: «Nếu muốn người khác đối với bạn như thế nào, bạn hãy đối với người khác như thế». Khổng Tử cũng nói: «Kỷ sở bất dục, vật thi vu nhân» (Việc gì mình không muốn, đừng bắt người khác muốn).

Trong vở kịch nổi tiếng «Hamlet» của Shakespeare, vị thái tử Đan Mạch, mang một tư tưởng lớn, có mục tiêu cao xa, nhưng mâu thuẫn giữa hiện thực và lý tưởng quá lớn.

Để thực hiện muc tiêu đã định, ông ta có thể giả ngây giả dại miệng nói những lời ngây ngô, hy sinh tình yêu và hạnh phúc của mình. Dùng dáng vẻ điên dại để làm đối thủ mất cảnh giác và bảo toàn mình.

* Khoái Thông thời Tây Hán khi dưới trướng của Hàn Tín là người vạch ra mưu kế cho Hàn Tín.

Sau khi Hàn Tín đánh bại Hạng Võ, ông ta khuyên Hàn Tín làm phản cùng chia thiên hạ với Lưu Bang. Sau khi Hàn Tín bị Lã hậu giết hại vì tội mưu phản, Khoái Thông đã bắt đầu giả điên giả dại, suốt ngày nói mê nói sảng, khiến Lã hậu không rõ ông ta rốt cuộc là điên thật hay là điên giả, cuối cùng không giết ông ta.

Trong hoàn cảnh sinh tồn hiểm ác, giả điên giả dại như Cơ Tử, Khoái Thông và Hamlet như thế là rất cần thiết. Còn trong cuộc sống thường ngày, trong hoàn cảnh hòa bình người ta vì bảo toàn lợi ích của mình, vì tránh bị xã hội và người khác làm tổn hại, giả điên giả dại thích đáng cũng vẫn là rất cần thiết.

2. Giữ vẻ bề ngoài ngờ nghệch (Đại trí nhược ngu)

Vì kế lớn cũng vì bảo toàn mình, đôi khi đối với sự việc đã rõ rành rành lại không thể trực tiếp tỏ thái độ, nói hết cõi lòng, qua loa một chút, mơ hồ một chút lại là kế sách vẹn toàn, là hành động tài giỏi, khôn khéo.

Kỳ thực, đây cũng chính là ý «đại trí nhược ngu, «hồ đồ hiếm có» mà người ta thường nói.

Trí tuệ và tài năng của con người thể hiện ở chỗ bất cứ lúc nào đều có thể nắm chắc thế cục, nắm chắc mình, chứ không phải là «bạ đâu nói đấy, muốn làm gì làm nấy».

Thiếu thao lược rất khó hoàn thành việc lớn.

«Thao lược» cùng nghĩa với «âm mưu» mà chúng ta thường nói, bất kể là nhân vật lớn, hay là vai trò nhỏ, có một chút mưu lược vẫn mạnh hơn không có.

Trong cạnh tranh xã hội ngày càng mạnh mẽ, những người thành công đều là người có trí tuệ và thao lược cao hơn người khác, mà không phải vì họ có tiền, có quyền.

Nếu như không có mưu lược, dù là có quyền, có tiền, cũng rất có thể mất hết. Con người giỏi mưu kế, dù không có lấy một thứ gì, cũng có thể thông qua mưu lược và phấn đấu một thời kỳ nhất định, giành được quyền lực, giành được tiền của.

Jeamson, Tổng giám đốc công ty Á – thông Mỹ là một nhà triệu phú, ông đã từng nói: «Hỡi các nhà cạnh tranh, các bạn hãy nghe đây, xin hãy đem tất cả tiền tài của tôi mang đi hết, hãy đem tất cả nhà xưởng của tôi tịch thu hết, hãy đem tất cả cổ phiếu của tôi đổi thành tên của các bạn hết, chỉ cần tôi vẫn đang còn động não được, các nhân viên dưới quyền của tôi vẫn trung thành với tôi, trong 3 năm, tất cả mọi thứ đã mất, tôi đều có thể gọi chúng quay trở lại được!».

«Động não» mà Jeamson nói chính là vận dụng mưu kế, trên thực tế chính là nghệ thuật của trí tuệ.

Các ví dụ như thế có rất nhiều – Thời Tây Hán người tài như Trương Lương, Trần Bình rất tinh thông đạo lý này, giữ nước giữ mình thì không thể có người bình thường nào sánh kịp.

Lưu Bang lập nên triều Hán, việc đầu tiên sau khi làm Hoàng đế chính là phong cho Lưu Doanh, con trai của ông với Lã Trĩ làm Hoàng Thái Tử, Lã Trĩ đương nhiên lấy danh nghĩa chính tông Hoàng hậu ở ngôi cao. Nhưng khi thống lĩnh đại quân đi đánh đông dẹp tây, Lưu Bang người tham rượu hiếu sắc trong chiến tranh vẫn không quên mua vui, tiêu khiển, Lưu Bang có một loạt các tì thiếp xinh đẹp.

Như thế, nếu có Lưu Hằng (chính là Hán Văn đế sau này) do Bạc Cơ sinh, Lưu Như Ý do Thích Ý sinh, Lưu Trường do Triệu Cơ sinh là Lưu Hữu, Lưu Khôi và Lưu Kiến do Gia Cơ sinh. Cộng thêm với Lưu Doanh, Lưu Phì, như vậy Lưu Bang có tất cả 8 người con trai.

Một ngày đầu thu năm 197 trước công nguyên, Lưu Bang ngồi oai vệ trên ngai ở điện trước cung Vị Ương, các quan văn võ đứng xếp hàng hai bên, vẻ mặt căng thẳng lắng nghe Lưu Bang tuyên bố quyết định thay đổi Thái tử.

Lưu Bang vốn bắt đầu từ hành cung Thành Cao, đã yêu riêng Thích Ý xinh đẹp thướt tha lại hay «tranh cường hiếu thắng», vẻ bề ngoài của Thích Ý có thể sánh với Tây Thi, lại biết đàn biết hát, biết đọc sách, nói năng trôi chảy lại sinh cho Lưu Bang một đứa con trai là Lưu Như Ý, nàng Thích Ý vốn có ý nghĩ không an phận, muốn thay Lưu Như Ý giành trưởng.

Trước kia, Lã hậu chưa kịp đi theo quân lính, ở lại Trường An, tình cảm với Lưu Bang đương nhiên là hững hờ, không địch nổi vẻ thân thiết mặn nồng như Thích phi. Sau khi dựng nên triều Hán, Lưu Bang vẫn yêu Thích phi như xưa. Lã hậu cũng nhận ra điều đó, nhưng đành chịu vì sắc suy tình cũng giảm, không thể tranh hơn, đành phải luôn luôn đề phòng, xem mẹ con Thích phi như cái gai ở trong mắt.

Bởi Lã hậu biết được rằng, một khi vị trí Hoàng hậu bị lật đổ thì hậu quả không thể tưởng tượng được.

Khi Lưu Như Ý lên 10 tuổi, Thích Ý liền tăng nhanh tốc độ đoạt trưởng, bà ta ngày đêm chau mày sướt mướt trước mặt Lưu Bang, van xin Lưu Bang đổi lập Lưu Như Ý làm Thái tử. Lưu Bang không khỏi mủi lòng, hơn nữa vì Lưu Doanh bẩm tính nhu nhược, không thông minh bằng Như Ý, muốn đổi lập quách đi cho xong.

Lưu Bang tuy nhận lời hứa với Thích phi, nhưng vẫn phải họp các đại thần lại để cùng bàn bạc. Bởi vì việc thay đổi Thái tử ở xã hội Trung Quốc có thể làm lung lay quốc gia đến tận gốc rễ, do đó người ta không thể cẩu thả, hồ đồ làm việc này được.

Mấy ngày nay, Lã hậu vốn là người nhạy cảm chính trị đứng ngồi không yên, bà dự cảm thấy sắp có việc lớn xảy ra. Giờ đây, thấy Hoàng thượng triệu tập các quan bàn việc, bèn lặng lẽ trốn vào dãy nhà ngang phía Đông điện trước cung Vị Ương dò la tin tức. Chỉ thấy Lưu Bang trịnh trọng nói: «Thái tử Lưu Doanh bẩm tính nhu nhược, tư chất bình thường, như thế làm sao có thể kế thừa nghiệp lớn? Triệu vương Như Ý tuổi tuy nhỏ, lại rất thông minh, lời nói và việc làm rất giống ta, ta định phế bỏ Thái tử Doanh, lập Như Ý làm Thái tử, các vị đại thần thấy như thế nào?».

Lã hậu nghe rõ tất cả, lòng bà đột nhiên thắt lại, cảm thấy mắt tối sầm, hai chân mềm nhũn, suýt nữa ngã lăn xuống đất. Bà biết rằng, Thái tử bị phế bỏ, thì địa vị Hoàng hậu của bà cũng sẽ chấm dứt, chưa biết chừng nào còn bị đưa vào lãnh cung! Lã hậu vừa bực vừa hận vừa sốt ruột, bà tiếp tục kiên trì để lắng nghe ý kiến của các đại thần.

Việc làm của Lưu Bang muốn lập Như Ý làm Thái tử chắc chắn làm cho bách quan văn võ khiếp sợ, nên những lời thưa lên phần nhiều là những lời cũ rích, ý Lưu Bang muốn đổi lập Thái tử vẫn không thay đổi. Bỗng nhiên nghe thấy một tiếng kêu lớn: «Không được! Không... Không được!» mọi người nhìn, té ra là Ngự sử đại phu «nói lắp» Chu Xương. Người này rất thẳng thắn, dám nói dám làm, đã theo Lưu Bang vào sinh ra tử, một lòng trung thành, lời nói của ông đối với Lưu Bang là rất có trọng lượng. Do Chu Xương dám mạo phạm can gián thẳng ngay giữa triều đình, cộng thêm quần thần một mực phản đối, ý định đổi lập Thái tử của Lưu Bang đành tạm thời xóa bỏ.

Sau khi bãi triều, Lã hậu không nén nổi kích động trong lòng, xông vào dãy nhà phía Đông, không giữ nổi vẻ tôn nghiêm của Hoàng hậu nữa, chạy thẳng đến trước mặt Chu Xương quỳ xuống, nói: «Ngự sử đại phu, hôm nay không có ngài, Thái tử nhất định không giữ nổi». Việc quỳ cảm ơn của Lã hậu, làm cho Chu Xương chân tay luống cuống, vội vàng đáp lễ, nói:

«Thần can gián bệ hạ là vì việc công chứ không phải vì việc tư, làm sao dám xứng với lễ lớn này.» Nói xong bỏ đi.

Nhìn bóng của Chu Xương đã đi xa, Lã hậu đứng ngẩn người ra ở đó, trong lòng bà rộn lên, hôm nay đích thực là rất nguy hiểm, đây cũng là sự bắt đầu «đọ súng» chính diện của bà với Thích Ý, trên miệng bà lộ ra vẻ cười nhạt khó hiểu, quyết định tiếp nhận thách thức của vận mệnh. Bà biết Lưu Bang chỉ là nhượng bộ tạm thời, việc phong Lưu Như Ý làm Hoàng Thái tử bất cứ lúc nào đều có thể lập lại. Bà muốn tìm được một biện pháp ổn thỏa.

Lã hậu là người sáng suốt tự biết mình, bà biết trong việc tranh giành chính trị còn khó mà ứng phó tự nhiên được, thế là liền bắt đầu tìm người mưu kế, đầu tiên bà nghĩ đến Trương Lương đa mưu túc trí, bèn không ngại hỏi kế ông ta. Trương Lương biết rất rõ những việc lợi hại trong cung, không muốn nhúng tay vào việc gia đình Hoàng đế, nên không bằng lòng bày kế, cũng không tỏ thái độ.

Lã hậu không nản lòng, lại cử anh trai mình là Lã Trạch mềm rắn đủ cả, làm việc với Trương Lương. Trương Lương chẳng còn cách nào hơn mới nói: «Việc thay đổi Thái tử chỉ dựa vào tranh luận ngoài cửa miệng là không xong, tôi cũng khó trực tiếp xuất đầu lộ diện. Như thế này nhé! Tôi tiến cử người khác thay tôi. Trên núi Chung Nam Thương có bốn vị lão nhân ẩn cư, danh tiếng rất lớn, Hoàng thượng trước kia muốn chiêu nạp họ, nhưng họ cho rằng Hoàng đế khinh thường vô lễ, từ chối chiêu nạp mà chạy trốn vào trong núi, thề không làm bầy tôi của nhà Hán. Hoàng thượng trái lại càng tôn trọng họ. Nếu Thái tử có thể tự mình viết thư, không tiếc vàng bạc châu báu, mời họ làm tân khách của mình, luôn luôn đi theo mình vào triều, cố ý để cho Hoàng thượng trông thấy, Hoàng thượng biết có bốn người này phò tá Thái tử sẽ không thể đổi lập Thái tử nữa».

Lã Trạch sau khi được kể, về nói với Lã hậu, Lã hậu hết sức vui mừng, lập tức liền xếp đặt người chuyên đem thư của Thái tử và mang theo hàng loạt vàng ngọc gấm vóc lên đường đi mời «Thương sơn tứ hạo» gồm Đông Viên công, Khởi Lý Quý, Hạ Hoàng công, Giốc Lý tiên sinh, bốn ông già cuối cùng đã xuống núi.

«Bốn ông già núi Thương» không bao lâu đã tỏ rõ tác dụng.

Năm 196 trước công nguyên, Hoài Nam vương Anh Bố đóng giữ ở huyện Thọ, An Huy làm phản, Lưu Bang đang có bệnh có ý định để cho Hoàng Thái tử Lưu Doanh dẫn quân đi dẹp loạn. Lã hậu cho rằng sự việc quan trọng, liền đến tìm «bốn ông già» bàn bạc. Bốn người cảnh cáo Lã hậu nói: «Việc đi dẹp loạn này bất kể thắng thua đều không có lợi cho Thái tử. Nếu như thắng thì có công lao gì? Hoàng thái tử vị trí đã ở tột đỉnh của kẻ bầy tôi, không thể lại thăng quan được nữa. Nhưng nếu thua thì việc này thật là ghê gớm, khi Hoàng đế phải phế bỏ ông ta thì còn có cớ gì nữa». Lã hậu nghe xong, cho là đúng, liền đi gặp Lưu Bang, khóc lóc kể lể với ông ta việc dẹp loạn rất quan trọng đối với giang sơn nhà Hán, hơn nữa phải nói chỉ có Hoàng thượng thân chinh đi mới có thể đạt được thành công.

Lưu Bang vừa nghe, hóa ra vai trò của ông quan trọng như thế, trong lòng đầy hớn hở, quyết định mang bệnh xuất chinh. Như vậy, Lã hậu không những tránh được nguy hiểm của việc Thái tử xuất chinh, mà cũng giành được thời gian khiến cho Lưu Bang hoãn thay Thái tử, mình sẽ trù liệu bí mật đối sách.

Năm 194 trước công nguyên, trong quá trình chinh phạt Anh Bố, Lưu Bang bị trúng một mũi tên. Về đến Trường An, bệnh tình trầm trọng. Thích phu nhân ngày đêm khóc lóc. Lưu Bang dự cảm chỉ được ở cõi trần gian không lâu nữa, bịn rịn không nở dứt Thích Ý, lo lắng cho mẹ con Thích phi không thể là đối phủ của Lã hậu, liền sinh bụng thực thi lại kế hoạch phế lập Thái tử.

Lưu Bang lại triệu tập hội nghị quần thần một lần nữa, lần này là Phụng thường Thúc Tôn Thông dẫn đầu đấu tranh trong triều đình, làm cho Lưu Bang không thể thực hiện được quyết tâm, đành ôm hận ra về.

Lã hậu thấy thời cơ đã đến, liền gọi Thái tử đến làm một bữa tiệc gia đình, mời «bốn ông lão» cùng dự. Sau khi Lưu Bang đến dự, nhìn thấy phía sau người Thái tử có bốn cụ già hơn 80 tuổi đầu tóc bạc phơ hầu hạ Lưu Doanh, trong lòng bất giác thấy nghi hoặc, sau khi nghe xong bốn ông già tự báo họ tên, lại một lần kinh ngạc nữa, mắt trợn tròn dè dặt nói: «Trẫm nhiều lần mời các vị, các vị lại trốn đi, con trẫm có tài đức gì, phiền bốn vị cùng giúp đỡ?». Bốn vị lão nhân ở núi Thương, dưới sự gợi ý trước của Lã hậu, trả lời: «Bệ hạ xem thường làm nhục người khác, chúng tôi không muốn làm quan, không bằng lòng chịu nhục, mới từ chối gặp mặt bệ hạ. Hoàng Thái tử trung hậu nhân hiếu, thiên hạ đều muốn dốc toàn lực để đóng góp cho Thái tử, cho nên chúng tôi bằng lòng hầu hạ để ông sai bảo».

Lưu Bang sau khi nghe xong những lời này thở phào một cái, đắn đo nói: «Các ông phải chăm sóc Thái tử cẩn thận». Rồi với vẻ lúng túng nhà vua rút lui khỏi bữa tiệc gia đình.

Đến đây, ý nghĩ thay Thái tử của Lưu Bang đã hoàn toàn tiêu tan. Về đến hậu cung, Lưu Bang nói với Thích Ý rằng: «Ta vốn quyết định lập Như Ý làm Thái tử, trong triều không có người tán thành, bây giờ Lưu Doanh lại có «bốn ông già ở núi Thương» phò tá, vây cánh đã đủ, khó mà động đến được. Xem ra Lã Trĩ sẽ trở thành người chủ của nàng rồi».

Không lâu, trong cung có Phù tỷ lang giữ ấn tín tên là Triệu Nghiêu, ông ta nhìn thấy rõ tâm tư của Lưu Bang lo lắng sự an toàn của mẹ con Thích phi, đã tính kế can gián Lưu Bang phong cho Lưu Như Ý làm Triệu vương và dời kinh đô đến nước đó sớm hơn và phái một vị Tướng quốc cao quý mà cương cường đến bảo hộ ông ta. Lưu Bang bằng lòng, chọn phái Chu Xương và Lưu Như Ý cùng đi đến đất phong, đồng thời tuyên chỉ Triệu Nghiêu làm Ngự sử đại phu. Sắp xếp xong những việc này, Lưu Bang như một hòn đá rơi xuống đất. Về phía Lã hậu, từng giờ từng phút theo dõi động thái của Lưu Bang, từ lâu đã bố trí người tâm phúc ngấm ngầm đi điều tra, sau khi hỏi thăm ra là mưu kế của Triệu Nghiêu, cười nhạt nói: «Xem rồi sẽ ra sao!».

Sóng gió chính trị củng cố giòng trưởng giữ ngôi là một màn hiểm ác nhất một đời của Lã hậu, do mưu mô và kế hoạch bí mật của Lã hậu, cuối cùng đã chuyển hiểm thành an. Thành công của Lã hậu, có người cho là sức mạnh của «bốn ông già núi Thương», song trên thực tế mời Trương Lương vạch ra kế sách vừa vào cuộc đã sôi nổi hắn lên này lại là Lã hậu, vì thế Thích Ý không tài nào độ nổi.

Còn Trương Lương ở đây càng có tác dụng quyết định, cũng càng để cho người ta nhìn ra sự độc đáo và trí tuệ của ông. Ông đã nói gì, nghĩ gì đều cặn kẽ kín đáo không để lộ ý, không đặt mình vào trong dòng xoáy đấu tranh, nhưng thực chất tỏ thái độ hết sự rõ ràng. Thật là trí tuệ của ông hết sức cao minh.

Lấp lửng nước đôi chính là «pha trò cười» mà người ta thường nói.

Lỗ Tấn đã từng kể một câu chuyện nổi tiếng:

Một nhà sinh được mot bé trai, phố phường hàng xóm xung quanh xôn xao đến chúc mừng.

Có người nói, đứa bé này sinh ra trắng trẻo bụ bẫm, tương lai nhất định có triển vọng, có thể làm quan to. Có người nói, đứa bé này thông minh lanh lợi, tương lại rất có năng khiếu văn chương, có thể viết những bài văn hay nhất thiên hạ. Có người nói, đứa bé này tinh thần sung mãn, tương lai nhất định sẽ phát tài to.

Nhưng có một người lại nói ngược lại rằng đứa bé này sẽ chết yểu.

Câu nói thật này của anh ta làm cho tất cả mọi người đều ngơ ngác kinh ngạc.

Thế là mọi người đều căm tức kết thành một khối đánh người đó một trận nên thân.

Ai ai cũng đều thích nghe lời nói tốt, ai ai cũng đều thích nói những lời nói tốt. Người nói những lời tốt được tán thưởng còn người không thức thời nói thật thì bị đánh đòn.

Trong trường hợp như thế, người ta sẽ cảm thấy nói lời giả dối, nói lời hoa mỹ hầu như mất tôn nghiêm nhân cách, hơn nữa có thể những lời nói đó không thật thốt ra từ đáy lòng người ta.

Nhưng nói những lời nói thật quá dứt khoát thì không tránh khỏi chuốc lấy phiền phức, thậm chí có thể rước họa vào thân.

Làm thế nào đây?

Thế là người ta liền bắt đầu nói đùa. Nói rằng: «Đứa bé này... ha ha ha...», «Đứa bé này... ha ha ha...», «Đứa bé này... ha ha ha ha ha...».

«Pha trò cười» đúng lúc là rất cần thiết. Nhất là trước khi người ta đối với một số vấn đề còn chưa nhìn ra kết quả, không nên bộp chộp nói những lời có tính tuyệt đối, mà nên lấp lửng nước đôi, bình tĩnh xem xét sự phát triển của trạng thái sự việc.

Mao Trạch Đông đã từng nói: «Chưa điều tra, thì không có quyền phát ngôn». Tất cả mọi kết luận đều nên đưa ra sau khi tìm hiểu đầy đủ nguyên nhân và kết quả của sự việc mà không phải là trong phát triển của nó.

Nhiều người không hiểu rõ những lý lẽ này, khi không nên đưa ra kết luận thì chớ có quả quyết kết luận, chớ có nói ra những lời cứng nhắc mà phải khôn khéo linh động từng từ từng câu, chớ có nói:

- «Việc này, chắc như đinh đóng cột, tuyệt đối không có vấn đề!»

- «Những thứ anh cần, trong vòng 10 ngày sẽ đưa đến 100%, xin anh yên tâm!»

- «Việc này đáng tin 100%!»

- «Con người tôi nói một là một, hai là hai, thứ tư gặp mặt thì thứ tư sẽ gặp!»

- «Ngày 1 tháng 10, nhà máy chúng tôi nhất định có thể sản xuất ra loạt sản phẩm đầu tiên, nếu như nói mà không làm được, tôi sẽ không phải là người!»

...

Những lời vỗ ngực, cam đoan giống như thế, trong cuộc sống này có rất nhiều.

Còn bản thân bạn khi tâm tình hăng hái bốc lên cũng có thể nói những lời có tính tuyệt đối này. Nhưng trên đời mây gió không lường, con người có phúc họa sớm tối, việc công xưa nay khó vẹn toàn – trong đời sống xã hội mọi tình huống ngoài ý muốn như thế đều có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Do vậy, khi nói chuyện với người khác, nên lưu lại cho mình phần linh động đầy đủ, không nên tự đặt mình vào chỗ khó xử.

Ví dụ nói: bạn có kế hoạch nhà máy của mình trong tháng 10 sẽ sản xuất ra sản phẩm đầu tiên, nhưng khi nói việc này với người khác, thì hãy xem xét đến một phần trăm yếu tố bất trắc xảy ra trong quá trình sản xuất? Không may kéo dài thời gian thì làm thế nào? Không may do các nguyên nhân như điện, kỹ thuật, tố chất công nhân v.v... đem lại phiền phức, các nhân tố bất lợi cho bạn thì làm thế nào?

Cho nên khi nói chuyện, phải nói: «Kế hoạch của chúng tôi tháng 10 có thể sản xuất ra loại sản phẩm đầu tiên, nếu như không có gì xảy ra ngoài ý muốn. Nhưng chúng tôi sẽ hết sức cố gắng để làm vừa lòng các bạn».

Khi nói chuyện với người khác hoặc khi đàm phán, hoặc khi kết giao ban bè, xin hãy dùng nhiều những cụm từ dưới đây:

- Mặc dù... nhưng mà...

- Hoặc là... hoặc là...

- Tuy rằng... nhưng...

- Có thể... song...

3. Lấy bất biến ứng vạn biến

Thuật ứng biến là năng lực, bản lĩnh của con người biết nắm lấy thời cơ để quyết đoán.

Người ta khi rơi vào lúc nguy nan, cần phải tùy cơ ứng biến, gặp khó khăn không sợ, đứng trước nguy nan không run, gan dạ hơn người, sức địch ngàn quân, giành thắng trong phút chốc, xoay chuyển thế cục, chuyển bại thành thắng.

Tính quyết đoán làm cho mâu thuẫn chuyển hóa, chỉ có kẻ trí dũng kiêm toàn, mới đủ để đảm đương.

Trong cuộc sống cũng có thể xuất hiện những tình huống đòi hỏi chúng ta phát huy thuật ứng biến, học thêm được vài kế sách đối với việc bảo hộ lợi ích của mình, đối với việc phát triển sự nghiệp của mình chỉ có ích mà không có hại.

Với những người vốn lơ là học tập, với tâm lý tự cao tự đại cho rằng «mọi người trong thiên hạ tôi đều hiểu rõ», kỳ thực người biết rõ hơn bạn đều là những nhân vật kiệt xuất có thành tựu cao trong sự nghiệp. Những ông chủ sáng tạo kỳ tích trên thương trường, và cả những người «tinh thần đại chúng» thành thạo trong quan hệ nhân tế... Họ đều là những người có khá nhiều mưu lược, xin chớ nên coi thường họ.

Thuật ứng biến nêu ra ở đây, bao gồm những thuật «quyền biến» như tốc độ nhanh, quyết đoán nhanh, dũng cảm nhanh nhẹn, tinh nhanh, ngụy thoát, bí mật, cẩn thận không sơ hở, đối xử lịch sự nhã nhặn, tỉnh ngộ nhanh v.v... là những phản ứng của người vừa có trí vừa có dũng đưa ra khi gặp nguy nan.

Xử trí vấn đề thắc mắc khó hiểu cần phải tinh ranh mà chóng vánh, hơi chần chừ một chút sẽ sinh ra họa khôn lường, khó mà giải quyết được.

Người xưa nói: «Gặp việc không quyết, không phải là người có trí; lâm nạn mà không quyết, không phải là kẻ dũng». Xử lý nạn lớn quý là ở chỗ mưu trí nhanh, việc ngàn cân treo sợi tóc, chốc lát vạn biến không thể chần chừ. Thời Ngụy, Nhĩ Chu Vinh xử trí vấn đề của Cát Vinh là một ví dụ có thể xứng đáng tinh ranh chóng vánh.

Nhĩ Chu Vinh là đại thần cuối thời Bắc Ngụy là người Khế Hồ. Ban đầu là tù trưởng bộ lạc làm giàu bằng chân nuôi. Khi Lục Trấn khởi nghĩa, ông tích cực «chiêu binh mãi mã», mở rộng thực lực, nhiều lần trấn áp khởi nghĩa của những người chăn thuê.

Năm 528, nhân cơ hội Hiếu Minh đế bị Hồ Thái hậu đầu độc chết, cử binh vào Lạc Dương, cướp lấy quyền lớn về quân chính, ủng hộ lập Hiếu Trang đế. Đem Thái hậu và Ấu chúa dìm chết tại Hà Âm (nay là chỗ bờ sông Hoàng Hà phía bắc Lạc Dương, Hà Nam) đã giết hơn 2.000 người thuộc tôn thất và đại thần. Tiếp đó lại xuất binh trấn áp khởi nghĩa của Cát Vinh, bố trí tôn thất Đảng Vũ thao túng quyền lớn, kiêu căng bạo ngược tự buông thả, sau lại bị Hiếu Trang đế giết.

Cát Vinh là người dân tộc Tiên Ti, là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa nông dân Hà Bắc cuối thời Bắc Ngụy. Năm 526, ông chém chết Chương Vũ vương Nguyên Dung, tự xưng Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Tề. Về sau ông thừa thắng đã giết chết Thống soái cao nhất của quân Ngụy là Nguyên Sâm, chiếm cứ mấy châu ở Hà Bắc có số dân mấy chục vạn người, thanh thế rất lớn.

Nhưng trong quá trình hành quân khởi nghĩa, ông ức hiếp nhân dân dân tộc Hán, lôi kéo bọn địa chủ cường hào, lại bất thình lình giết Đỗ Lạc Chu (thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân Hà Bắc cuối thời Bắc Ngụy) dẫn đến nội bộ quân khởi nghĩa lục đục, đã định trước vận mệnh thất bại của ông.

Năm 528, Nhĩ Chu Vinh lợi dụng mâu thuẫn bên trong quân Cát Vinh, đánh lớn vào Cát Vinh tại Tương Châu (nầy là phía Nam, huyện Từ, Hà Bắc). Nhĩ Chu Vinh lợi dụng điều kiện thiên thời, địa lợi, nhân hòa, xung phong đi đầu binh sĩ làm một mạch cho xong, không tổn thất bao nhiêu binh lực, liền đánh tan toàn bộ bộ thuộc của Cát Vinh, Cát Vinh là thủ lĩnh của nghĩa quân cũng bị bắt sống.

Cục diện lúc đó, đối với Nhĩ Chu Vinh là vô cùng hoành tráng: thủ lĩnh Cát Vinh đã như cá nằm trong chậu, tai vạ khó tránh. Mấy chục vạn binh mà nằm dưới tay Cát Vinh như rắn không đầu. Còn quân của mình thì vui mừng phấn khởi mặt mày hớn hở, tiếng hò reo vang trời, tiếng ngựa hí rung chuyển núi đồi. Cát Vinh mặt mày đờ đẫn không biết là hối hận hay là sợ, không nói một lời, ngồi để chờ chết. Mặc dù ông ta cũng đã từng có không chỉ một lần thắng, thậm chí đã giết được cả Nguyên Sâm, Thống soái cao nhất của quân Ngụy, cũng đã từng có không chỉ một lần vui sướng, nhưng không ngờ tới ngày này rơi vào tay kẻ thù, công lao trước kia đều vứt hết, việc sắp thành công lại bị hỏng.

Nhìn thấy vẻ chán nản và tuyệt vọng của Cát Vinh, lòng sĩ diện hão của Nhĩ Chu Vinh đã được thỏa mãn tột bậc. Nhưng, ông ta không bị thắng lợi làm cho u mê đầu óc, ông đang suy nghĩ: biểu hiện của Cát Vinh có thật hay không? Cát Vinh chưa đánh đến cùng đã đầu hàng, ở đây phải chăng là có gian trá? Phía sau lưng Cát Vinh còn mấy chục vạn binh mã, cùng lẫn vào trong quân của mình, nhỡ ra chúng cùng liều đến chết, từ trong đó dấy binh thì làm thế nào? Cứ như thế suy nghĩ...

Việc suy nghĩ này không phải có lý. Bởi vì Cát Vinh quân nhiều thế lớn, một khi nhỡ xử lý không tốt, đuôi lớn không quẫy được, biến thành gánh nặng, nguy hại đến mình, lúc đó sẽ không dễ sửa.

Thế là, Nhĩ Chu Vinh thừa cơ quyết kế, hạ lệnh các binh sĩ tướng lĩnh vốn thuộc Cát Vinh, mỗi người theo sở thích của mình, thân thuộc có thể đi theo, ai thích lưu lại cũng được, còn ai muốn về nhà cũng cho. Mệnh lệnh này quả là giành được sự tán thành của các tướng sĩ đầu hàng, thế là mọi người chạy đi báo tin cho nhau biết, biến khổ thành vui, biến buồn rầu thành sung sướng.

Mọi người mặc dù cảm ơn mệnh lệnh của Nhĩ Chu Vinh, nhưng người muốn lưu lại đi theo Nhĩ Chu Vinh lại rất ít, mọi người đều muốn về nhà, trốn thoát chiến tranh. Một thời gian, bụi đất tung bay, tiếng người ồn ào, kẻ chạy người trốn, mấy chục vạn binh mã, một ngày tan hết, giống như ở nơi đây không hề có chiến tranh xảy ra.

Nhưng, Nhĩ Chu Vinh không thể dễ dàng bỏ qua những «chiến lợi phẩm» này. Đợi đến khi người ngựa chạy khỏi ngoài trăm dặm, Nhĩ Chu Vinh chia quân theo các đường áp lĩnh hàng binh, đem những hàng binh bỏ chạy này, lại từng người từng người thu nhận, tùy ý sắp đặt, biên chế vào trong quân, khiến cho mấy chục vạn người của Cát Vinh phân thành nhiều cánh quân nhỏ, rất khó trở thành một bộ phận hoàn chỉnh nữa, khả năng tụ tập mưu phản của họ sẽ rất nhỏ.

Đối với một số tướng soái trong quân Cát Vinh, thì căn cứ theo nhu cầu và lượng tài phong chức vị. Như vậy, đại quân mấy chục vạn của Cát Vinh, đã bị Nhĩ Chu Vinh chỉnh đốn biên chế lại một cách hệ thống chặt chẽ. Cuối cùng Nhĩ Chu Vinh dùng xe tù đem Cát Vinh đến Lạc Dương, chém đầu thị uy trước công chúng.

Nhĩ Chu Vinh dùng biện pháp phân tán và thu nhận chỉnh đốn lại, đã triệt để khắc phục được mấy chục vạn binh mã của Cát Vinh, tránh được xung đột có thể xảy ra, giảm bớt khả năng thuộc hạ cũ của Cát Vinh tụ tập mọi người dấy binh và đợi thời cơ trở lại.

Từ đó ta thấy, sự tinh ranh nhanh nhạy của Nhĩ Chu Vinh là một thủ đoạn quan trọng giành thắng Cát Vinh của ông ta.

Phản ứng nhanh nhạy, đối với chiến tranh thời xưa có thể có tác dụng quyết định. Trong thương chiến của hoàn cảnh hòa bình, vẫn có thể có tác dụng quyết định. Đây chính là cái người ta thường nói: «Nắm chắc thời cơ, tùy cơ ứng biến».

Lại phải nói rằng, tất cả mọi biến đổi là do xã hội và thị trường phát sinh biến đổi, mà đối sách của mình không thể không tiến hành điều chỉnh và biến đổi.

Vào lúc như thế, nhất định phải nhớ rằng: bất kể tình thế biến đổi như thế nào, lập trường của mình không thể thay đổi. Chính là: «Mặc cho gió dồn sóng vỗ, vững vàng ngồi câu giữa thuyền».

Nếu như trong biến đổi, mình cũng bị làm cho đầu óc rối mù không tìm ra hướng, thế thì chỉ có thể chôn vùi sự nghiệp và tiền đồ của mình.

Có người nói, thế giới ngày nay là thế giới tri thức bùng nổ. Mọi người ở bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu đều đang biến đổi, nếu như ta không thay đổi mình sẽ không đuổi kịp tình hình, sẽ trở thành kẻ lạc ngũ của thời đại.

Câu hỏi này nghe ra rất có lý. Những người biết đọc Âm kinh sẽ có thể phát hiện: câu nói này chỉ nói đúng một nửa – tức nói đúng về mặt «biến đổi», mà bỏ qua mặt «không biến đổi».

Trung Quốc có câu cổ ngữ nói là: «Vạn biến bất ly kỳ tông» (Dù vạn biến cũng không tách rời «tông» của nó). Chữ «tông» ở đây kỳ thực chính là lòng dạ không đổi của con người.

Mỗi người, do sự ra đời của họ, sự từng trải của họ, học thức của họ, môi trường sống và địa vị của họ khác nhau, quyết định thái độ của họ đối với các mặt đời sống xã hội cũng khác nhau.

Trong xã hội muôn màu muôn vẻ, bạn có thể thay đổi như thế này, thế kia. Bạn có thể thay đổi nhiều một chút, ít một chút. Bạn có thể để cho mình trở thành những người theo đuổi cái mới, bạn có thể để cho mình trở thành kẻ bàng quan thờ ơ nhìn thế giới v.v... và v.v...

Nhưng, bất kể thay đổi ra sao, đều không nên đánh mất mình.

Triết học phương Tây có một mệnh đề quan trọng: «Ta là ai?».

Ở Trung Quốc, người ta đa số đều tin sự chỉ dẫn của Thánh hiền, đa số đều không thích nêu ra nghi vấn, không biết đặt câu hỏi «ta là ai» lắm.

Song vấn đề này luôn luôn tồn tại, đặc biệt là ngày nay càng phát triển nhanh chóng, mọi người đều có thể dùng phương thức của mình để thay đổi mình, để điều chỉnh mình, để thích ứng với quan hệ của mình với xã hội và người khác. Xin hãy nhớ rằng: Nhất thiết phải dùng lập trường không đổi ứng phó với tình thế vạn biến.

4. Trong lộn xộn, phải bình tĩnh

Từ cải cách mở cửa đến nay, ti vi màu và đồ điện Trường Hồng đã được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng. Nhưng lúc ban đầu khi người của Trường Hồng sáng nghiệp tình hình lại rất rối ren phức tạp.

Năm 1982, Bộ Công nghiệp điện tử và Bộ Kinh tế đối ngoại Nhà nước đều phê chuẩn quyết định không nhập bóng thu hình màu từ nước ngoài, thế là nhiều địa phương như Tây An, Quảng Châu, Thâm Quyến, Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, Lan Châu, Nam Xương, Nam Kinh, Hàng Châu... đều tới tấp sửa soạn vốn để nhập dây truyền sản xuất bóng thu hình màu của các công ty lớn như Masushita, Toshiba, ồ ạt vào thị trường Trung Quốc hàng loạt.

Song các loại máy thu hình màu nổi tiếng của nước ngoài cũng với thế mạnh đang chiếm lĩnh thị trường rộng lớn Trung Quốc. Trong tình hình đó máy thu hình màu Trung Quốc sản xuất, do tiền vốn và kỹ thuật của các nhà máy không đồng đều, tốt xấu lẫn lộn đã tạo nên cục diện hỗn loạn lộn xộn.

Trong hỗn loạn, người của Trường Hồng vẫn giữ được đầu óc bình tĩnh, nay từ lúc bắt đầu đã nhắm đúng trình độ tiên tiến thế giới, phát triển công nghiệp dân tộc của Trung Quốc khởi điểm cao.

Do nguồn nhân lực của Trung Quốc hùng hậu, mức lương tương đối thấp, cho nên giá thành sản phẩm so với nước ngoài rẻ hơn rất nhiều. Máy thu hình màu Trường Hồng (Cháng hóng) khi ra đời với ưu thế chất lượng cao, giá thành hạ chiếm lĩnh thị trường rất nhanh chóng. Còn những xí nghiệp muốn thành côngvà có lợi ngay, đua nhau chen lên, do không hình thành được dây chuyền sản xuất hàng loạt lớn, cộng với chất lượng không cao, trong cạnh tranh tới tấp bị thất bại, bị buộc phải đóng cửa ngừng sản xuất và chuyển đổi.

Nguyên tắc của người Trường Hồng là: «Thị trường mãi mãi là đúng». Trước sản phẩm chất lượng tốt, sản xuất hàng loạt lớn, giá thành hạ của họ, thị trường máy thu hình màu nước ngoài vốn chiếm lĩnh, dần dần thu hẹp. Từ đó làm cho máy thu hình màu sản xuất trong nước nắm được cơ hội, xây dựng thương hiệu, giành được lòng người.

Thử nghĩ xem, nếu như trong thời kỳ hỗn loạn đó, các xí nghiệp máy thu hình Trung Quốc như Trường Hồng, v.v... không thể bình tĩnh thừa thế xông lên, thì ngày nay trên thị trường Trung Quốc, rất có thể máy thu hình màu nước ngoài đã nhất thống thiên hạ rồi.

Gặp hỗn loạn không hoảng sợ, giữ bình tĩnh xét thời cơ đích thực là trí tuệ quan trọng của đời người. Việc đó vừa cần phải có kinh nghiệm, lại cần phải có lòng can đảm và hiểu biết.

Ví dụ như thời Tam quốc, hai nước Ngô – Thục thường liên quân đánh nước Ngụy. Đây chính là chính sách «Liên Ngô kháng Tào» của Thục tướng Gia Cát Lượng.

Năm 208, Tào Tháo chiếm lĩnh Kinh Châu xong, thống soái mấy chục vạn quân thủy, bộ, chỉ huy quân xuống phía Nam, hòng một trận tiêu diệt Đông Ngô. Đông Ngô liên quân với Lưu Bị, cùng chống lại Tào Tháo.

Chu Du và Lỗ Túc xem xét tình thế, chỉ ra rằng Tào Tháo mạo hiểm dùng quân có bốn tai họa, đồng thời tự mình chỉ huy quân Ngô liên quân với Lưu Bị đại phá Tào Tháo tại Xích Bích, đây là trận đánh lớn ở Xích Bích lừng danh trong lịch sử: Sau khi cuộc đại chiến thắng lợi, Gia Cát Lượng liền thừa cơ chiếm lĩnh Kinh Châu và Ích Châu, giúp Lưu Bị xây dựng nên chính quyền Thục Hán, đã hình thành thế chân vạc ba nước Ngụy, Thục, Ngô, bản thân ông cũng lập công được phong Thừa tướng. Năm 223, sau khi Lưu Bị chết, ông liền phò tá Lưu Thiện, chủ trì việc quân, việc nước.

Mã Tốc là tướng của nước Thục, được Gia Cát Lượng trọng dụng, chuyển nhiệm làm Tham quân. Năm 229, Gia Cát Lượng khởi binh đánh Ngụy, mệnh lệnh Mã Tốc làm Tiên phong đốc thúc các quân, đánh nhau với tướng Ngụy - Trương Đại tại Nhai Đình (nay là vùng đông nam Trang Lãng, tỉnh Cam Túc). Mã Tốc làm trái với sự điều khiển của Gia Cát Lượng, chỉ huy không thích ứng, cuối cùng bị thua Trương Đại.

Kế hoạch khởi binh của Gia Cát Lượng bị phá hoại, buộc phải rút quân về Hán Trung, đem Mã Tốc giam vào ngục và chết ở trong ngục.

Mã Tốc thất bại ở Nhai Đình, Gia Cát Lượng rất bực. Nhưng quân Ngụy dưới sự chỉ huy của viên Đại tướng Tư Mã Ý, lại không bỏ đuổi đến cùng. Gia Cát Lượng vốn là một nhà chính trị, nhà quân sư hiếm có. Ông một mặt đem bắt giam Mã Tốc vào nhà ngục, để làm vang động quân uy, để giữ nghiêm kỷ luật quân đội, đồng thời lại bình tĩnh suy nghĩ cách đối phó.

Ông nghĩ, dùng binh lực của mình trực tiếp đón đánh Tư Mã Ý, rất khó hy vọng thắng, nếu như hoảng hốt chạy trốn, Tư Mã Ý nhất định sẽ tiếp tục đuổi giết, có khả năng bị bắt làm tù binh. Trong thế ngàn cân treo sợi tóc, suy đi nghĩ lại Gia Cát Lượng nhanh chóng đưa ra kế sách bố trí quân: vội vàng gọi Quan Hưng và Trương Bào lại dặn dò hai người đem sẵn 3.000 quân tinh nhuệ, tung nhánh vào núi Võ Công, đồng thời la hét om sòm lên để hư trương thanh thế. Lệnh cho Trương Dực dẫn binh đến Tu Kiếm các, để chuẩn bị đường chạy. Lệnh cho Mã Đại, Khương Duy chặn hậu, phục ở giữa thung lũng núi để đề phòng việc bất trắc. Lại ra lệnh đem tất cả cờ xí ẩn náu hết, các quân chuẩn bị sẵn sàng giữ thành trì. Ra lệnh mở rộng cửa thành, không cần đóng kín, mỗi cửa thành dùng 20 quân sĩ, bỏ hết quân phục, ăn mặc thành những người dân thường, tay cầm dụng cụ, quét dọn đường phố. Những người khác thì đi ra đi vào không