← Quay lại trang sách

Vườn điều - vụ án oan sai

Đầu năm 2005, thẩm phán Lê Ngô thuộc Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng ngồi ghế chủ tọa hội đồng xét xử một vụ án hiếp dâm, giết người. Cáo trạng của Viện Kiểm sát đề nghị tòa phạt bị cáo từ mức án chung thân đến tử hình. Nhưng căn cứ vào diễn biến của phiên tòa, quan điểm bào chữa và bảo vệ của luật sư hai bên, những thiếu sót trong hồ sơ vụ án và những vi phạm về mặt thủ tục tố tụng, thẩm phán Lê Ngô đã tuyên bố không đủ căn cứ chứng minh bị cáo phạm tội. Ông trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa.

Cách xử lý vụ án của ông Lê Ngô không khỏi làm cho gia đình của nạn nhân bị sốc. Người nhà đưa đến cho tôi một bộ hồ sơ, cho rằng ông Lê Ngô xét xử không công minh. Tôi đọc hồ sơ, đọc thật kỹ và phát hiện những điều thái thậm vô lý có trong đó.

Tôi thầm phục thẩm phán Lê Ngô. Có lẽ ông là người đầu tiên dám áp dụng nguyên tắc hễ không đủ chứng cứ buộc tội bị cáo thì phải coi là bị cáo không phạm tội. Phần chứng minh tội phạm (nếu có) về sau này là nhiệm vụ của cơ quan điều tra và kiểm sát. Khi nào, hai cơ quan này đủ chứng cứ chứng minh bị cáo có dấu hiệu phạm tội rõ ràng, hãy bắt giam và truy tố lại cũng không muộn. Còn trong thời điểm này, hai cơ quan chưa làm được việc đó, ông có quyền tuyên bố trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa nếu bị cáo không phạm một tội khác.

Tháng 10-2000, sau khi vụ án vườn điều ở xã Tân Minh (Hàm Tân, Bình Thuận) được xét xử sơ thẩm, tôi tiếp xúc với ông Võ Duy Quang, chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận. Một cách thân tình, ông hỏi tôi:

- Đây là tôi hỏi một anh nhạc sĩ nhạy cảm chứ không hỏi một anh nhà báo chuyên viết về mảng tố tụng. Cảm giác của anh về vụ án vườn điều như thế nào?

Tôi trả lời ngay:

- Với cả hai tư cách, tôi nghĩ rằng các bị cáo không có dấu hiệu phạm tội. Tòa chúng ta vừa xét xử sơ thẩm, tuyên bố họ phạm tội là chưa đủ cơ sở thuyết phục.

- Tại sao vậy?

- Hồ sơ vụ án xây dựng chứng cứ trên những lý luận rất mơ hồ. Các cơ quan tố tụng chưa chứng minh được tội phạm của họ. Các anh bắt giam bảy người trong gia đình người ta như vậy là oan ức.

- Anh nói thật chứ?

- Tôi nói rất thật.

Ông chánh án chép miệng. Tôi rất quý mến ông, một con người hiền lành, ngay thẳng, chuẩn mực. Tôi đã viết bài về vụ án này trên mặt báo nhưng chưa công khai nói ra suy nghĩ chủ quan là các bị cáo không có dấu hiệu phạm tội. Bây giờ thì tôi mới được chính thức nói rõ với ông. Kể ra, một nhà báo mà chưa dám nói hết suy nghĩ trên mặt báo thì cũng có thể gọi là hèn nhát. Nhưng báo chí vốn yêu cầu người ta phải viết một cách thận trọng. Tôi không thể vượt ra khỏi quy định chung đó.

Năm 1993, có một bà cụ già ở ngã ba Tân Minh bị giết và lấy đi một số tài sản nhỏ. Cơ quan công an mở cuộc điều tra.

Hai năm sau, một phụ nữ khác tên là Mỹ bị giết trong vườn điều, ngay ngã ba Tân Minh, chỉ cách chợ có vài mươi thước. Mặc dù xác nạn nhân đã bắt đầu phân hủy, giòi trên thân xác nạn nhân có con đã lớn bằng đầu chiếc đũa nhưng cơ quan điều tra vẫn nhận định nạn nhân chết cách đó... hai hôm (?).

Ban đầu, người ta tìm không ra thủ phạm, bèn áp dụng cách gọi hỏi. Trần Văn Sáng - xã đội trưởng xã Tân Minh và vợ là Nguyễn Thị Nhung đã bị triệu tập đến cơ quan công an lấy lời khai. Nhung bị tạm giam trên một tháng rưỡi. Sau cùng, không tìm được dấu hiệu phạm tội, cơ quan công an xin lỗi Nhung và trả tự do cho Nhung. Người ta bắt Huỳnh Văn Nén vì nghi Nén giết bà cụ.

Đến năm 1998, cơ quan điều tra cho biết Huỳnh Văn Nén - vốn là em rể, đã ly dị với em của Nhung, khai báo rằng chính gia đình Nhung gồm mẹ ruột là bà Lâm cùng các anh chị em, trong đó có cả Nén, đã tổ chức giết bà Mỹ trong vườn điều. Lý do giết người là để trả thù. Chồng Nhung là Sáng có quan hệ bất chính với Mỹ. Nhung tổ chức đánh ghen, giết Mỹ. Hồ sơ được dựng lại khá bài bản. Bảy người trong nhà bà Lâm đều bị bắt tạm giam.

Một hôm, Nhung giặt áo cho chồng, thấy có miếng giấy Mỹ viết hẹn sáng ra vườn điều nói chuyện. Đó là một đêm ba mươi tối trời. Nhung tổ chức cho mẹ, anh chị em và cả Nén cầm hung khí đến nơi. Khi hai bên đang nói chuyện, họ nhảy vào đánh Mỹ. Sáng bỏ chạy, Mỹ bị giết ngay tại vườn điều. Các bị can đều đã nhận tội...

Hồ sơ đó khó tin ở chỗ nào? Một là, xác nạn nhân đã bắt đầu phân hủy, áo quần không có vẻ rách rưới nhưng hồ sơ vẫn nói nạn nhân vừa chết hai hôm và trước khi chết, bị đến bảy người tham gia đánh đập. Hai là, sự kiện ấy xảy ra trong một khu dân cư nhưng chẳng có ai làm chứng được đêm đó có nghe nạn nhân kêu la, tiếng người đánh đập chửi mắng. Ba là, đêm xảy ra vụ án là đêm 30 âm lịch, vườn điều lại đang xòe tán, nghĩa là trời tối như hũ nút nhưng hồ sơ vẫn viết được “thấy Sáng đang ngồi nói chuyện với Mỹ...".

Những người được chứng kiến vụ khám nghiệm hiện trường đều có chung nhận định: Bà Mỹ có thể chết trước đó cả bốn, năm ngày (vì giòi đã lớn) và có lẽ ai đó đã giết bà rồi mới đưa xác vào vườn điều. Như vậy, vụ án xảy ra trong vườn điều đêm 30 giữa một khu dân cư là một vụ án... giả tưởng. Tòa án tỉnh Bình Thuận đi xác minh, lòi ra một chi tiết động trời hơn: Bà Mỹ không biết viết chữ. Hễ bà Mỹ không biết viết chữ thì làm sao có bức thư nào gởi cho Sáng được để Nhung phải nổi ghen?

Mặc cho những điều vô lý đó đầy rẫy trong hồ sơ, tòa vẫn đưa vụ án ra xét xử, tuyên phạt án tù cả thảy bảy bị cáo. Trừ Trần Văn Sáng là bị cáo tại ngoại, bị truy tố tội không tố giác tội phạm, các bị cáo khác đều bị giam giữ ngay từ ngày khởi tố vụ án, trong đó có cả hai bị cáo chưa thành niên.

Chính ông Sáng cầm đơn đến gặp tôi, kêu oan. Đơn của ông nói gia đình ông không hề giết người, ông cũng không hề quan hệ tình cảm với bà Mỹ - một người đã có chồng. Không hiểu ai đã đục cây tra cành, bức cung mớm cung khiến cả nhà ông bị bắt giam. Sở dĩ ông được tại ngoại bởi ông là người duy nhất phải nuôi ba đứa con nhỏ. Nếu không có con, ông cũng đã bị bắt giam rồi.

Tôi đã đến cơ quan cảnh sát điều tra công an Bình Thuận, gặp gỡ điều tra viên CVH. Ông khẳng định: Các bị can không hề bị bức cung, nhục hình. Khi tôi hỏi bà Lâm là người thất học, không biết chữ, làm sao có thể viết được bản tự khai (trong hồ sơ vụ án), ông H không trả lời.

Chính tôi đã đưa hồ sơ vụ án cho một người bạn - luật sư Phạm Thị Kim Anh, nghiên cứu. Đọc hồ sơ, chị rất bức xúc. Chị nói:

- Được, em sẽ bào chữa giúp vụ này cho cả bảy bị cáo, gia đình bị cáo sẽ không tốn một đồng nào cả trong phiên xử phúc thẩm tới đây.

Phiên xử phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án dân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra tại phòng xử lớn tòa Bình Thuận. Nhân dân xã Tân Minh dùng tất cả các thứ xe, kể cả xe cải tiến chuyên chở phân bò, về Phan Thiết xem tòa xét xử. Bà con đứng đầy trên đuờng Nguyễn Tất Thành, nghe vụ án qua loa phóng thanh.

Người dân khao khát công lý, thương yêu kẻ nghèo khổ cô thế. Chẳng vậy mà khi luật sư Kim Anh xuất hiện trước tòa, trình giấy giới thiệu bào chữa tình nguyện cho các bị cáo, người ta đã vỗ tay hoan hô chị. Hôm ấy, chị mặc bộ veste đen, áo sơ-mi trắng. Khi chị xuất hiện nhận bào chữa, tiếng vỗ tay rào rào nổi lên. Ai cũng nghĩ gia đình Sáng không đủ tiền, làm sao có thể mời luật sư. Nhưng sau cùng thì luật sư đã có mà là một luật sư nặng ký.

Phiên xử phúc thẩm diễn ra thật căng thẳng. Các bị cáo đều bị cách ly để tránh thông cung. Nhưng ngạc nhiên thay, trước tòa, cả thảy các bị cáo, kể cả Huỳnh Văn Nén, đều phản cung.

- Anh Nén khai rõ đi, tại sao trong phiên sơ thẩm anh nhận tội mà đến phiên phúc thẩm, anh không nhận tội?

- Thưa quý tòa, tôi đã bị đánh đập nhiều lần. Ngay trong lúc phúc cung, mỗi lần tôi không nhận tội là kiểm sát viên kêu cán bộ điều tra tới đánh tôi tại bàn phúc cung. Cho nên ra phiên sơ thẩm, tôi nhận tội để còn được sống sót khai rõ trước phiên phúc thẩm này.

Lời khai của Nén được mọi người vỗ tay rào rào.

- Đây là phiên phúc thẩm, anh muốn khai gì?

- Thưa quý tòa, tôi không hề giết bà cụ năm 1993; gia đình bên vợ tôi cũng không hề giết chị Mỹ trong vườn điều. Toàn bộ hồ sơ vụ án là do cán bộ điều tra dựng lên, buộc tôi phải ký. Nếu tôi không ký, người ta lại đánh đập tôi. Thời gian xảy ra chuyện chị Mỹ, tôi làm công ở Đồng Nai.

Cả bị cáo Nguyễn Thị Lâm và bị cáo Nguyễn Thị Nhung đều vừa khóc và trình ra trước tòa những dấu vết trên bàn tay họ. Họ không ký, không lăn tay nhận tội thì họ bị dẫm vào bàn tay! Nhung đã bị long móng tay!

Vụ án được xét xử tới bốn giờ chiều. Tòa tuyên hoãn xử, điều tra bổ sung và sẽ xét xử lại.

“Thời gian xảy ra chuyện chị Mỹ, tôi làm công ở Đồng Nai” - lời khai của Nén khiến tôi hiểu đây là mấu chốt quan trọng. Sáng hôm sau, tôi vào Đồng Nai sớm, liên hệ với công an xã nơi Nén làm công. Qua sự giúp đỡ của các anh, tôi tìm ra ông chủ đã nhận Nén vào làm thuê.

- Nó là một thằng thanh niên hiền hậu. Nó làm cho tôi, một ngày lãnh hai mươi lăm ngàn đồng. Tối nào nó cũng về nằm ngủ ở đây. Nó đâu có về ngoài đó mà nói chuyện giết bà Mỹ với bà Tây?

Các anh công an xã chứng thật chuyện đó. Như vậy là Nén có dấu hiệu ngoại phạm. Mà Nén ngoại phạm thì vụ án vườn điều đúng là... sản phẩm của trí tưởng tượng, do ông CVH nặn ra! Họ đã vẽ bùa cho các cơ quan pháp luật đeo.

Tôi đưa lên mặt báo diễn tiến của phiên tòa phúc thẩm. Với sự dè dặt bình thường, tôi không nói các bị cáo không phạm tội. Nhưng qua tất cả những gì có trong hồ sơ và diễn biến thực tế trước phiên tòa, tôi thấy không có cơ sở thuyết phục để buộc tội các bị cáo. Tôi đưa thêm ý kiến ông già ở Đồng Nai để chứng minh Nén có dấu hiệu ngoại phạm và đề nghị các cơ quan có thẩm quyền quan tâm về mặt này. Một nền pháp luật nhân đạo nhất là phải tìm cho ra yếu tố gỡ tội cho các bị cáo.

Trong trại giam, Nhung phát bệnh ung thư. Những ngày cuối cùng, chị mới được cho về trung tâm ung bướu thành phố Hồ Chí Minh chữa trị. Thấy chị không còn đủ khả năng bước đi nữa, người ta cũng không nỡ còng chị vào giường. Chị nhắn tin muốn gặp tôi. Tôi vào Trung tâm ung bướu gặp chị. Người chị đã sưng phù lên, cái bụng rất to. Chị nói trong nước mắt:

- Thưa ông, tôi muốn được tạ ơn ông. Tôi biết mình không còn sống được mấy ngày nữa nên mong được gặp ông, nói một lời. Tôi có ăn nói hỗn hào nhưng tôi và gia đình tôi không giết bà Mỹ. Tôi bị vu oan, bị đánh đập phải nhận tội. Mong ông tin cho điều đó. Tôi tạ ơn ông đã cố gắng cứu vớt gia đình tôi.

Chị Nhung được đưa về Tân Minh để chôn cất. Lần đầu tiên, trong cái xã thuần nông nghèo này mới có một đám ma ấm áp như vậy. Bà con nghèo đến viếng, kẻ đi năm ngàn đồng, người đi mười ngàn đồng. Ấy vậy, mà số tiền lên đến 14 triệu đồng. Cái đó là gì? Lòng thương xót cho một số phận hàm oan đau đớn.

Một biến cố khác xảy ra: Ông H bị lột cảnh tịch, đưa ra khỏi ngành vì dính dáng vào một đường dây tội phạm ma túy. Ông đi rồi nhưng hậu quả ông để lại khá lớn: Bốn người (trừ hai đứa bé vị thành niên đã được tha) trong vụ án vườn điều vẫn còn bị giam giữ. Luật sư Kim Anh cũng bị bệnh; chị không thể tiếp tục giúp đỡ bào chữa miễn phí cho các bị cáo. Vụ án còn vướng mắc ở nhiều nơi, nhiều góc độ. Buộc thì dễ, gỡ ra mới khó.

Năm 2004, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lần hai vụ án, tuyên hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ lại cho cơ quan điều tra Bộ Công an tiếp tục điều tra làm rõ. Các bị cáo Nguyễn Thị Tiền, Nguyễn Thị Tiến, Nguyễn Văn Sơn mãn hạn tù (theo án sơ thẩm) đương nhiên được tha về. Bà Nguyễn Thị Lâm vẫn còn bị giam giữ.

Cuối tháng 10-2005, một số nhân sĩ, trí thức, luật sư ở Hà Nội mở cuộc hội thảo về vụ án vườn điều. Cho đến hôm nay, điều mà bảy năm trước đây tôi đã nói với ông chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã trở thành một sự thật không thể nghi ngờ được nữa: Đây là một vụ án oan!

Tháng 12-2005, Viện Kiểm sát tối cao ra lệnh đình chỉ vụ án. Bà Lâm được trả tự do. Tính ra, bà đã ở tù đến bảy năm. Vụ án vườn điều làm cho gia đình bà tan nát: Hai đứa con chết, các cháu bơ vơ, phải bỏ học đi làm thuê làm mướn.

Các cơ quan pháp luật ở Bình Thuận lại phải làm một chuyện mà đáng lý ra họ đã tránh được từ đầu: Lo đền bù lại các thiệt hại về danh dự, tài sản, sức khỏe của bảy người bị oan sai trong vụ án theo Nghị quyết 388.

Có thể nói vai trò của luật sư Phạm Thị Kim Anh - người bào chữa cho các bị cáo ở phiên xét xử phúc thẩm lần thứ nhất, rất lớn. Nếu không có chị đưa ra những luận cứ vững chắc trong sự mâu thuẫn của hồ sơ vụ án và đề nghị tòa hoãn phiên xử thì e rằng tòa đã tuyên y án sơ thẩm đối với các bị cáo. Những luật sư đến sau đó chỉ làm cái công việc mà người đi trước đã mở ra sẵn. Và nhờ như vậy nên vụ án vườn điều mới được rút kinh nghiệm là vụ án oan sai.

HẾT