Chương 3.
Một con nhện nâu rơi ra dưới ánh nắng và bỗng chốc biến thành màu trắng.
Irina đã rời đi trước đó với Wesley và Nicky.
Sợi tơ nhện trắng lơ lửng giữa không trung.
“Bọn Nga các anh sao lại có thể hút thuốc trước khi ăn sáng được nhỉ?” Wesley hỏi.
Con nhện tung mình lên cái mạng trên cao ở góc phòng. Arkady thậm chí còn không nhận ra có mạng nhện ở đó - cho đến khi nó lấp lánh, nghiêng nghiêng trong ánh mặt trời buổi sáng. Nhện hẳn là những kẻ sùng bái mặt trời, hiển nhiên rồi.
“Em yêu anh,” Irina nói bằng tiếng Nga.
Con nhện tăng tốc và men theo sợi tơ của nó, mấy cái chân trước kéo đủ thứ hoa văn. Không ai thèm quan tâm khen ngợi, chúng thật là những kẻ cầu toàn.
Vì thế Arkady đã trả lời “Anh yêu em” bằng tiếng Nga.
Một con nhện Nga và một con nhện Mỹ khác nhau đến mức nào?
“Đi thôi, ngày trọng đại đấy,” Nicky nói vậy khi anh ta mở cửa.
Chúng có quay tơ cùng một hướng không? Có đánh răng như nhau không?
Điều đó khiến Arkady lo sợ.
Chúng có giao tiếp không?
Vỉa hè nhộn nhịp những đám đông ăn mặc đẹp đẽ. Mặt trời đứng sau lưng họ và đếm những giây phút dần trôi cho đến khi tất cả phải đi làm.
Irina đã ở New York bao lâu rồi? Arkady tự hỏi.
Tại sao cô ấy lại có ít quần áo trong tủ như thế?
Chắc ở Moscow tuyết đang rơi. Nếu họ cũng có vầng dương rực rỡ như thế này, hẳn mọi người đang ở trên bờ đê sẽ cởi trần, tắm nắng như đàn hải cẩu.
Bên kia đường, đám thợ sơn lại đến làm việc. Viên thư ký tầng trên lại nghe điện thoại, nói một hai từ rồi lại dập máy. Ở Moscow, điện thoại văn phòng là công cụ kỳ diệu được bang cung cấp để tám chuyện, nó hiếm khi được dùng để làm việc, nhưng lúc nào cũng bận.
Anh bật ti vi để che đậy âm thanh tạo ra khi thử mở khóa với cái kẹp tóc. Cái khóa này được làm rất tốt.
Tại sao lũ thợ sơn lại đóng cửa sổ khi làm việc chứ?
Trong vườn nhà thờ, mấy ông già trong bộ quần áo bẩn thỉu chia nhau cái chai một cách chậm chạp.
Ti vi chiếu toàn thuốc tẩy, chất khử mùi và aspirin. Thỉnh thoảng lại có vài đoạn phỏng vấn ngắn và bản ca kịch ngắn xen vào.
Khi Al mang đến một cái sandwich giăm bông và pho mát và cà phê, Arkady hỏi ông ta thích nhà văn Mỹ nào - Jack London hay Mark Twain? Al nhún vai. John Steinbeck hay John Reed? Nathaniel Hawthorne hay Ray Bradbury? Chà, đó là tất cả những nhà văn tôi biết, Arkady nói và Al rời đi.
Văn phòng vắng người vào giờ ăn trưa. Những nơi mặt trời chiếu xuống vỉa hè, một người sẽ dừng bước và lấy đồ ăn ra khỏi túi giấy. Arkady đẩy cửa sổ lên và nhoài ra ngoài. Bầu không khí lạnh lẽo thoảng mùi xì gà, khói xe và thịt rán.
Anh thấy người phụ nữ hôm trước trong bộ áo choàng giả lông đen trắng đi vào và ra khỏi khách sạn với ba người đàn ông khác.
Đám xe cộ qua lại, phát ra những âm thanh chát chúa, tiếng kéo lê, tiếng nâng và tiếng búa, như thể, ngoài tầm mắt, cả thành phố đang bị xé nát và những cái xe đang ngay lập tức được sản xuất một cách cẩu thả.
Những cái xe mang màu sắc nực cười, cứ như thể được một đứa trẻ tô vẽ nguệch ngoạc lên.
Nên xếp bọn đàn ông trong sân nhà thờ vào loại nào? Vật ký sinh của xã hội? Một “bộ ba” bợm nhậu? Bọn chúng uống cái gì ở đây nhỉ?
London viết về khai khẩn Alaska, Twain viết về nạn nô lệ, Steinbeck về biến vị kinh tế, Hawthorne về cuồng loạn tôn giáo, Bradbury về chủ nghĩa thực dân liên hành tinh và Reed viết về nước Nga Xô Viết. Chà, đó là tất cả những gì mình biết, Arkady nghĩ thầm.
Mọi người mang theo thật nhiều túi giấy. Họ không chỉ có tiền, mà còn có những thứ phải mua.
Anh tắm và mặc quần áo mới vào. Chúng vừa in, cực kỳ thoải mái và khiến đôi giày của chính anh trở nên thật xấu xí. Nicky và Rurik, theo anh nhớ, có đồng hồ Rolex.
Ngăn tủ quần áo có một quyển Kinh thánh. Còn ngạc nhiên hơn nữa là quyển danh bạ. Arkady xé những trang có thông tin của các tổ chức Do Thái và Ukraina, gấp lại và cất vào tất.
Đám cảnh sát da đen trong bộ cảnh phục nâu đang điều khiển giao thông. Cảnh sát da trắng trong cảnh phục đen đeo súng.
Irina đã che giấu hai tên tội phạm Kostia Borodin và Valerya Davidova. Cô có dính líu vào vụ án buôn lậu và phá hoại ngành công nghiệp ở cấp độ liên bang. Cô biết gã công tố viên ở Moscow từng là thành viên KGB. Điều gì đang chờ đợi cô ở Liên bang Xô Viết?
Taxi màu vàng. Đàn chim màu xám.
Rurik đến với món quà là những chai vodka mini - hắn gọi chúng là “chai hàng không”.
“Chúng tôi có một giả thuyết mới. Nhưng mà trước khi tôi nói,” hắn đưa tay lên, “tôi muốn anh biết tôi không thiếu nhạy cảm đâu. Tôi là người Ukraina giống như anh vậy. Tôi cũng lãng mạn. Để tôi thú nhận một điều. Mái tóc đỏ này của tôi, là của người Do Thái. Mẹ tôi là người cải đạo, bà ấy có hẳn một mái đầu đỏ rực. Thế nên tôi có thể nhận biết đủ dạng người. Tuy nhiên tôi có linh cảm rằng phi vụ đen tối này thực chất là một phần âm mưu phục quốc của bọn Do Thái.”
“Osborne có phải người Do Thái đâu. Anh đang nói cái gì vậy?” “Nhưng Valerya Davidova là con gái của một giáo sĩ Do Thái,” Rurik nói. “James Kirwill liên quan tới bọn khủng bố Do Thái, lũ đã bắn vào những thư ký vô tội trong vụ phái đoàn Xô Viết. Ngành bán lẻ lông và vải ở Mỹ cũng là độc quyền của bọn Do Thái, và chúng sẽ hưởng lợi khi da chồn zibelin được mang đến đây. Thấy liên quan chưa?”
“Tôi không phải người Do Thái, Irina cũng vậy.”
“Suy nghĩ đi,” Rurik nói.
Al gom đống chai mini.
“Tôi không phải KGB,” Arkady nói.
Al xấu hổ vì bị chọc vào chỗ hiểm. “Có thể thế mà cũng có thể không.”
“Tôi không phải.”
“Có gì khác nhau không?”
Hoàng hôn buông xuống, mấy văn phòng lại trống không mà Irina vẫn chưa quay lại. Ở nhà thờ giờ có dịch vụ đêm. Đám gái điếm đang bận đưa mấy gã trai vào khách sạn. Arkady nghĩ về lũ đàn bà và công việc của họ khi dòng chảy cuối cùng của cuộc sống đường phố chạm vào anh.
Trong vòng một tiếng đồng hồ, bóng đen trở thành những khoảng không bất khả xâm phạm giữa những cái đèn đường. Những hình thù trên đường xuất hiện như động vật đi đêm. Những cái đầu hóa thành tiếng opera của còi tầm.
Tại sao lúc đó Kirwill lại cười?
Arkady đã quen với đám điệp viên. Anh không thấy lạ khi kẻ mới đến mặc bộ com-lê sẫm màu, cà vạt cùng mũ ngụy trang và thấy nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng được phép ra khỏi phòng khách sạn. Không ai cản họ lại. Họ đi xuống bằng thang máy, đi bộ qua hành lang và về hướng tây trên đường Hai mươi chín và băng qua con phố số Năm đến chỗ một cái xe limousine tối màu. Cho đến khi Arkady tự ngồi vào ghế sau, anh mới nhận ra người đàn ông kia là tài xế. Nội thất xe được phủ nhung màu xám dịu, tài xế và hành khách được ngăn bởi một tấm kính.
Đại lộ Mỹ là một con đường tối tăm, vắng lặng, chỉ có ánh sáng phát ra từ cửa sổ các cửa hàng, cuộc sống sang chảnh của lũ ma-nơ-canh, trông huyền ảo như toàn thành phố trong chuyến đi đầu tiên ra khỏi khách sạn này. Ở đại lộ Bảy, họ rẽ về hướng nam và đi qua vài dãy nhà trước khi chiếc limousine rẽ vào một con phố rồi đến bãi đỗ xe. Tài xế cho Arkady xuống, dẫn anh vào một cái thang máy đang mở và ấn nút với ngón cái của gã. Thang máy chạy lên tầng bốn, họ bước vào hành lang sáng sủa có camera ở các góc. Cánh cửa cuối hành lang hé mở.
“Anh đi một mình,” tay tài xế nói.
Arkady bước vào một căn phòng làm việc dài và tối mờ mờ. Bàn phân loại chạy dài khắp căn phòng, và khi mắt anh đã quen với bóng tối, những cái giá treo thứ trông như quần áo hay giẻ rách hóa ra là một đống lông. Chắc là có cả trăm cái giá, hầu hết được treo những tấm da mỏng, tối màu - lông chồn zibelin hay chồn vizon - cùng từng đống da sống lớn hơn, đã được dát phẳng - theo anh thấy thì chắc là da mèo rừng hoặc da sói. Mùi hăng của axit tanic bốc lên và trên mỗi cái bàn trắng là một cái đèn huỳnh quang bé. Giữa căn phòng, cái đèn vụt sáng và John Osborne ở đó, đang đặt một tấm da lên bàn.
“Anh có biết là vài người Bắc Triều Tiên bán lông không?” hắn hỏi Arkady. “Da chó và da mèo. Những thứ con người sẽ mua đáng kinh ngạc lắm đấy.”
Arkady bước dọc lối đi về hướng cái bàn.
“Chà, bản thân tấm da này đáng giá khoảng một ngàn đô la đấy,” Osborne nói. “Da Barguzhinsky, mà hẳn anh cũng đoán ra rồi, anh chắc đã thành chuyên gia về da. Đến gần hơn đi, anh sẽ thấy những đốm lấm tấm trên lông đấy.” Hắn chải ngược lông trên bộ da cứng, và rồi nâng lên một khẩu tự động và nhắm vào Arkady. “Đủ gần rồi đó. Nó sẽ trở thành tấm áo choàng tuyệt đẹp, dài chắc đến cả sáu mươi bộ da.” Hắn lại vuốt ve bộ lông với khẩu súng. “Mà mua da chó với da mèo thì khác gì nhau nhỉ?”
“Chắc ông rõ hơn tôi mà.” Arkady dừng lại khi còn cách Osborne một cái bàn.
“Thế thì nghe tao nói đây” - gương mặt Osborne chìm trong bóng của cái đèn - “vì tòa nhà này và hai dãy nhà xung quanh là khu chợ lông lớn nhất thế giới. Nên tao nói cho mày biết, không thể so sánh nổi cái này,” hắn lắc bộ lông bóng mượt “và một bộ da mèo hơn là giữa Irina và một ả đàn bà bình thường đâu, hoặc giữa mày và một gã người Nga bình thường.” Hắn vặn to đèn và Arkady phải giơ tay lên để mắt không bị lóe. “Trông mày ngon đấy, điều tra viên ạ - rất bảnh trong bộ com-lê đàng hoàng. Tao thật lòng mừng là mày vẫn còn sống đấy.”
“Ông thật lòng ngạc nhiên là tôi vẫn còn sống.”
“Cả ngạc nhiên nữa, tao thừa nhận.” Osborne hạ đèn xuống. “Mày từng nói mày sẽ trốn khỏi tao, mày có thể lẩn trốn dưới sông Moskva và tao vẫn sẽ đến mò ra mày. Tao đã không tin mày, nhưng mày nói đúng đấy.”
Osborne để khẩu súng lại trên bàn khi hắn châm một điếu xì gà. Arkady gần như đã quên hết bóng đêm Ả Rập, dáng dấp thon thả và mái tóc bạch kim. Và, dĩ nhiên, khảm vàng trên hộp xì gà và bật lửa, cái nhẫn, dây đồng hồ và măng sét, ngọn lửa màu hổ phách rực lên trong đôi mắt và nụ cười rạng rỡ.
“Ông là kẻ sát nhân,” Arkady nói. “Tại sao người Mỹ lại muốn ông gặp tôi?”
“Vì bọn Nga để tao gặp mày.”
“Sao họ lại cho ông làm vậy?”
“Mở to mắt ra đi,” Osborne nói. “Mày nhìn thấy gì?”
“Lông”
“Không chỉ lông đâu. Chồn vizon xanh, chồn vizon trắng, cáo xanh, cáo bạc, cáo đỏ, chồn ecmin, linh miêu, cừu karakul. Và da chồn zibelin trại Barguzin. Số lông trong phòng này đáng giá hơn hai triệu đô la đấy và còn có hơn năm mươi phòng như thế này dọc đại lộ Bảy. Đây không phải vấn đề giết người, nó là vì chồn zibelin và luôn là vậy. Tao không muốn giết thằng bé Kirwill, Kostia và Valerya. Sau khi chúng đã giúp tao rất nhiều, tao cũng sẽ rất vui lòng nếu chúng có thể tiếp tục sống bình yên ở nơi nào đó trên Trái Đất. Nhưng mày sẽ làm gì? Thằng bé Kirwill cứ đòi nổi tiếng, nó có một nỗi ám ảnh được kể câu chuyện chuyến trở về New York đầy vinh quang cho cả thế giới. Chắc nó sẽ không kể về những con chồn zibelin trong buổi họp báo đầu tiên, nhưng chắc chắn sẽ kể trong buổi thứ mười. Tao đang chống lại sự độc quyền lớn nhất thế giới, tao đã mất hàng năm liền cố gắng và đầy rủi ro, tao có nên đẩy bản thân vào nguy hiểm chỉ vì tính ba hoa của một thằng cuồng đạo không? Có gã điên nào lại làm thế? Tao thừa nhận tao cũng không ngại xử lý Kostia. Không, nó sẽ tống tiền tao ngay khi đến đây. Tao chỉ tiếc Valerya.”
“Ông đã lưỡng lự?”
“Đúng.” Osborne vui vẻ đáp. “Tao đã do dự trước khi bắn cô ta, mày nói đúng đấy. Lời tự thú đó làm tao thèm ăn. Kiếm miếng gì ăn thôi.”
Họ đi thang máy xuống và thấy chiếc limousine đang đợi trong bãi đỗ xe. Chiếc xe đưa họ đến hướng bắc trên đại lộ Mỹ. Nhộn nhịp hơn hẳn Moscow vào giờ này, New York vẫn chưa đi ngủ, Arkady cảm nhận được điều đó trong dòng xe cộ dài nối đuôi nhau. Trên đường Bốn mươi tám, hai bên đại lộ là những tòa văn phòng bằng kính, không như ở Kalinin Prospekt.
Xe dừng lại ở đường Năm mươi sáu, Osborne đưa Arkady vào một nhà hàng, nơi một nữ phục vụ chào Osborne bằng tên và dẫn họ vào một lối đi trải thảm nhung đỏ. Trên mỗi bàn đều có hoa ly mới cắt và hàng tá những chùm hoa trong hốc tường, tranh sơn dầu của các nhà họa sĩ theo trường phái Ấn Tượng Pháp treo trên tường, đèn chùm pha lê bên trên, khăn trải bàn màu hồng và đội trưởng xum xoe. Những thực khách khác là các ông già mặc com-lê kẻ sọc và phụ nữ trẻ với khuôn mặt bóng loáng. Arkady vẫn có chút hy vọng Wesley hoặc cảnh sát sẽ ập vào nhà hàng và bắt Osborne. Osborne hỏi Arkady có muốn uống không, Arkady từ chối và Osborne gọi một chai Corton-Charlemagne 76. "Arkady có đói không?" Arkady lại nói không, một lời nói dối và Osborne gọi một đĩa cá hồi muối nướng với nước sốt thì là và khoai tây chiên cho chính hắn. Chỉ riêng bộ đồ ăn bằng bạc ở trên bàn thôi đã đủ hào nhoáng. Mình nên đâm con dao kia qua tim hắn, Arkady nghĩ.
“Dân di cư Nga tràn qua New York, mày biết chứ,” Osborne nói. “Họ viết là sẽ đến Israel, nhưng ở Rome họ lại rẽ phải và đến đây. Tao cũng giúp một chút, nhiều hết mức có thể, cuối cùng, vài người trong đám biết một chút về lông. Nhưng chỉ vài đứa thôi, tao không thể làm gì. Ý tao là những kẻ làm bồi bàn ở Nga. Mày biết ai sẽ thuê một bồi bàn Nga không?”
Rượu có màu vàng kim. “Mày chắc là không uống chứ? Dẫu sao, cũng có nhiều dân di cư hơn mức cần thiết. Buồn thay, phần lớn bọn chúng, ứng viên của viện khoa học Xô Viết, những kẻ đang quét sảnh trường học hoặc tranh nhau mấy công việc dịch thuật rác rưởi. Chúng sống ở Queens và New Jersey trong những căn nhà nhỏ và mấy cái ô tô to đùng mà chúng còn không đủ khả năng chi trả. Dĩ nhiên ai có quyền lên án, chúng đang làm hết sức có thể. Có phải ai cũng là Solzhenitsyn đâu. Tao muốn nghĩ là tao đã làm gì đó để truyền bá văn hóa Nga trên cái nước này. Tao tài trợ rất nhiều chương trình giao lưu văn hóa, mày biết đó. Ba lê Mỹ thì là cái quái gì nếu không có vũ công người Nga chứ?”
“Những vũ công bị ông khai với KGB thì sao?” Arkady hỏi.
“Nếu tao không khai thì đám bạn chúng nó cũng khai thôi. Đó là điều kỳ diệu ở Nga đấy, ai cũng sẵn sàng khai báo, ngay từ khi còn đi mẫu giáo. Ai cũng có đôi tay bẩn thỉu. Họ gọi đó là ‘cảnh giác’. Tao thích thế. Dẫu sao, đó là cái giá phải trả. Nếu tao muốn quảng bá tiếng tăm và sự thấu hiểu bằng cách đưa nghệ sĩ Liên Xô sang Mỹ, Cục Văn hóa muốn tao báo cáo xem tao đem đến những ai, tao cũng phải thông báo xem có đứa nào có vẻ là kẻ đào ngũ không, nhưng nhìn chung tao cố tống khứ càng nhiều vũ công tệ càng tốt. Tiêu chuẩn của tao cao mà. Hẳn là tao có tác động tích cực đến những vũ điệu Xô Viết.”
“Tay ông không bẩn mà nó vấy máu.”
“Làm ơn đi, đang ngồi ăn đấy.”
“Thế kể tôi nghe tại sao FBI Mỹ lại cho ông, một tên sát nhân, kẻ làm chỉ điểm cho KGB, đi lại quanh thành phố này và còn đến đây ăn nữa.”
“Ồ, tao ngưỡng mộ trí thông minh của mày đấy, điều tra viên. Thử nghĩ một giây đi. Tao nghĩ mày sẽ hiểu.”
Những cuộc trò được xoay quanh bởi khăn trải bàn, những bông hoa và tiếng lọc cọc của xe bánh ngọt. Osborne tự tin ngồi đợi Arkady suy nghĩ. Cuối cùng anh cũng hiểu, ban đầu còn lờ mờ, sau đó rõ ràng hơn, và Arkady bị sốc bởi cái logic rõ ràng và sự đối xứng rõ ràng đó, như mắt con hươu khi nhìn thấy một con sư tử ẩn mình trong bóng đêm dần bước ra dưới ánh mặt trời. Khi anh mở miệng, mọi niềm hy vọng cuối cùng đã tắt ngúm.
“Ông là chỉ điểm cho FBI,” Arkady nói khi đã hiểu rõ ràng. “Ông chỉ điểm cho cả KGB và FBI.”
“Tao biết là mày chứ không ai khác sẽ phát hiện ra mà.” Osborne mỉm cười ấm áp. “Tao có ngu đâu mà chỉ điểm cho KGB mà không chỉ điểm cho sở? Đừng thất vọng, thế cũng không làm nước Mỹ tệ hơn Nga đâu. Tình cờ đó lại là cách sở vận hành thôi. Thường thì sở sẽ dựa vào lũ tội phạm, nhưng tao hiếm khi dính dáng đến mấy hoạt động đó. Tao chỉ phát tán tin đồn thôi. Tao biết sở sẽ thích mấy trò này vì tin đồn cũng được ưa chuộng ở Moscow. Sở thậm chí còn thèm khát nó hơn. Hoover sợ mắc sai lầm đến nỗi lão đã ra khỏi cái ngành theo dõi bọn Nga mười năm rồi. KGB có một gã trong hồ sơ tổng của sở và Hoover còn không dám xóa nó đi vì sợ tin tức lan ra. Tao đã nói rõ là chỉ làm việc với văn phòng New York của sở. Cũng như các tổ chức quốc gia khác, những gã giỏi nhất luôn ở New York, và cảm động thay chúng thuộc tầng lớp trung lưu, sẵn lòng giao du với tao. Mà sao lại không chứ? Tao có phải thằng cha sát thủ nào của Mafia đâu, tao cũng chả đòi tiền. Thực tế, bọn chúng luôn biết chúng có thể tìm đến tao xin giúp đỡ khi chúng gặp khó khăn tài chính. Tao cho chúng những cái giá tốt không tưởng để bọn chúng mua áo choàng cho vợ.”
Arkady chợt nhớ lại cái áo lông mèo rừng và mũ lông chồn mà Osborne đã đưa mình.
“Tao cũng yêu nước như gã kia thôi,” Osborne nói và gật đầu với mấy người ngồi ở bàn phía sau Arkady. “Hoặc giả, nếu gã kia hóa ra là chủ tịch một công ty hạt đã thiết lập một nhà máy chưng cất giả ở Osaka mà sẽ đưa hạt đến cảng Thái Bình Dương của Xô Viết thì tao thậm chí còn yêu nước hơn gã.”
Đĩa cá hồi muối nướng được bày ra trước mặt Osborne, cạnh đó là một đĩa khoai tây sợi mỏng như món khoai tây thái của Nga. Arkady đang rất đói.
“Mày chắc là không muốn ăn chung với tao chứ?” Osborne hỏi. “Ngon tuyệt đấy. Ít ra cũng uống chút rượu nhé? Không à? Lạ lùng ghê,” hắn tiếp tục nói khi đang ăn, “hồi trước đứa Nga nhập cư nào đến Mỹ cũng mở nhà hàng. Bọn chúng phục vụ toàn đồ ngon - thịt bò Stroganov, gà Kiev, bánh paskha, bánh blini, trứng cá caviar, cá tầm nấu đông. Nhưng mà đó là năm mươi năm trước kia. Lũ nhập cư mới chả biết nấu nướng quái gì, chúng thậm chí còn không biết đồ ngon có vị như thế nào.”
Osborne lấy cà phê và bánh tart từ xe bánh ngọt. Món tráng miệng phủ đường và kem.
“Mày không ăn miếng nào à? Cựu công tố viên của mày, Andrei Iamskoy, chắc ngấu nghiến hết cả cái xe tải.”
“Hắn là một gã tham lam,” Arkady nói.
“Chính xác. Tất cả đều do hắn làm, mày biết đấy. Bao năm nay, tao đã trả lại cho hắn vì cái này hay cái khác - những lời giới thiệu, sự thiếu thận trọng nhỏ, kể từ lúc chiến tranh. Hắn biết tao sẽ không quay về Liên bang Xô Viết và quyết định đòi luôn một thể, đó là lý do hắn dẫn mày đến gặp tao trong cái phòng tắm. Tao khiến mày lơ là, hắn lại thúc mày tiếp tục. Mày cũng không cần được động viên quá nhiều. Hắn nói mày là một điều tra viên bị ám ảnh và hắn đúng. Một gã xuất sắc, Iamskoy, nhưng tham lam, như mày nói đấy.”
Họ rời nhà hàng và đi lên đại lộ, chiếc limousine của Osborne vẫn giữ khoảng cách phía sau, như lúc cái limousine theo đuôi họ trên bờ đê Moskva. Qua vài dãy nhà, họ đến hai bức tượng kỵ sĩ đang cưỡi ngựa lồng lên ở cổng công viên. Công viên trung tâm, Arkady tự nhủ. Họ tiến vào, chiếc limousine vẫn theo sau, vài bông tuyết còn đọng trên đèn pha. Chúng sẽ giết anh trong công viên này sao? Arkady tự hỏi. Không, nếu thế thì dùng phòng làm việc của Osborne còn dễ hơn. Một cỗ xe ngựa kéo được sơn sáng màu lộ ra trong ánh đèn kiểu cũ. Arkady hút thuốc để xua đi cơn đói.
“Cái thói quen Nga xấu xa.” Osborne tự châm một điếu xì gà. “Đó sẽ là cái chết của chúng ta. Mày biết sao hắn ghét mày không?”
“Ai kia?”
“Iamskoy.”
“Công tố viên? Tại sao ông ta lại ghét tôi?”
“Cái gì đó liên quan đến vụ kháng cáo lên tòa án Tối cao nơi mà hắn thấy hình ảnh của mình trong Pravda.”
“Vụ kháng cáo Viskov,” Arkady nói.
“Chính vụ đó. Nó hủy hoại hắn. Bọn KGB không đưa một trong đám tướng của chúng lên làm công tố viên Moscow để hắn bắt đầu công khai quyền của các bị cáo. Dẫu sao, KGB cũng như bao sở khác và một gã quyền lực, đặc biệt là một ngôi sao đang lên, có những kẻ thù cũng đầy quyền lực. Mày cho chúng đúng thứ vũ khí chúng cần, Iamskoy đang phỉ báng công lý của Xô Viết, chúng nói thế, hay là truyền bá sự tôn sùng cho chính hắn, hoặc là bị thần kinh. Sẽ có hẳn một chiến dịch lớn đấy. Vụ kháng cáo đó hủy hoại hắn, và mày đã đẩy hắn vào đó.”
Trong công viên Trung tâm, cựu điều tra viên đã hiểu tại sao gã công tố viên Moscow đã chết lại ghét anh. Tuy nhiên những điều Osborne nói có vẻ đúng. Anh nhớ lại cuộc trò chuyện trong phòng tắm với Iamskoy và viên thư ký của công tố viên trưởng và viện sĩ và công lý. Những tín hiệu về chiến dịch chống lại chủ nghĩa Vronsky sắp tới được nhắm vào Iamskoy, không phải Arkady!
Anh nghe nhạc rock và qua những tán cây, mắt anh tìm thấy ánh đèn sặc sỡ của một sân trượt băng cách đó không xa. Anh có thể nhìn thấy chuyển động trên băng.
Những bông tuyết lơ lửng quanh đèn và trong tia sáng. Một cái bóng đồng thau chào Arkady từ cái bệ.
“Tao sẽ nói cho mày biết tại sao tao thích tuyết,” Osborne nói. “Tao chưa kể cho ai bao giờ. Tao yêu nó vì nó giấu đi những kẻ đã chết.”
“Ý ông là ở công viên Gorky.”
“Ồ, không. Ý tao là ở Leningrad. Hồi tao mới đến Liên bang Xô Viết, tao là một gã trai trẻ giàu lý tưởng. Đúng thế, như thằng bé Kirwill ấy, thậm chí còn khiếp hơn. Không ai làm việc chăm chỉ hơn để khiến chương trình vay-mượn Lend-Lease thành công đâu. Bề ngoài tao là người Mỹ, tao phải đuổi kịp lũ Nga, phải làm nhiều hơn nữa, chỉ ngủ bốn tiếng mỗi đêm, suýt chết đói hàng tháng trời, chỉ cạo râu và mặc quần áo sạch khi đi Moscow đến điện Kremlin để tao có thể van xin, cho phép tao thêm chút thức ăn và dược phẩm vào cái xe tải mà chúng tao đang cố đưa vào Leningrad. Sáu trăm ngàn người Leningrad chết, nhưng thành phố không sụp đổ. Đó là một trận chiến từ căn nhà này sang căn nhà kia, bọn tao có thể mất một con phố vào buổi sáng và chiếm lại nó vào ban đêm. Hoặc lấy lại nó sau một năm nữa và tìm thấy đám xác chết từ tận năm trước. Mày sẽ học cách trân trọng lớp tuyết dày. Khi loạt đạn ngừng, chúng sẽ nói chuyện với nhau bằng loa. Cái loa Nga bảo bọn Đức bắn binh lính của mình, cái loa Đức lại xúi bọn Nga bắn lũ trẻ con. ‘Bắn chúng còn hơn bắt chúng chết đói. Đầu hàng đi, giơ súng đầu hàng và bọn tao sẽ cho chúng mày ăn gà,’ đám Đức nói vậy. Hoặc ‘Andrei này nọ ơi, hai con gái của anh đã bị bọn hàng xóm Xô Viết ăn thịt rồi đấy’. Câu này xúc phạm tao ghê gớm vì tao là người chịu trách nhiệm đem thức ăn vào thành phố. Bọn Đức cười nhạo chúng tao. Chúng có cả ngàn câu chuyện về những cái xác chúng thấy trên đường tìm vào thành phố. Chúng đặc biệt cười vào mũi tao. Chúng tò mò về thằng cha Mỹ đã nuôi sống bọn Nga. Chúng hỏi rằng thứ nuôi sống một triệu con người có phải chính là một phần nhỏ mà chúng đánh rơi từ máy bay hay lọt qua xe trượt tuyết không? Chúng cười rú lên. Tao còn nghĩ ra cái gì khả dĩ hơn nữa? Chúng hỏi không phải tao đã có câu trả lời rồi sao? Tao biết là có, rồi tao giết bọn sĩ quan Đức. Nhưng tao đã có câu trả lời.”
Họ ra khỏi công viên và đi vào phố số Năm, một đường phân cách giữa công chúng và người giàu. Đèn chùm tỏa sáng trong các ô cửa sổ, nhân viên trực cửa đứng dưới vòm. Chiếc limousine men vào một con ngõ để đợi khi Osborne đưa Arkady vào tòa nhà gần nhất. Một nhân viên thang máy mặc đồng phục đưa họ lên tầng mười lăm, nơi chỉ có một cánh cửa. Osborne mở khóa và ra hiệu cho Arkady đi vào.
Ánh sáng lọt qua khung cửa sổ đủ để Arkady nhìn thấy anh đang đứng trong tiền sảnh của một căn hộ lớn. Osborne ấn vào công tắc đèn nhưng chả có gì xảy ra. “Hôm nay, bọn thợ điện đã đến đây,” hắn nói. “Tao đoán chúng chưa xong việc.”
Arkady tiến vào căn phòng có bàn ăn dài với chỉ hai cái ghế, lướt qua cái tủ với những ngăn trống không đang mở ra, rồi đến phòng làm việc với cái ti vi vẫn nằm nguyên trong hộp và vài cái đèn trần bị dỡ xuống từ bức tường. Anh đếm được tám phòng, tất cả đều trơ trụi trừ cái thảm và cái ghế như là dấu hiệu báo trước điều gì. Còn có một mùi hương rất quen thuộc.
Anh lùi về phòng khách, nơi cái cửa sổ hai cánh nhìn ra công viên bên dưới, trông còn đẹp hơn khi nhìn từ trên cao. Anh nhìn thấy vẻ đen thẫm của những ao hồ và sân trượt băng hình oval màu trắng. Công viên được bao quanh bởi những căn hộ và khách sạn, bên trên là những đám mây.
“Mày thấy nó thế nào?” Osborne hỏi.
“Hơi trống trải.”
“Chà, ở New York, cảnh vật mới là quan trọng nhất.” Osborne lấy thêm một điếu xì gà từ trong hộp. “Tao đã bán mấy cái thẩm mỹ viện ở Paris rồi. Tao phải đầu tư vào chỗ khác và thêm một căn hộ ở đây cũng tuyệt. Thành thật mà nói, châu Âu đơn giản là không an toàn cho tao. Đó là cái khó khăn nhất của một thương vụ - đảm bảo an toàn cho thân thể.”
“Thương vụ nào?”
“Chồn zibelin đấy. May là tao đã trộm được một thứ đáng trả lại.”
“Bọn chồn zibelin đang ở đâu?”
“Trại lông ở Mỹ chỉ yếu ở quanh Ngũ Đại Hồ. Nhưng có lẽ tao nói dối, có thể tao có chồn zibelin ở Canada nữa. Canada là nước lớn thứ hai thế giới, chắc chúng sẽ mất không ít thời gian để tìm đâu. Hay có lẽ tao có ở Maryland với Pennsylvania, có vài cái trại ở đó. Vấn đề là vào mùa xuân tao sẽ có hàng đống chồn con, được nhân giống với chồn Barguzhinsky, và sẽ có thêm nhiều chồn zibelin nữa. Đó là lý do bọn Nga phải trao đổi ngay bây giờ.”
“Sao lại kể với tôi?”
Osborne đến bên cửa sổ với anh. “Tao có thể cứu mày,” hắn nói. “Tao có thể cứu mày và Irina.”
“Ông đã cố giết cô ấy.”
“Đó là Iamskoy và Unmann.”
“Ông đã cố giết cô ấy hai lần,” Arkady nói. “Tôi đã ở đó.”
“Mày từng là một người hùng, điều tra viên ạ. Không ai muốn tước đoạt nó khỏi mày cả. Dù sao chính tao đã đưa mày đến trường đại học để cứu Irina mà.”
“Ông dẫn tôi đến đó để bị giết.”
“Và chúng ta đã cứu cô ấy, cả mày và tao.”
“Ông giết ba người bạn của cô ấy ở công viên Gorky.”
“Còn mày thì giết ba người bạn của tao,” Osborne nói.
Arkady thấy ớn lạnh, cứ như cửa sổ đang mở vậy. Osborne không điên, mà cũng không phải con người. Nếu tiền có thể sản sinh ra xương và thịt, nó sẽ tạo ra Osborne. Nó vẫn mặc bộ đồ len, nó vẫn xẻ mái tóc hoa râm như thế, nó vẫn mang cái mặt nạ gầy gò với vẻ vui thú tột cùng. Họ ở trên cao so với mặt đường. Anh có thể giết Osborne, không nghi ngờ gì nữa. Anh sẽ không phải nghe thêm lời nào nữa.
Như thể Osborne đọc được suy nghĩ của Arkady, hắn lại lấy súng ra. “Chúng ta phải tha thứ cho nhau. Thối nát là một phần của chúng ta, bản chất của chúng ta. Nó vốn dĩ có sẵn trong Iamskoy, Cách mạng Nga hoặc không có cách mạng nào hết. Nó có sẵn trong mày và tao nữa. Nhưng mày vẫn chưa thấy hết căn hộ này đâu...”
Arkady đi trước, họ cùng sải bước trên hành lang đến một căn phòng anh chưa từng vào trước đó, và những cửa sổ ở đây cũng nhìn ra công viên. Có một bàn làm việc và một tấm gương, một ghế, bàn cạnh giường và một cái giường lớn, chưa được sắp xếp. Mùi hương anh nhận ra khi lần đầu tiên bước vào căn hộ càng tỏa ra rất rõ ở đầy.
“Mở ngăn thứ hai của bàn làm việc đi,” Osborne nói.
Arkady làm theo. Đặt gọn gàng trong tủ là quần lót và bít tất mới của đàn ông. “Vậy là sẽ có ai đó chuyển vào,” Osborne nói.
Osborne chỉ vào cánh cửa trượt của tủ đồ. “Mở cái cửa bên phải đi.”
Arkady trượt mở cánh cửa. Treo trên giá là một tá áo khoác và quần mới. Dù đèn lờ mờ, anh vẫn nhìn thấy chúng, y hệt bộ quần áo mà anh đang mặc. “Tội gì mà không lấy thêm, đúng không.” Osborne nói.
Arkady mở cánh cửa kia. Nó đầy váy, áo choàng, khăn tắm và hai cái áo lông, đáy tủ chứa giày và bốt phụ nữ.
“Mày sẽ chuyển vào đây,” Osborne nói, “mày và Irina. Mày sẽ làm việc cho tao và tao sẽ trả mày hậu hĩnh - còn hơn cả hậu nữa. Căn hộ đứng tên tao, nhưng tiền nhà và tiền bảo dưỡng năm đầu tiên đã được trả rồi. Bất cứ gã New York nào cũng rất sung sướng được đổi chỗ với mày đó. Mày sẽ có một cuộc đời mới.”
Cuộc hội thoại này thật không tưởng, Arkady nghĩ, có điều gì đó không hợp lý.
“Mày muốn Irina được sống chứ?” Osborne hỏi. “Giao dịch là vậy: chồn zibelin đổi lấy Irina và mày. Irina vì tao muốn, và mày vì cô ta sẽ không đến mà không có mày.”
“Tôi không định chia sẻ Irina với ông đâu.”
“Mày đang xài chung với tao rồi,” Osborne nói. “Mày xài chung với tao hồi ở Moscow và cho đến tận bây giờ từ lúc mày đến đây. Tao ở trên giường nó sáng hôm đó lúc mày nói chuyện với nó ngoài căn hộ. Nó ngủ với mày đêm qua và với tao trưa nay.”
“Ở đây?” Arkady nhìn chằm chằm vào tấm ga trải giường nhăn nhúm bừa bộn.
“Mày không tin tao,” Osborne nói. “Thôi nào, mày vốn là điều tra viên giỏi mà, sao lại ngạc nhiên đến thế. Sao mà tao gặp được James Kirwill nếu không có Irina? Hay Valerya hoặc Kostia. Và mày không thấy lạ là tao và Iamskoy không tìm thấy hai đứa mày khi bọn mày đang trốn trong phòng mày à? Bọn tao có cần tìm đâu, nó gọi tao từ căn hộ của mày. Mày nghĩ sao tao tìm được nó khi mày đến biên giới Phần Lan? Nó tự dẫn xác đến gặp tao đấy chứ. Mày không tự hỏi những câu đó à? Vì tự bản thân mày đã có câu trả lời rồi. Tao đã thú nhận rồi đấy, đến lượt mày đi. Nhưng mày không thích thế đúng không? Cuối cuộc điều tra, mày chỉ muốn tìm ra con quái vật và những xác chết được phân loại. Chúa ngăn không cho mày tự tìm ra. Mày sẽ học cách sống với chính mình, tao thề đấy. Bọn Nga sẽ quẳng mày và Irina vào cái danh sách Do Thái, chúng làm thế để loại bỏ những rắc rối không cần thiết.”
Osborne đặt khẩu súng lên bàn. “Tao không muốn mày ở đây, nhưng Irina sẽ không đến mà không có mày. Điều đó khiến tao điên tiết. Tất cả những gì nó muốn chỉ là được ở đây và sau đó nó lại đe dọa đòi quay về. Giờ thì tao mừng là mày ở đây, mọi thứ thật trọn vẹn.” Hắn mở tủ bàn và lấy ra một chai Stolichnaya với hai cái ly. “Tao sẽ tìm ra sự hấp dẫn của tình huống này. Còn ai có thể hiểu nhau hơn kẻ sát nhân và điều tra viên của hắn chứ? Nhiệm vụ của mày chính là làm sáng tỏ vụ án, mày phải điều tra ra tên tội phạm. Mày tưởng tượng ra tao trong tâm trí trước cả khi chúng ta gặp nhau và khi tao chạy trốn khỏi mày, mày lại làm tao ám ảnh. Chúng ta đã luôn là đồng phạm.”
Hắn rót vodka tới tận miệng cốc, dòng chất lỏng nhẹ nhàng dâng lên, rồi đưa ly cho Arkady.
“Và còn tên sát nhân và điều tra viên nào có thể thân thiết hơn hai gã đàn ông cùng chia sẻ một ả đàn bà chứ? Chúng ta cũng là đồng phạm trong tình yêu.”
Osborne nâng ly của hắn lên. “Vì Irina.”
“Tại sao ông lại giết những người ở công viên Gorky?”
“Mày biết tại sao mà, mày phá vụ đó còn gì.” Osborne vẫn chưa hạ ly xuống.
“Tôi biết ông ra tay như thế nào, nhưng tại sao?”
“Vì chồn zibelin, như mày biết đấy.”
“Tại sao ông lại muốn những con chồn của chính ông chứ?”
“Vì tiền. Mày biết hết mà.”
“Ông đã có rất nhiều tiền rồi.”
“Để có nhiều hơn.”
“Chỉ nhiều hơn?” Arkady hỏi. Anh đổ rượu trong ly xuống thảm buồng ngủ, vẽ một hình xoắn ốc bằng rượu vodka. “Thế thì ông không phải là một gã nhiều đam mê rồi, ngài Osborne ạ, ông chỉ là một con buôn sát nhân. Ông là thằng ngốc, ngài Osborne ạ. Irina bán thân cho ông và dâng hiến cho tôi. Một con buôn chỉ nên khao khát bộ da, đúng chứ? Ông phải biết cách lột da chứ. Bọn tôi sẽ sống ở đây bằng tiền của ông và cười vào mặt ông. Và ai biết lúc nào bọn tôi sẽ biến mất? Lúc đó ông sẽ không có chồn zibelin, không Irina, chả gì sất.”
“Thế nghĩa là mày đồng ý với đề nghị của tao.” Osborne nói. “Hôm nay là thứ Tư. Vào thứ Sáu, bọn Nga và tao sẽ trao đổi - mày và Irina lấy chồn zibelin. Mày cho phép tao cứu mày chứ?”
“Được,” Arkady nói. Còn sự lựa chọn nào khác? Chỉ Osborne có thể cứu Irina. Một khi được an toàn, họ sẽ chạy trốn. Nếu Osborne cố cản họ, Arkady sẽ giết hắn.
“Thế thì nâng chén vì mày nào,” Osborne nói. “Tao mất một năm ở Leningrad để nhận ra con người dám làm những gì để tồn tại. Mày mới ở đây hai ngày và mày đã trở thành một người hoàn toàn khác. Thêm hai ngày nữa là mày thành người Mỹ.” Hắn uống cạn chén rượu. “Tao mong chờ tương lai quá,” hắn nói. “Có bạn thật tốt.”
Chỉ còn lại một mình trong thang máy, lòng Arkady trĩu nặng dưới sức ép của sự thật. Irina là một con điếm. Cô đã ngủ với Osborne và chỉ Chúa mới biết cô đã ăn nằm với bao nhiêu thằng để có thể đến đây. Nói dối Arkady, dối trá với những nụ hôn và lời bao biện - bỡn cợt và biến anh thành thằng ngốc. Còn tệ hơn nữa, anh đã biết. Anh đã biết ngay từ đầu, từng lúc một, biết rõ hơn khi anh yêu cô nhiều hơn nữa. Giờ thì cả hai đều như nhau. Anh trong bộ quần áo mới, không còn là điều tra viên trưởng, cũng không còn là tội phạm - thế anh là cái gì? Ba cái xác trong công viên Gorky. “Còn chúng thì sao?” Osborne đã hỏi thế. Còn Pasha thì sao? Anh đau đớn nghĩ đến những sự gian dối mà anh đã phạm phải. Lần đầu tiên để Pribluda có thể tiếp quản. Lần thứ hai để anh có được Irina và vụ cuối cùng để Osborne có được cô.
Cửa thang máy mở ra và anh đi qua hành lang. Ta là cộng sự của Osborne, anh tự trả lời. Ngay khi anh ra đến vỉa hè, chiếc limousine xịch đến. Anh mù quáng chui vào, chiếc xe đi về phía nam, hướng khách sạn.
Nhưng anh vẫn yêu cô. Anh có thể quay lưng lại với những xác chết ở công viên Gorky. Cô đã làm một con điếm để đến Mỹ, và anh cũng sẽ làm tương tự để cô ở lại. Khách sạn Barcelona thật hợp với một cặp đôi như vậy. Anh lăn đầu trên ghế. Những bông tuyết run rẩy trên cái bóng cửa sổ đang lay động. Đừng hỏi gì, cô đã van xin anh như thế, để anh không hỏi câu nào và khiến tâm trí anh trống rỗng. Cô còn bao nhiêu tủ đồ nữa? Cô đã ở New York bao lâu rồi?
Anh bình tĩnh trở lại. Anh chưa bao giờ suy sụp. Anh chưa bao giờ nói. Nhưng KGB và FBI và những người khác đều biết về Irina và Osborne. Còn ai ở đó ngoài Irina để kể cho chúng biết nữa. Và trước đó nữa. Cô đã ngủ với Osborne bao nhiêu năm nay rồi? Không, chắc không còn gã nào khác. Osborne quá tự cao để cho phép điều đó xảy ra.
Ở Broadway, họ đi qua tấm bảng phim có con khỉ đang cười. “Diễn trực tiếp!”, một tấm biển đề. Một người phụ nữ da đen đội tóc giả vàng, một người phụ nữ đội tóc giả đỏ và một gã trai đội mũ cao bồi đứng ở cổng vào. Ở quảng trường thời đại, mỗi góc lại có một đôi cảnh sát đầy lo lắng. Bảng yết thị bùng nổ với màu sắc và khói. Tuyết bay như tàn tro qua những đám đông. Một người chạy bộ lẩn giữa bầy gái bán hoa.
Nhưng Irina yêu anh. Cô sẵn sàng quay về Nga, hoặc ở lại Mỹ, tất cả đều tùy thuộc vào anh. Anh nhớ lại lúc cô còn làm ở Mosfilm, cái áo khoác Afghan và chiếc bốt bị nứt. Thế là cô đã ngủ với Osborne ở Moscow, nhưng không nhận món quà nào. Kể cả tiền dù lúc nào cô cũng đói khát. Món quà duy nhất cô chấp nhận là nước Mỹ. Arkady đã cho cô cái gì, một cái khăn với họa tiết mấy quả trứng Phục sinh sao? Chỉ Osborne mới có thể dâng nước Mỹ cho cô ta, chỉ Osborne mới có thể cho anh sự thật. Osborne có quyền năng ban phát những món quà kỳ diệu.
Mỹ, Nga, Nga, Mỹ. Nước Mỹ là ảo vọng đẹp đẽ nhất. Nó thách thức mọi hy vọng. Kể cả khi đã ở đây trong ánh sáng của nó, đủ gần để vò nát những tờ đô la trong tay, nó vẫn chỉ là ảo vọng. Anh sẽ không bao giờ đến đây nếu biết trước về Irina và Osborne, anh tự nhủ. Nhưng anh vốn đã biết về Irina và Osborne từ rất lâu rồi, anh tự trả lời. Ai mới là kẻ ảo vọng?
Cô sẽ quay về nếu Arkady muốn, kể cả Osborne cũng công nhận điều đó.
Irina và Osborne làm tình như thế nào?
Irina, Osborne, Osborne, Irina. Anh dường như có thể nhìn thấy cảnh họ làm tình.
Anh kết thúc suy tưởng khi chiếc limousine đỗ vào lề đường. Anh nhận ra họ đang ở rất xa về hướng nam đường Hai mươi chín. Cả hai cửa sau bật mở, từ hai phía có hai gã da đen dựa vào xe, dùng một tay chĩa súng vào đầu Arkady và tay kia giơ huy hiệu thám tử. Tấm kính chắn ghế sau và ghế tài xế trượt xuống, để lộ Kirwill sau tay lái.
“Chuyện gì đã xảy ra với tay tài xế?” Arkady hỏi.
“Gã người xấu nào đó đã đánh vào đầu hắn và cướp cái xe.” Kirwil cười ngạo nghễ. “Chào mừng đến New York.”
Kirwill ngấu nghiến sandwich thịt bò nóng hổi và uống whisky bằng cốc vại. Hai thám tử da đen, Billy và Rodney, uống rum với coca ở quầy đối diện. Arkady ngồi đối diện Kirwill, ly của anh rỗng không. Tâm trí anh không ở trong quán bar, anh không tự do, anh đang nhìn thấy tấm ga nhàu nhĩ trên giường căn hộ. Anh ngồi với Kirwill như cách một gã đàn ông có thể ngồi thờ ơ trong cơn hỏa hoạn.
“Osborne có thể nói ‘Tao đã giết bọn chúng’,” Kirwill giải thích. “Hắn có thể nói, ‘Tao bắn chúng lúc ba giờ chiều ngày mùng một tháng Hai. Tao làm thế và tao hài lòng.’ Hắn sẽ không bị dẫn độ. Với bất cứ gã luật sư Mỹ ổn ổn nào, vụ này cũng chỉ mất năm năm là cùng. Nhưng lại mất đến hai mươi năm để đưa một tên tội phạm chiến tranh Đức quốc xã ra khỏi đây. Xem nào, năm năm cho tòa sơ thẩm, thêm năm năm kháng án. Cuối cùng, hắn có thể đến tận tòa phúc thẩm liên bang và mua chuộc một vụ xử sai. Thắng hay thua, mười lăm năm đấy. Bọn chồn zibelin giao phối, không nhiều như chồn vizon nhưng vẫn giao phối, và trong mười lăm năm, nền độc quyền chồn zibelin của Nga sẽ chỉ còn là huyền thoại. Những năm mươi triệu đô la ngoại tệ đấy. Thế nên quên vụ dẫn độ đi. Hai lựa chọn khác là giết Osborne và cướp lại chồn zibelin, hoặc thỏa hiệp. Sở đang bảo vệ Osborne, và bọn Nga không biết chồn zibelin ở đâu, thế nên chúng sẽ thỏa hiệp. Kìa, phải khen hắn đấy. Hắn chơi bọn KGB, chơi chúng rồi khiến chúng phát điên lên. Hắn là anh hùng nước Mỹ hẳn hoi đấy. Anh thì sao, thằng phản động Nga? Nhưng tôi sẽ giúp anh, Renko ạ.”
Kirwill và hai gã thám tử của anh ta trông như bọn cướp ngoại lai, trông chả có tí gì như kiểu cảnh sát Moscow. Chiếc limousine bị cướp chỉ cách đó vài dãy nhà.
“Lẽ ra, anh nên giúp tôi lúc ở Moscow.” Arkady nói. “Nếu thế tôi đã có thể ngăn Osborne lại ngay lúc đó. Giờ thì anh chả giúp gì được tôi nữa.”
“Tôi có thể cứu anh.”
“Cứu tôi?” Arkady thấy thật nực cười. Ngày hôm qua thôi có thể anh còn tin Kirwill. “Anh không thể cứu tôi nếu không có chồn zibelin. Anh có không?”
“Không.”
“Anh sẽ cứu tôi, nhưng anh không thể cứu được. Chuyện này chả khả quan lắm.”
“Rời khỏi cô gái kia đi - hãy để KGB trút giận lên cô ta.” Arkady dụi mắt. Anh ở Mỹ và Irina ở Nga? Thật ngớ ngẩn.
“Không.”
“Tôi đã đoán là thế mà.”
“Chà, cảm ơn vì ý tốt của anh.” Arkady bắt đầu nhỏm dậy. “Chắc bây giờ anh nên đưa tôi quay lại khách sạn.”
“Đợi chút thôi.” Kirwill đẩy anh xuống. “Uống vì những ngày đã xa nào.” Anh ta đổ đầy cái ly trước mặt Arkady, lục trong túi và đưa ra một túi đậu phộng rồi quăng lên bàn. Billy và Rodney tò mò quan sát Arkady, như thể anh uống bằng mũi vậy. Họ cao và đen bóng, mặc áo sáng màu không cổ. “Nếu sở giao anh cho một gã sát nhân đã tự thú nhận, họ cũng có thể giao anh cho Cục Cảnh sát New York thêm năm phút nữa đấy.” Kirwill nói.
Arkady nhún vai rồi uống một hơi cạn ly whiskey. “Sao cái ly này bé thế nhỉ?” Anh hỏi.
“Đó là một dạng tra tấn được thiết kế bởi đám thầy tu đấy,” Kirwill nói. Anh ta nhìn những gã thám tử kia. “Này, ít nhất cũng lấy chút đậu phộng chứ. Có đứa nào chịu nhổm dậy không?” Khi Billy đến quầy bar, Kirwill quay lại nhìn Arkady và nói, “Con bích tuyệt vời.”
“Con bích?” Arkady hỏi.
“Con bích, bọn mọi, máu, công tử bột, dừa. Này, bây giờ, Rodney,” Kirwill nói khi gã thám tử da đen còn lại cười và lắc đầu, “nếu gã này trở thành người Mỹ, anh ta sẽ hiểu những từ kia thôi.”
“Sao anh lại không thích FBI?” Arkady hỏi.
Tính buồn vui thất thường khiến Kirwill đột nhiên thay đổi. Điệu cười ngạo nghễ trở nên méo mó. “Chà, có nhiều lý do lắm. Lý do nghề nghiệp thì bởi vì bọn FBI có chịu điều tra gì đâu, chúng toàn thuê bọn chỉ điểm. Vụ nào cũng thế - gián điệp, quyền công dân, mafia - tất cả những gì chúng biết là từ bọn chỉ điểm. Hầu hết dân Mỹ đều nhạy cảm về chuyện chỉ điểm, nên sở càng quan tâm đặc biệt. Lũ chỉ điểm của chúng toàn bọn tâm thần và sát thủ. Khi sở đối mặt với thế giới thực, đột nhiên anh bắt được một lũ quái đản biết giết người với dây đàn piano. Giả sử gã quái đản kia bị bắt, và hắn sẵn sàng bán đứng bạn bè. Hắn sẽ khai với sở tất thảy những gì chúng muốn nghe và bịa ra những gì hắn không biết. Thấy chưa, sự khác nhau cơ bản nằm ở đó. Một gã cớm đi ra đường và tự điều tra thông tin, hắn sẵn lòng vấy bẩn vì khát vọng của đời hắn là trở thành một thám tử. Nhưng một gã đặc viên của sở thực chất chỉ là thằng cha luật sư hay kế toán, hắn muốn ngồi trong văn phòng và ăn mặc bảnh chọe, có khi là làm chính trị nữa. Thằng khốn đó sẽ mua chuộc một gã lập dị mỗi ngày.”
“Không phải gã chỉ điểm nào cũng lập dị đâu,” Arkady lẩm bẩm. Anh nhìn thấy Misha đứng trong nhà thờ, uống thêm một ly khác và xua tan hình ảnh đó.
“Sau khi làm chứng xong, lũ lập dị sẽ được chuyển đi và ban cho tên mới. Nếu gã lập dị giết ai khác, sở lại chuyển hắn đi. Có những gã điên đã được chuyển đi bốn, năm lần - hoàn toàn được miễn tội. Tôi không thể bắt chúng, lệnh ân xá của chúng còn tốt hơn cả Nixon. Đó là những gì xảy ra khi anh không tự mình làm việc, khi anh dùng lũ lập dị.”
Gã thám tử quay lại từ quầy bar với một cái tô nhựa vân gỗ. Kirwill đổ đậu phộng vào tô. “Khi anh xong việc, Billy à,” anh ta nói, “sao anh không gọi đến trại và xem chúng nó đã thả anh bạn Rats của chúng ta ra chưa.”
“Còn... lâu!” Billy nói, nhưng vẫn đến bốt điện thoại.
“Osborne nói hắn là chỉ điểm cho FBI,” Arkady nói.
“Ừ, tôi biết.” Kirwill nhìn lên như thể mắt anh đang chăm chú nhìn trăng. “Anh tưởng tượng ra cái ngày John Osborne bước vào cục rồi đấy. Chúng hẳn là giẫm quéo cả chân vì đứng bật lên nhanh quá. Một gã như hắn - đã từng đến Kremlin, từng đến Nhà Trắng, giới thượng lưu - không thèm đồng nào, có thể mua bán bất cứ gã nào trong cục. Đàn đúm với đủ loại người. Hắn là gã lập dị trong mơ đã trở thành sự thật của anh đấy.”
“Sao hắn không đến CIA?”
“Vì hắn thông minh. CIA có hàng ngàn nguồn tin về Nga, cả trăm gã ra vào nước Nga. Còn FBI đã bị ép đóng cửa văn phòng ở Moscow. Tất cả những gì chúng có là Osborne.”
“Tất cả những gì hắn có thể cho họ là tin đồn nhảm.”
“Chúng chỉ cần có thế. Chúng chỉ muốn nhảy vào lòng một gã nghị sĩ và ton hót vào tai hắn những gì chúng đã nghe được từ nguồn tin đặc biệt rằng Brezhnev mắc bệnh giang mai. Cũng như những gì chúng thì thầm về mấy gã nhà Kennedy và nhà vua. Đó là những gì mà lũ thượng nghị sĩ sẵn sàng trả giá để có được, Osborne đang bày trò. Hắn muốn sở bảo vệ hắn và hắn sẽ không phải đổi tên, sống chui lủi.”
Arkady đã ăn hết đậu phộng khi Kirwill nói. Anh tự rót thêm một ly khác. “Nhưng hắn đã trộm chồn zibelin và phải trả chúng lại.”
“Thật à? Nga có trả lại nếu KGB là kẻ cắp không? Hắn là một người hùng.” “Hắn là một gã sát nhân.”,” anh nói đấy.”
“Tôi không phải KGB.”
“Theo tôi đấy. Trong thế giới đảo điên này, chúng ta là những gã lạc lõng.”
“Chúng không cho anh ta đi.” Billy trở về từ bốt điện thoại. “Giờ chúng muốn giữ anh ta vì tội quấy rối nơi công cộng. Chúng sẽ xử anh ta trong vòng một giờ nữa.”
Giọng của Billy khiến Arkady liên tưởng đến một chiếc saxophone. “Hai gã của ông” - anh quan sát Billy và Rodney - “không phải họ đang sơn cái văn phòng đối diện khách sạn của tôi à?”
“Thấy chưa,” Kirwill nói với họ, “tôi đã bảo gã này không phải dạng vừa mà.”
Khi họ rời khỏi quán bar, Billy và Rodney rời đi trong chiếc mui trần màu đỏ. Kirwill và Arkady đi bộ qua dãy đường giao nhau ở những góc lẻ qua một phần thành phố mà Kirwill gọi là Làng. Chỉ có đủ tuyết để làm đèn đường nổi bật lên và khiến bầu không khí ban đêm dễ chịu hơn. Trên đường Barrow, họ dừng lại trước một căn nhà gạch ba tầng với bậc thang cẩm thạch và dây leo chen giữa những ngôi nhà gần y như nhau. Arkady không cần được kể cũng biết đó là nhà Kirwill.
“Vào mùa hè, đám đậu tía đó lan nhanh không thể kiểm soát nổi, một địa ngục quen thuộc màu tím,” Kirwill nói. “Big Jim và Edna có một gã người Nga sống ở đây với bọn tôi, nhưng tiếng Anh của gã không tốt lắm. Khi đám bạn đến chơi, gã bảo chúng tìm căn nhà ‘bao phủ bởi chứng rối loạn tâm thần’. Bó tay.”
Căn nhà trông hơi lơ lửng trong bóng tối.
“Chúng tôi có rất nhiều người Nga. Bà vú già chăm sóc tôi từng chơi trò năm chú lợn con trên ngón chân tôi. Bà ấy nói, ‘Lợn con Rockefeller đi chợ, Mellon bé nhỏ này ở nhà, Stanford nhỏ bé kia ăn bò nướng...’.”
“Sở từng phái hai gã ngồi trong xe ở đây cả ngày lẫn đêm. Chúng theo dõi điện thoại, đưa con chíp vào tường từ nhà khác, chúng hỏi bất cứ ai bước ra khỏi cửa. Những gã vô chính phủ đặt bom trên mái. Đó là một dạng án treo cả khu vực mà anh không thấy trong nhiều nhà. Sau đó, Jimmy dựng một cái bệ thờ ở đấy - thập tự, tượng thánh. Chúa là quả bom của Jimmy. Big Jim và Edna phát nổ, Jimmy nổ tung, còn tôi, tôi chỉ còn một gã người Nga.”
“Và anh vẫn sống ở đây?”
“Trong một căn nhà quỷ ám. Cả đất nước này là một căn nhà quỷ ám. Thôi nào, có kẻ chúng ta phải tóm được đấy.”
Xe của Kirwill màu xanh, cũ, sạch quá mức cần thiết. Anh ta đi về hướng nam trên đường Varick, xuề xòa vẫy tay với một đoàn xe cảnh sát họ bắt gặp. Arkady chợt nhận ra chắc bây giờ Wesley đã biết anh mất tích và ở khách sạn Barcelona chắc đang náo loạn cả lên. Có thông cáo nào được gửi cho đoàn xe cảnh sát không? Họ có nghi ngờ Kirwill không?
“Ngay cả nếu Osborne là một gã chỉ điểm quan trọng, tôi không hiểu sao FBI lại cho phép hắn gặp tôi,” Arkady nói. “Dù sao hắn vẫn là tên tội phạm còn họ là cơ quan thực thi công lý.”
“Những thành phố khác sống theo luật. Ở New York thì chả có luật lệ gì sất. Nếu một nhà ngoại giao đâm xe anh, bắn chó của anh, hắn chỉ lẳng lặng về nhà.”
Lái xe qua con phố xa lạ vào ban đêm, tưởng tượng của anh đầy ắp những gì không thể thấy. Trong bóng đêm, Arkady nhớ đến những ống khói của công trình Likhachev, những bức tường của Manezh, những con phố của Novokuznetskaya.
“Tuy nhiên, lần này sở đang chơi bài khác,” Kirwill nói. “Chúng có những căn hộ an toàn ở Waldorf, sao lại cho anh ở Barcelona? May thật vì cảnh vệ ở đó lởm lắm, tôi có thể đưa Billy và Rodney đến chỗ anh. Nhưng cũng khả nghi, vì thế có nghĩa là Wesley không muốn bất cứ hồ sơ nào, kể cả của sở, lưu lại rằng anh đã ở đây. Osborne đã nói gì với anh vậy? Hắn có nhắc đến thỏa thuận nào không?”
“Chỉ nói chuyện thôi,” Arkady nói. Lời nói dối bật ra không ngập ngừng, như thể từ một bộ não khác và một cái miệng khác, tinh ranh hơn.
“Hắn nói về bản thân hắn và cô ấy, xem tôi có hiểu hắn không. Hắn là loại người thích hành hạ người khác. Cứ để hắn cho tôi.”
Những tòa nhà công cộng thấp hơn của Manhattan là sự mô phỏng nhà thờ thành La Mã về đêm, kiến trúc thuộc địa và hiện đại, với một ngoại lệ tràn ngập ánh sáng, một tòa nhà khổng lồ duy nhất nuốt chửng cả khối và trông thân thuộc với Arkady. Nó là tòa nhà ở Stalinist Gothic mà không có kiểu cách phương Đông của Stalin, như necrolith mà không có ngôi sao ruby phát sáng. Kirwill đỗ xe trước tòa nhà.
“Sao thế?” Arkady hỏi. “Giờ này còn cái gì hoạt động nữa?”
“Đó là những hầm mộ. Kirwill nói. “Phiên tòa đêm đã bắt đầu.”
Họ đẩy cánh cửa đồng thau rồi tiến vào tiền sảnh với những kẻ ăn mày đầy vết thâm tím, áo khoác thủng túi. Ở Moscow cũng có ăn mày, nhưng chỉ nhìn thấy họ trên ga tàu hoặc khi họ bị đuổi đi bởi một chiến dịch cảnh sát. Cả tiền sảnh là của họ. Quầy thông tin có đống rác chất cao đến thắt lưng. Một phía của tiền sảnh dán đầy thời gian xử án, phía kia có một dãy điện thoại bằng nhôm. Những cái đèn chùm khổng lồ treo xa tầm với. Một đôi bạn già trong bộ áo choàng nhàu nhĩ, mang theo những cái vali bé nhìn Arkady.
“Luật sư đấy,” Kirwill giải thích. “Họ tưởng anh là khách hàng.”
“Họ nên biết rõ hơn về khách hàng của mình đấy.”
“Họ không biết khách hàng của họ là ai cho đến khi chúng đi qua những cánh cửa này.”
“Họ nên gặp khách hàng trong văn phòng chứ.”
“Đây chính là văn phòng của họ.”
Kirwill dẫn anh đi qua đám đông và một đôi cửa đồng thau để vào một căn phòng mà Arkady nhận ra đã từng là phòng xử án. Đã gần nửa đêm, còn phiên tòa nào nữa?
Một vị thẩm phán trong chiếc áo choàng ngồi trên cái bàn cao trước tấm ván gỗ khắc dòng chữ ‘Chúng ta tin ở Chúa’ và một lá cờ Mỹ phủ nhựa. Người tốc ký cùng viên thư ký ngồi ở bàn thấp hơn, và một người đàn ông ngồi ở cái bàn phân loại những đống biên bản buộc tội bìa xanh. Luật sư đi đi lại lại từ bàn giấy đến chỗ thẩm phán rồi lại đến những cái ghế dài nơi bị cáo đang đợi. Có đủ giới tính, độ tuổi và hầu hết là người da đen. Tất cả thẩm phán đều trẻ, da trắng và là nam giới.
Một dải nhung ngăn vụ tố tụng khỏi một dãy đầu những người đàn ông mặc áo khoác da và quần jeans. Họ đeo huy hiệu cảnh sát ở thắt lưng và biểu lộ sự buồn chán tột cùng, vài kẻ mắt đảo liên hồi, số khác thì nhắm mắt lại. Gia đình các bị cáo ngồi hàng sau, giữa đám ăn mày gà gật. Đây là giấc ngủ của thành phố, nó bắt đầu và lan ra từ phiên tòa này, sự mệt mỏi vượt qua bất cứ cơn giận nào, hơn cả điệu bộ hoài nghi cố định. Quan tòa, bị cáo, bạn bè, mọi khuôn mặt đều uể oải.
Một người phụ nữ có nước da cà phê bế đứa bé trong bộ đồ đi tuyết, ngồi bình yên cạnh Arkady. Đôi mắt đứa bé phản chiếu những ánh đèn trần lấp lánh. Tấm chắn sáng cửa sổ đóng lại. Thỉnh thoảng, một viên bảo vệ sẽ đánh thức hoặc tống khứ một kẻ ngáy to, nếu không thì phòng xử án sẽ hoàn toàn tĩnh lặng vì khi một bị cáo hay viên cảnh sát bắt giữ hắn được gọi đến đứng trước bàn, luật sư sẽ nói chuyện với thẩm phán bằng cái giọng thì thầm không thể nghe được. Sau đó, thẩm phán