← Quay lại trang sách

Chương 8

Sáu giờ tối ở ngôi nhà Ngọn Thông. Hercule Poirot cắn miếng xúc xích, sau đó nhấp tiếp một ngụm trà. Trà quá đậm, và với Poirot mà nói, thực sự không nuốt nổi. Xúc xích thì lại khác, cực kỳ ngon, được chế biến hoàn hảo. Ông nhìn về phía cuối bàn, sau bình trà nâu là gia chủ, bà Mckay đang ngồi, vẻ đầy cảm kích.

Elspeth Mckay trái ngược hoàn toàn với cậu em Spence. Trong khi ông thanh tra dáng người cao lớn bệ vệ, thì bà lại gầy nhẵng. Gương mặt thon nhọn của bà toát lên vẻ lanh lợi. Người bà mảnh như một sợi chỉ, thế nhưng giữa hai người vẫn có những điểm tương đồng. Rõ nhất là đôi mắt và khuôn hàm bạnh đặc trưng. Cả hai người này, Poirot thầm nghĩ, đều có đầu óc và khả năng phán đoán đáng tin cậy. Họ có thể có cách thể hiện khác nhau. Là người suy nghĩ thấu đáo và thận trọng, thanh tra Spence thường chậm rãi và cẩn thận. Bà McKay thì khác, luôn vồ vập, nhanh và nhạy, như một con mèo khi bắt chuột vậy.

“Tính cách của cô bé,” Poirot lên tiếng, “có thể giúp tôi làm sáng tỏ nhiều điều. Joyce Reynolds ấy. Cho nên đây chính là điểm khiến tôi thắc mắc nhất.”

Dứt lời, ông nhìn Spence tò mò.

“Ông hỏi tôi thì tôi chịu rồi,” Spence trả lời. “Tôi sống ở đây chưa lâu. Tốt nhất nên hỏi Elspeth.”

Poirot lại nhìn sang phía cuối bàn, nhướn mày chờ đợi. Bà McKay trả lời sắc sảo như mọi khi:

“Theo tôi, cô bé đúng kiểu đứa trẻ hay nói dối.”

“Không thuộc dạng bà có thể tin cậy khi cô bé kể chuyện?”

Elspeth lắc đầu quả quyết.

“Không đâu. Joyce dám bịa chuyện để nói, và nói trôi chảy như thật là đằng khác. Tôi chắc chắn không bao giờ tin lời con bé đó đâu.”

“Ví dụ như nói dối với để ra oai với người khác sao?”

“Đúng như thế đấy. Họ có kể cho ông nghe chuyện Ấn Độ đúng không? Rất nhiều người đã tin. Gia đình ấy có đi chơi xa dịp lễ. Đi du lịch nước nào đó. Tôi không rõ là ông bố hay bà mẹ, hay cô chú gì đó, nhưng có người đã sang Ấn Độ và cô bé trở về từ mấy đợt nghỉ lễ đó với cả đống chuyện, kể lể là nó đã được đưa đi chơi đến xứ ấy cùng người thân ra sao. Nó bịa ra được cả một câu chuyện ly kỳ. Có hẳn một Maharajah với một cuộc săn hổ và bầy voi các thứ - ái chà, nghe cũng hấp dẫn lọt lỗ tai lắm, nên rất nhiều người quen Hoàng tử Ấn Độ của cô bé ở đây tin lời nó. Nhưng tôi có thể nói ngay là nó dựng chuyện. Mới đầu tôi chỉ cho là nó phóng đại thôi. Nhưng mỗi lần nó kể là câu chuyện lại được thêm thắt một chút. Càng ngày càng nhiều hổ, nếu ông hiểu ý tôi. Nhiều hơn rất nhiều với số lượng có thể có ngoài đời. Và nó thêm cả voi nữa. Tôi cũng đã biết từ trước là con bé đó vốn hay đi ba hoa những chuyện không thật ấy.”

“Luôn chỉ để thu hút chú ý?”

“À, ông nói đúng rồi đấy. Cô bé này là chúa thích thu hút sự chú ý.”

“Nếu chỉ vì một đứa trẻ từng kể về một chuyến du lịch mà nó chưa bao giờ đi,” thanh tra Spence xen vào, “thì chị không thể kết luận là tất cả những chuyện khó tin nó từng kể đều là nói dối hết.”

“Có thể là không,” Elspeth nói, “nhưng tôi dám cá đa số là nói dối.”

“Vậy theo bà, nếu Joyce Reynolds nói với mọi người chuyện nó từng chứng kiến một vụ giết người, thì bà có nghĩ cô bé đang bịa chuyện và sẽ không tin lời của nó?”

“Tôi sẽ nghĩ vậy đấy,” bà cô McKay đáp.

“Biết đâu trong trường hợp này chị lầm,” em trai bà phản bác.

“Phải, ai cũng có thể sai lầm.” Bà McKay nói tiếp. “Giống như ngày xưa có chuyện cậu bé hay tri hô ‘Có sói, có sói’, và vì lừa mọi người quá nhiều lần nên đến khi có sói thật thì không ai chịu tin cậu ta nữa, thế là con sói bắt cậu ta.”

“Vậy bà sẽ kết luận là…”

“Tôi vẫn tin là cô bé Joyce ấy có thể đã không nói sự thật. Nhưng tôi là người công tâm. Biết đâu lần này nó nói thật. Cũng có thể nó đã nhìn thấy gì đó. Không đến mức như lời kể cho mọi người, nhưng có thể là chuyện gì đó.”

“Thêm nữa là cô bé bị giết,” thanh tra Spence nói. “Chị phải nhớ điều này nữa, Elspeth ạ. Cô bé đã khiến mình bị giết.”

“Đúng vậy,” bà McKay thừa nhận. “Thế nên tôi mới nói là có thể tôi đã phán xét sai về cô bé. Và nếu đúng vậy, thì cho tôi xin lỗi. Nhưng hãy thử hỏi bất cứ ai biết Joyce, họ đều sẽ nói với các vị là cô bé ấy nói dối thành bản tính. Khi ấy nó đang ở một bữa tiệc mà, nhớ không? Và nó phấn khích, có thể muốn gây ấn tượng chẳng hạn.”

“Quả thực, đã không ai tin lời cô bé,” Poirot nói.

Elspeth McKay lắc đầu vẻ tất nhiên.

“Liệu cô bé có thể thấy ai bị giết đây?” Poirot hỏi, hết nhìn từ người chị đến cậu em.

“Làm gì có ai cơ chứ,” bà McKay quả quyết.

“Ở đây chắc chắn phải có người chết chứ,” Poirot nói. “Thí dụ như tầm ba năm trở lại chẳng hạn.”

“Ồ, cái đó thì đương nhiên rồi,” Spence nói. “Nhưng toàn những người mất vì tuổi cao, hoặc những người khuyết tật, hoặc những người ông biết là không sống lâu được - hay có thể là một vụ đâm xe chết người rồi bỏ chạy…”

“Không có ai chết bất thường hoặc đột ngột sao?”

“Thì…” Elspeth ngập ngừng. “Thì cũng…”

Spence tiếp lời: “Tôi đã ghi ra được vài cái tên rồi đây.” Ông đẩy mảnh giấy về phía Poirot. “Tránh cho ông một chút rắc rối, đỡ phải đi hỏi lung tung.”

“Đây đều là những người ông cho là nạn nhân?”

“Cũng chưa đến mức ấy. Kiểu như có khả năng là vậy.”

Poirot đọc lớn: “Bà Llewellyn-Smythe. Charlotte Benfield. Janet White. Lesley Ferrier…” Ông chợt khựng lại, nhìn về phía cuối bàn, và đọc lại cái tên đầu tiên. Bà Llewellyn-Smythe.

”Có thể đấy,” bà McKay nói. “Phải rồi, biết đâu ông lại nắm được gì từ đó.” Bà nói thêm một từ gì đó nghe như “opéra.”

“Opéra? Nhạc kịch sao?” Poirot nhìn khó hiểu, ông chưa nghe ai nhắc đến vở nhạc kịch nào cả.

“Tự dưng một buổi tối biến đâu mất,” Elspeth nói, “rồi biệt tăm tích luôn.”

“Bà Llewellyn-Smythe mất tích sao?”

“Không, không. Cô gái opéra ấy. Cô ta có thể cho gì đó vào thuốc, cũng không khó lắm. Rồi được thừa hưởng hết khoản tiền kếch sù, có phải không nhỉ - hoặc ít nhất lúc đó cô ta đã tin thế?”

Poirot nhìn sang phía Spence, chờ đợi một lời giải thích.

“Và rồi chẳng ai nghe tung tích gì của cô ta nữa,” bà McKay vẫn tiếp tục. “Các cô gái ngoại quốc ai cũng vậy cả.”

Đến đây Poirot chợt mới hiểu từ “opera” là từ đâu mà ra.

“Một cô opéro,” ông nói.

Chú thích:Ô-pe là phiên âm của 'Au pair' trong tiếng Pháp, chỉ những cô gái được đưa ra nước ngoài để sống và làm việc trong một gia đình bản xứ để học văn hóa và ngôn ngữ. Họ thường làm công việc trông trẻ hoặc chăm sóc người lớn tuổi, và nhận một khoản lương nho nhỏ.

“Đúng vậy. Cô ta sống cùng một bà lớn tuổi, và sau khi bà ấy chết chừng một hai tuần, cô au pairô-pe cũng biệt tăm.”

“Tôi đoán là bỏ nhà theo một gã nào đó,” Spence nói.

“Nếu vậy sao chẳng ai biết hắn ta là ai,” Elspeth tiếp. “Mà thường thì mấy chuyện này ở đây người ta hay bàn ra tán vào lắm, ai hẹn hò yêu đương ai họ đều biết cả.”

“Có ai ở đây nghi ngờ cái chết của bà Llewellyn-Smythe không?” Poirot thắc mắc.

“Không. Bà ấy bị bệnh tim. Bác sĩ đến thăm bệnh bà ấy thường xuyên.”

“Nhưng sao ông lại để tên bà ấy đầu tiên trong danh sách nạn nhân vậy bạn hiền?”

“Thì, bà ấy là một phụ nữ giàu có, rất giàu là đằng khác. Cái chết của bà ấy không bất ngờ, mà là đột ngột. Nói không chừng, đến cả bác sĩ Ferguson cũng ngạc nhiên, dù có thể là chỉ đôi chút thôi. Tôi đoán ông bác sĩ vẫn nghĩ bà ấy sẽ sống lâu hơn được một chút. Nhưng nghề bác sĩ thì hay gặp những chuyện ngạc nhiên kiểu này lắm. Bà ấy cũng không phải dạng bệnh nhân chịu nghe lời bác sĩ. Đã được dặn là không được làm việc quá sức, nhưng bà ấy cứ một mực làm những gì mình thích. Ví dụ, bà ấy mê làm vườn, mà việc nặng nhọc đó thì lại chẳng có lợi cho bệnh tim.”

Elspeth McKay tiếp tục câu chuyện.

“Bà Llewellyn-Smythe dọn đến đây khi sức khỏe đã xuống dốc. Trước đó bà ấy sống ở nước ngoài, sau chuyển về đây cho gần gũi cháu trai cháu gái, là ông bà Drake ấy, và mua khu biệt thự tên là Mỏ Đá. Một tòa nhà rộng thời Victoria, trong vườn có một mỏ đá bỏ hoang, thế nên bà ấy mới thích, do có khả năng sửa sang lại cái mỏ đá đó. Bà ấy chi vài ngàn bảng để sửa mỏ đá thành một khu vườn chìm*, hoặc đại để vậy. Thuê hẳn một thợ xây vườn cảnh từ Wisley hay đâu đó ở xa về tận đây để thiết kế. Ôi, tôi phải nói là, khu vườn cảnh ấy đáng chiêm ngưỡng lắm.”

Vườn chìm hay còn gọi là vườn trũng, sunk garden hoặc sunken garden, là kiểu vườn có một hoặc nhiều phần đất thấp, trũng xuống so với mặt đất xung quanh.

“Tôi sẽ đến thăm khu vườn,” Poirot nói. “Biết đâu đấy, không chừng nó lại gợi ý cho tôi điều gì.”

“Phải rồi, tôi mà là ông tôi sẽ đi ngay. Rất đáng để nhìn ngắm.”

“Và khi nãy bà nói bà ấy rất giàu?” Poirot hỏi.

“Góa phụ của một nhà đóng tàu. Bà ấy có cả núi tiền chứ chẳng chơi.”

“Bà lão chết thì không bất ngờ, nhưng hết sức đột ngột.” Spence nhắc lại. “Không ai nghi ngờ nguyên nhân nào khác ngoài lý do bệnh tình tự nhiên. Bị trụy tim, hay cái tên dài thoòng gì đó mà bác sĩ hay dùng. Động mạch vành gì đó.”

“Và không ai yêu cầu điều tra?”

Spence lắc đầu.

“Chuyện như thế này cũng không có gì là mới,” Poirot nói. “Một phụ nữ lớn tuổi được dặn dò là phải cẩn thận, không nên chạy lên chạy xuống cầu thang, không nên làm vườn cực nhọc, vân vân và vân vân. Nhưng nếu ông gặp đúng phải một bà thích vận động, cả đời say mê làm vườn và luôn làm những thứ mình thích, thì thường bà ấy không chịu nghe lời dặn của bác sĩ đâu.”

“Đúng đấy, bà lão Llewellyn-Smythe đã sửa sang lại mỏ đá rất tuyệt vời, mà đúng hơn là nghệ nhân cảnh quan kia làm. Mất đến ba bốn năm đấy, anh ta và bà chủ. Bà ấy từng nhìn thấy khu vườn, ở Ireland thì phải, khi đi một chuyến tham quan các khu vườn do National Trust* tổ chức. Học hỏi từ đó nên họ đã hô biến cho miếng đất trở thành một nơi tuyệt đẹp. Ôi, ông phải nhìn tận mắt thì mới tin được.”

National Trust, tên đầy đủ là National Trust for Places of Historic Interest or Natural Beauty (Tổ chức quốc gia về những địa điểm có giá trị lịch sử hay vẻ đẹp thiên nhiên), chuyên chăm sóc những kiến trúc được xem là di sản quốc gia và những khu vực thiên nhiên ở Anh, Wales và Bắc Ireland.

“Thế thì đây là cái chết tự nhiên,” Poirot nói, “có bác sĩ địa phương xác nhận. Có phải là vị bác sĩ mà ông có nhắc ở đây phải không? Mà tôi sắp sửa gặp đây?”

“Bác sĩ Ferguson, phải, ông ấy tầm sáu mươi tuổi, một bác sĩ giỏi và ở đây ai cũng quý mến.”

“Nhưng hai vị nghi ngờ cái chết của bà ấy có khả năng là bị sát hại? Còn lý do nào khác ngoài nguyên nhân chết tự nhiên chúng ta đã bàn tới không?”

“Ví dụ như do cô gái opera đó,” Elspeth nói.

“Tại sao?”

“Thì, cô ta chắc hẳn đã làm giả di chúc. Chứ không thì còn ai vào đây nữa?”

“Xin bà nói rõ tôi biết,” Poirot nói. “Vụ làm giả di chúc là như thế nào?”

“Ờ thì, lúc làm thủ tục chứng thực di chúc, hay gì gì đó đại loại thế, đã nảy sinh chút ồn ào.”

“Có một di chúc mới sao?”

“Họ gọi là gì ấy nhỉ, bổ gì đấy, một bản di chúc bổ sung.”

Elspeth nhìn về phía Poirot, không chắc chắn lắm. Ông khẽ gật đầu.

“Trước đó bà ấy đã lập vài bản di chúc,” Spence nói thêm. “Tất cả nội dung đều gần như nhau. Gồm các khoản để lại cho quỹ từ thiện, chút tài sản cho những người giúp việc lâu năm, nhưng phần lớn gia tài đều để lại hết cho ông cháu và bà vợ. Họ là họ hàng thân thích với bà ấy.”

“Thế còn bản bổ sung này?”

“Để lại toàn bộ cho cô gái opera đó,” Elspeth nói, “Vì tấm lòng và sự chăm sóc tận tình của cô ấy. Hay đại để thế.”

“Vậy xin hãy cho tôi biết thêm về cô au pairô-pe này.”

“Cô ta đến từ nước nào đó ở Trung Âu. Nước gì đó có tên dài dài.”

“Cô ấy tới ở cùng bà Llewellyn-Smythe được bao lâu?”

“Chỉ khoảng hơn một năm thôi.”

“Hai vị luôn gọi bà ấy là bà lão. Chính xác thì bà ấy bao nhiêu tuổi?”

“Tầm hơn sáu mươi. Chắc sáu mươi lăm, sáu mươi sáu.”

“Thế cũng đâu già lắm,” Poirot nói, hơi chạnh lòng.

“Bà ấy làm vài bản di chúc rồi, người ta đồn thế,” Elspeth nói. “Spence mới nói rồi đấy, đa số đều như nhau cả. Tặng chút tiền cho một vài quỹ từ thiện, có lẽ bà ấy chỉ thay đổi quỹ nào với quỹ nào thôi, hoặc sửa lại vài gia sản cho những người giúp việc lâu năm là cùng. Nhưng phần lớn gia tài đều để lại hết cho người cháu ruột và cháu dâu, và tôi không nhầm có cả một anh em họ lớn tuổi nào đó, nhưng cũng đã mất trước bà ấy. Bà ấy để lại căn nhà gỗ bà ấy xây cho anh thợ làm vườn kia, để anh ta muốn sống ở đó bao lâu tùy ý, cùng một khoản chu cấp để anh ấy tiếp tục chăm sóc khu vườn mỏ đá, và mở cửa vườn cho công chúng tham quan. Đại loại như thế.”

“Tôi đoán gia đình đã cho rằng bà ấy đầu óc không được minh mẫn lắm, bị uy hiếp hay chịu tác động từ bên ngoài mà viết chẳng hạn?”

“Theo tôi cũng có thể họ đã tin thế,” Spence nói. “Nhưng các luật sư, như tôi nói, đã chứng minh được ngay là có sự giả mạo. Rõ ràng là bản bổ sung đó làm giả không khéo lắm. Họ đã chỉ ra được gần như ngay lập tức.”

“Từ đó mới lộ ra là cô gái opera ấy làm giả giấy tờ khá dễ,” Elspeth tiếp lời. “Ông thấy đấy, cô ấy đã thay bà Llewellyn-Smythe viết rất nhiều thư từ và hình như bà Llewellyn-Smythe cực kỳ ghét gửi thư đánh máy cho bạn bè hay đại loại vậy. Nếu không phải là công việc làm ăn, thì bà ấy luôn nói: ‘Hãy viết thư tay và bắt chước chữ của ta cho thật giống, rồi ký tên ta vào đó.’ Bà Minden quét dọn trong nhà từng nghe bà chủ nói như thế, nên tôi đoán cô gái đã quen với việc bắt chước nét chữ viết tay của gia chủ, có thể một ngày cô ta chợt nhận ra là mình có thể làm trò giả mạo kia và lừa được mọi người. Và thế là chuyện mới xảy ra. Nhưng như tôi đã nói, các luật sư đã rất nhạy bén và phát hiện ngay lập tức.”

“Là các luật sư riêng của bà Llewellyn-Smythe?”

“Phải, Fullerton, Harrison và Leadbetter. Một hãng luật rất được nể trọng ở Medchester. Từ trước đến nay họ luôn làm mọi công việc pháp lý cho bà ấy. Họ đã mời chuyên gia vào cuộc và nghi vấn đã dấy lên, rồi họ bắt đầu đặt câu hỏi cho cô gái, và thế là cô ta có tật giật mình. Một ngày bỗng bỏ đi, để lại rất nhiều tư trang đồ đạc. Họ đã chuẩn bị các thủ tục để đưa cô ta ra tòa, nhưng cô gái ấy đã không đợi đến lúc đó. Cứ thế bỏ đi. Thật ra rời khỏi nước này cũng không khó lắm, nếu như người ta biết chọn thời điểm. Giờ ông có thể đi các chuyến du lịch nhiều ngày ở châu Âu mà không cần thị thực, và nếu ông đã có người thu xếp phía bên đó, thì coi như mọi chuyện đã được dọn đường cho ông từ rất lâu trước khi có lệnh truy nã hay cấm xuất cảnh.”

“Nhưng mọi người đều tin bà Llewellyn-Smythe chết vì lý do tự nhiên mà?” Poirot hỏi.

“Phải, riêng chuyện đó thì tôi không thấy ai có ý kiến gì. Ý tôi là biết đâu đấy, vì trước nay vẫn hay có những vụ giết người qua mặt được bác sĩ. Giả sử cô bé Joyce ấy đã nghe được chuyện gì đó, như là cô au pairô-pe ấy đưa thuốc cho bà Llewellyn-Smythe, và bà lão ấy nói ‘thuốc này vị là lạ, không giống như mọi khi’. Hoặc ‘thuốc này vị đắng thật’ hoặc ‘thật kỳ lạ’ chẳng hạn.”

“Chị nói cứ như là chị cũng có mặt ở đó và nghe được hết vậy, Elspeth,” thanh tra Spence xen vào. “Chị toàn tự tưởng tượng ra.”

“Bà ấy chết khi nào vậy?” Poirot hỏi. “Buổi sáng hay ban đêm? Trong nhà hay ngoài trời? Tại gia hay là ở nơi khác?”

“Ờ, ngay tại nhà. Bà ấy vào nhà sau khi đã làm vài ba việc gì đó trong vườn, thở khá nặng nhọc. Rồi bà ấy nói là rất mệt và về giường nằm nghỉ. Sau đó, nói một cách ngắn gọn thì bà ấy đã không dậy nữa. Nghe có vẻ hết sức tự nhiên, xét về mặt y học mà nói.”

Poirot lôi ra một cuốn sổ tay nhỏ, lật một trang đã ghi sẵn chữ “Các nạn nhân” trên đầu. Bên dưới đó, ông viết tiếp: “Số 1, theo gợi ý, bà Llewellyn-Smythe.” Trong những trang tiếp theo, ông chép lại những cái tên khác mà Spence đã đưa. Đoạn, ông ngẩng lên tò mò: “Charlotte Benfield?”

Spence lập tức trả lời một tràng: “Mười sáu tuổi, làm phụ tá cửa hàng. Đầu nhiều vết thương. Được tìm thấy trên một con đường đất gần Vườn Mỏ Đá. Hai người đàn ông bị đưa vào dạng tình nghi. Cả hai đều thỉnh thoảng ra ngoài cùng cô ấy. Không có bằng chứng.”

“Họ có hợp tác với cảnh sát khi lấy lời khai không?” Poirot hỏi.

“Có, như ông nói đấy. Đây là cách nói thông thường. Nhưng họ không khai được gì nhiều. Cả hai đều hoảng sợ. Nói dối vài câu, lời khai tự mâu thuẫn nhau. Không ai từng mang tiền án tình nghi sát nhân. Nhưng một trong hai người có thể đã từng phạm tội đó.”

“Họ như thế nào?”

“Peter Gordon, hai mươi mốt tuổi. Thất nghiệp. Từng làm qua vài ba công việc nhưng đều bỏ. Lười biếng. Ngoại hình khá được. Từng chịu án tù treo một hai lần vì tội ăn cắp vặt, kiểu như vậy. Không có tiền án bạo lực. Giao du khá nhiều với các thành phần du thử du thực, nhưng luôn biết cách tránh xa những loại tội nặng.”

“Thế người còn lại?”

“Thomas Hudd. Hai mươi tuổi. Bị tật nói lắp. Nhút nhát. Mắc chứng loạn chức năng thần kinh, nên dễ kích động. Mơ ước làm giáo viên, nhưng lại không đủ điểm. Mẹ góa. Dạng thương con thái quá ấy. Không khuyến khích chuyện yêu đương bạn gái. Lúc nào cũng thích giữ con khư khư. Cậu ta có công việc ở chỗ một người bán văn phòng phẩm. Chưa ghi nhận tiền án tiền sự nào, nhưng có vấn đề tâm lý, nên cũng có khả năng. Cô gái cũng khiến cậu ta khổ sở lắm. Động cơ có thể là ghen tuông, nhưng không có bằng chứng để chúng tôi khởi tố. Cả hai đều có bằng chứng ngoại phạm. Của Hudd thì là bà mẹ. Bà ấy sẵn sàng thề độc để bảo đảm là con trai ở trong nhà cùng mình cả buổi tối hôm đó, và không có ai thấy cậu ấy lởn vởn bên ngoài hoặc quanh quanh hiện trường vụ án. Cậu Gordon kia thì có chứng cớ ngoại phạm từ mấy cậu bạn không đáng tin cậy lắm. Dù không đáng, nhưng người ta cũng không thể phủ nhận bằng chứng đó.”

“Xảy ra khi nào?”

“Mười tám tháng trước.”

“Ở đâu vậy?”

“Trên một con đường đất ở cánh đồng cách Woodleigh Common không xa lắm.”

“Ba phần tư dặm,” Elspeth thêm vào.

“Gần nhà Joyce - nhà Reynolds sao?”

“Không, nó ở phía bên kia làng.”

“Có vẻ đây không phải là vụ án mạng mà Joyce nói đến,” Poirot nói, vẻ ngẫm nghĩ. “Nếu các vị thấy một cô gái trẻ bị một gã đập mạnh vào đầu thì các vị sẽ hiểu ngay đó là một vụ giết người, chứ không phải đợi cả năm trời mới nhận ra.”

Poirot đọc một cái tên khác: “Lesley Ferrier.”

Spence tiếp tục: “Thư ký luật, hai mươi tám tuổi, làm việc tại văn phòng luật Messrs Fullerton, Harrison và Leadbetter, ở Phố Market, Medchester.”

“Họ là luật sư riêng của bà Llewellyn-Smythe, nếu tôi không nhầm.”

“Phải. Cũng là họ.”

“Vậy chuyện gì đã xảy ra với Lesley Ferrier?”

“Cậu ta bị đâm dao vào lưng. Cách quán rượu Thiên Nga Xanh không xa. Người ta đồn cậu ta tằng tịu với vợ của chủ quán, Harry Griffin. Từng là một phụ nữ có nhan sắc, giờ vẫn còn đẹp. Hình như hơi già dặn, hơn cậu ta chừng năm sáu tuổi, nhưng bà ta thích những cậu trai trẻ.”

“Còn hung khí?”

“Người ta không tìm thấy con dao. Nghe đồn Lesley đã bỏ tình già và qua lại với các cô gái khác, nhưng cô nào thì chưa ai thực sự phát hiện được.”

“À, vậy ai là đối tượng tình nghi trong vụ này? Hoặc ông chủ quán hoặc bà vợ?”

“Không sai,” Spence nói. “Có thể là một trong hai. Bà vợ có khả năng hơn. Bà ta lai dân di gan và tính tình đồng bóng thất thường. Nhưng còn có những khả năng khác nữa. Cậu Lesley này cũng không phải dạng đứng đắn. Từng vướng vào rắc rối hồi mới hai mươi, làm giả hồ sơ ở đâu đó. Từng một lần dính tội giả mạo giấy tờ. Nghe đồn sinh ra trong gia đình tan vỡ các thứ. Ông chủ của anh ta đứng ra bênh vực, nên chỉ bị tù một thời gian ngắn, và sau đó được nhận vào làm ở hãng luật Fullerton, Harrison và Leadbetter khi mãn hạn tù.”

“Và sau đó cậu ta chịu sống ngay thẳng?”

“Chuyện đó thì không có gì chứng minh. Theo như các cấp trên của cậu ấy thì là vậy, nhưng cậu ta từng dính vào vài vụ giao dịch đáng ngờ với bạn bè. Người như cậu ta, có thể gọi là hay ăn vụng nhưng biết cẩn thận chùi mép.”

“Vậy còn khả năng khác?”

“Là nạn nhân có thể bị một người trong đám bạn không được thanh sạch kia đâm chết. Một khi ông đã vướng vào một đám hư hỏng như vậy thì coi như ông tự chuốc lấy nhát dao ấy nếu dám từ chối họ.”

“Còn gì nữa không?”

“Còn, cậu ta có một khoản khá trong tài khoản ngân hàng. Được gửi vào bằng tiền mặt. Không có đầu mối nguồn tiền. Riêng ở điểm này cũng khả nghi.”

“Liệu có thể là biển thủ từ hãng luật Fullerton, Harrison và Leadbetter hay không?” Poirot gợi ý.

“Họ nói là không. Họ đã cử một tay kế toán có nghề để kiểm tra lại và xem xét mọi thứ.”

“Cảnh sát không tìm được bất cứ khả năng nào về nguồn gốc của khoản tiền đó hay sao?”

“Không.”

“Vụ này theo tôi,” Poirot nói, “cũng không phải là vụ giết người Joyce nhắc đến.”

Rồi ông đọc cái tên cuối cùng: “Janet White.”

“Được tìm thấy ở một con đường đất, chính là đường tắt từ trường làng về nhà. Bị bóp cổ. Cô ta sống chung nhà với một giáo viên khác, Nora Ambrose. Theo như lời của Nora Ambrose thì Janet White thỉnh thoảng có kể là mình cảm thấy bất an về một gã bạn trai cũ nào đó đã chia tay được một năm. Hắn ta thường gửi thư đe dọa. Chẳng ai tìm được manh mối gì về gã này. Nora Ambrose không biết tên hắn, cũng không biết chính xác nơi hắn ở.”

“Aha,” Poirot reo lên, “tôi thích vụ này hơn.”

Rồi ông thám tử đánh dấu thật đậm vào tên Janet White trên giấy.

“Vì sao?” Spence thắc mắc.

“Vì một cô bé tầm tuổi Joyce dễ chứng kiến một vụ giết người như thế này hơn. Cô bé có thể nhận dạng được nạn nhân, là một giáo viên mình quen và có thể từng dạy cô bé nữa. Có khả năng Joyce không biết kẻ tấn công, mà chỉ nhìn thấy vụ giằng co, nghe phong thanh đôi lời cãi vã giữa cô gái mình quen và một kẻ lạ mặt. Nhưng khi đó Joyce không nghĩ ngợi gì nhiều. Janet bị giết khi nào vậy?”

“Cách đây hai năm rưỡi.”

“Thời điểm đó cũng khớp.” Poirot nói. “Có lẽ Joyce đã không nhận ra khi gã lạ mặt ấy đặt tay lên cổ Janet không chỉ đơn thuần là ôm ấp, mà thật ra là đang bóp chết cô ấy. Nhưng sau đó khi lớn lên và đã biết suy nghĩ hơn, thì cô bé mới hiểu ra ý nghĩa chính xác của hành động ấy.” Dứt lời ông nhìn sang Elspeth: “Bà có đồng tình với lập luận của tôi?”

“Tôi hiểu ý ông,” Elspeth nói. “Nhưng hình như ông đang đi sai hướng thì phải? Sao lại đi tìm kiếm nạn nhân của một vụ giết người trong quá khứ mà không tìm kẻ đã gây ra cái chết của một đứa bé ở ngay Woodleigh Common cách đây mới hơn ba ngày?”

“Chúng ta đi từ quá khứ đến tương lai,” Poirot trả lời. “Có thể nói chúng ta đã đi từ hai năm rưỡi cho đến ba ngày trước. Và vì thế, chúng ta phải cân nhắc chuyện mà bà chắc chắn đã suy nghĩ tới, đó là ai ở Woodleigh Common này có mặt ở bữa tiệc hôm đó, và từng liên quan đến một tội ác trong quá khứ?”

“Giờ thì ta có thể khoanh vùng tình nghi hẹp hơn rồi,” Spence nói. “Đó là nếu chúng ta chấp nhận suy đoán của ông là đúng, về việc Joyce bị giết vì tuyên bố từng chứng kiến một vụ giết người. Cô bé đã nói như vậy trong thời gian chuẩn bị tiệc. Xin hãy lưu ý là chúng ta cũng có thể sai lầm khi tin đó chính là động cơ giết người, nhưng tôi có cảm giác chúng ta không đi sai đường. Vậy có thể nói, Joyce tuyên bố đã từng nhìn thấy một vụ giết người, và kẻ nào có mặt trong lúc chuẩn bị tiệc chiều hôm đó đã nghe thấy và nhanh chóng ra tay.”

“Những ai có mặt?” Poirot nói. “Tôi đoán chắc ông cũng biết.”

“Tôi có nắm được, và đã lên danh sách cho ông đây.”

“Ông đã kiểm tra danh sách kỹ càng?”

“Phải, tôi đã kiểm tra đi kiểm tra lại, nhưng khá vất vả. Đây là danh sách mười tám cái tên cả thảy.”

Danh sách những người có mặt khi chuẩn bị bữa tiệc Hallowéen:

Bà Drake (gia chủ)

Bà Butler

Bà Oliver

Cô Whittaker (giáo viên)

Mục sư Charles Cotrerell (mục sư sở tại)

Simon Lampton (phó tế)

Cô Lee (người bào chế thuốc cho bác sĩ Ferguson)

Ann Reynolds

Joyce Reynolds

Leopold Reynolds

Nicholas Ransom

Desmond Holland

Beatrice Ardley

Cathie Grant

Diana Brent

Bà Garlton (giúp việc chủ nhà)

Bà Minden (dọn dẹp)

Bà Goodbody (giúp việc)

“Ông chắc chắn đây là toàn bộ những người ở đó?”

“Không,” Spence đáp. “Không chắc chắn lắm. Tôi cũng không thể kiểm tra chắc chắn được. Chẳng ai có thể đảm bảo danh sách này đúng tuyệt đối. Ông hãy hiểu cho, nhiều người ra vào lẻ tẻ để đem đồ đến góp cho bữa tiệc. Người thì đem bóng đèn màu đến. Người thì cầm tới vài cái gương. Rồi người thì đem thêm đĩa. Vài người khác lại cho mượn xô nhựa. Có những người đem đồ đến, nói với nhau vài ba câu rồi lại đi. Họ không ở lại giúp. Vì thế có thể còn sót ai đó mà mọi người không nhớ là đã có mặt khi ấy. Nhưng chính kẻ đó, kể cả chỉ là đến cửa nhà để đưa một cái xô thôi, cũng có thể đã nghe được lời Joyce nói trong phòng khách vọng ra. Khi ấy cô bé nói oang oang như thét, ông biết đấy. Không thể giới hạn được số người trong danh sách này, nhưng chúng tôi đã nỗ lực hết sức. Đây ông xem đi. Tôi có viết một tóm tắt ngắn về mỗi người bên cạnh tên của họ.”

“Tôi xin cảm ơn. Tôi muốn hỏi một câu. Ông hẳn đã thẩm vấn vài người trong đây, ví dụ như những người cùng đến dự tiệc. Liệu có ai, bất cứ ai, nhắc đến chuyện Joyce nói về việc từng nhìn thấy một vụ giết người?”

“Tôi nghĩ là không. Trong hồ sơ chính thức của vụ án cũng không ghi chép gì về chuyện này. Lúc ông kể ra cũng là lần đầu tiên tôi được nghe.”

“Thật là lạ,” Poirot nói. “Hẳn cũng phải có người nhớ chứ.”

“Rõ ràng chẳng ai để tâm đến câu nói ấy,” Spence nói.

Poirot gật đầu, ngẫm nghĩ, rồi nói:

“Giờ tôi phải đi gặp bác sĩ Ferguson như đã hẹn, sau ca mổ của ông ấy.”

Ông gập tờ danh sách Spence đưa cho và nhét vào túi.