← Quay lại trang sách

Chương 14

Gia nhân mở cửa cho Hercule Poirot vào Biệt thự Vườn Táo, dẫn ông vào phòng tiếp khách và thông báo bà Drake sẽ ra gặp ông ngay.

Khi đi qua sảnh, Poirot nghe thấy tiếng phụ nữ trò chuyện rì rầm sau cánh cửa một căn phòng mà ông đoán là phòng ăn.

Poirot bước đến cửa sổ phòng khách, mắt lướt nhìn khu vườn đẹp được cắt tỉa gọn gàng bên ngoài. Khu vườn được thiết kế trồng cây rất đẹp và có vẻ được chăm sóc thường xuyên. Những khóm cúc tây của mùa thu vẫn còn nở rực rỡ, được cột chặt vào cọc; hoa chỉ cúc vẫn chưa tàn. Vài đóa hồng vẫn bướng bỉnh nở rực rỡ, như thách thức mùa đông đang tới gần.

Nhưng Poirot nhận thấy dường như khu vườn không có bàn tay thiết kế của thợ xây vườn cảnh chuyên nghiệp. Toàn bộ đều là cắt tỉa và chăm sóc thông thường, ông tự hỏi liệu bà Drake có phải là người mà Michael Garfield phải bó tay không. Anh ta hẳn đã ra sức thuyết phục nhưng vô ích. Nơi đây vẫn giữ được nguyên vẹn vẻ đẹp của khu vườn ngoại ô được chăm sóc tỉ mỉ.

Cánh cửa bật mở.

“Xin lỗi đã để ông đợi lâu, ông Poirot,” bà Drake cất lời.

Ngoài sảnh vọng vào tiếng rì rầm nhỏ dần, các vị khách hình như đang ra về.

“Là cho lễ Giáng sinh ở nhà thờ,” bà Drake giải thích. “Chúng tôi đang họp hội đồng để bàn kế hoạch cho ngày hôm đó và mọi thứ. Những cuộc họp thế này thường tốn nhiều thời gian hơn bình thường, tất nhiên. Mọi người cứ thay phiên phản đối ý tưởng của nhau, hoặc đưa ra những ý tưởng họ cho là hay - mà ý tưởng hay thường là bất khả thi.”

Giọng bà pha chút gay gắt. Poirot có thể tưởng tượng được cảnh Rowena Drake quyết liệt và thẳng tay bác bỏ các ý kiến ngớ ngẩn như thế nào. Từ lời nhận xét của chị gái thanh tra Spence và từ thái độ của mọi người khi nhắc đến bà, cộng thêm nhiều nguồn khác xác nhận, ông Poirot đủ hiểu rằng Rowena Drake thuộc dạng người có cá tính lấn át và hay áp đặt người khác. Ai cũng muốn dựa vào bà để điều hành công việc, nhưng không mấy ai ưa bà khi bắt tay vào làm. Ông cũng đoán được là người cô cao tuổi Llewellyn-Smythe có lẽ không ưa sự tận tâm của cô cháu dâu Drake này, dù hai người có cùng tính cách. Bà Llewellyn-Smythe, như ông được biết, đã chuyển đến đây để sống gần cháu trai và cháu dâu, và bà Drake cũng sẵn sàng đảm đương việc chăm sóc và trông nom bà cô, miễn là không phải trực tiếp xuất hiện trong căn nhà. Bà Llewellyn-Smythe trong thâm tâm có lẽ cũng biết mình nợ Rowena rất nhiều, nhưng đồng thời chắc chắn bà ấy cũng căm ghét kiểu làm việc thích ra lệnh và áp đặt của cô cháu dâu.

“Giờ thì, khách đã về cả rồi,” Rowena Drake nói sau khi nghe tiếng cánh cửa đóng cuối hành lang. “Tôi có thể giúp gì cho ông đây? Ông muốn biết thêm thông tin về bữa tiệc kinh khủng đó? Giá mà từ đầu tôi không chọn tổ chức tiệc ở đây. Nhưng cũng chẳng còn nhà nào hợp hơn cả. Bà Oliver vẫn lưu lại nhà Judith Butler chứ?”

“Vâng. Theo tôi biết thì trong một hai ngày tới bà ấy sẽ quay về London. Hai người trước đó chưa từng gặp nhau sao?”

“Chưa. Nhưng tôi rất thích các tác phẩm của bà ấy.”

“Theo tôi biết thì bà Oliver được coi là một cây bút xuất sắc.”

“À, bà ấy thực sự là một nhà văn xuất sắc. Chuyện đó thì không ai nghi ngờ. Bà ấy cũng là người hết sức hài hước. Không biết bà Oliver có đoán được, ý tôi là nghi ngờ ai đó có thể dính líu đến vụ này hay không.”

“Tôi nghĩ là không. Thế còn bà thì sao, thưa bà”

“Tôi đã nói với ông rồi. Tôi hoàn toàn không nghi ngờ ai cả.”

“Vâng, bà nói vậy tôi không thắc mắc. Tuy nhiên biết đâu trong đầu bà cũng lờ mờ có những hình dung về một giả thuyết nào đó, một ý nghĩ chẳng hạn. Một ý nghĩ vẫn còn trong trứng nước. Một ý nghĩ khả dĩ nào đó.”

“Tại sao ông lại nghĩ vậy?”

Bà nhìn ông tò mò.

“Có thể bà đã nhìn thấy gì đó - một chi tiết nho nhỏ và tưởng như vô nghĩa, nhưng càng ngẫm lại thì bà càng thấy nó đáng ngờ và có thể là quan trọng hơn bà tưởng.”

“Chắc ông đang muốn ám chỉ điều gì, thưa ông Poirot, về một sự việc cụ thể nào đó chẳng hạn.”

“Đúng vậy, tôi xin thừa nhận. Vì có người kể với tôi.”

“Ra là vậy! Là ai thế?”

“À, cô Whittaker. Một giáo viên.”

“À phải, tất nhiên rồi. Elizabeth Whittaker. Giáo viên dạy toán ở trường Elms phải không? Đúng là cô ấy đã đến dự bữa tiệc, tôi còn nhớ. Cô ấy thấy gì sao?”

“Không hẳn cô ấy đã thấy gì, mà là cô ấy nghĩ rằng bà hẳn đã thấy gì đó.”

Bà Drake tỏ vẻ ngạc nhiên và lắc lắc đầu.

“Tôi hoàn toàn không thể nhớ được mình có thể đã thấy gì quan trọng,” Rowena Drake nói, “nhưng ai mà biết chắc được chứ?”

“Nó liên quan đến một chiếc bình,” Poirot gợi ý. “Bình cắm hoa.”

“Một chiếc bình cắm hoa sao?” Rowena Drake nhíu mày khó hiểu. Và rồi trán bà giãn ra. “À, tất nhiên rồi, tôi nhớ rồi. Phải, đúng là có một chiếc bình cắm lá vàng và hoa cúc tây đặt trên bàn ở góc ngoặt cầu thang. Một chiếc bình thủy tinh rất đẹp. Đó là quà cưới của tôi. Lá cắm trong đó cũng bắt đầu rụng rồi, cả hoa nữa. Tôi nhớ có để ý nó khi đi qua hành lang - khi đó tiệc sắp kết thúc thì phải, tôi cũng không chắc nữa - tôi thắc mắc sao hoa lá đã héo nhanh vậy, nên tôi quay lên cầu thang và nhúng một ngón tay vào trong bình kiểm tra. Hóa ra là một kẻ ngốc nghếch nào đó đã quên không đổ nước vào khi cắm hoa. Tức giận quá tôi bê cái bình vào nhà tắm để đổ đầy nước vào. Nhưng trong nhà tắm thì tôi có thể thấy gì được chứ? Trong đó chẳng có ai cả. Có thể là một hai cô cậu nào đấy từng dắt nhau vào đó để, người Mỹ gọi là âu yếm nhau, trong bữa tiệc, nhưng chắc chắn là khi tôi đem bình vào thì ở đó hoàn toàn không có ai.”

“Không, không, ý tôi không phải là ở đó,” Poirot nói. “Nhưng tôi không nhầm thì đã có một tai nạn nho nhỏ. Chiếc bình tuột khỏi tay bà và rơi xuống hành lang bên dưới, vỡ tan tành.”

“Ồ, phải,” Rowena nói. “Nó vỡ tan. Tôi càng tức giận, vì như tôi đã nói đấy, đó là quà cưới của tôi, và chiếc bình hoa ấy rất đẹp và hết sức hoàn hảo, đủ nặng để giữ cả bó hoa và cành lá mùa thu. Tôi thật ngu ngốc, tự dưng tuột tay. Thế là cái bình rơi ra và vỡ tan tành trên sàn hành lang bên dưới. Elizabeth Whittaker đang đứng gần tôi lúc ấy. Cô ấy đã giúp tôi nhặt các mảnh vỡ và quét dọn vụn thủy tinh để tránh người khác không biết lại giẫm phải. Chúng tôi chỉ quét tạm vào trong góc bên cạnh đồng hồ tủ đứng, để dọn sau.”

Rowena nhìn Poirot hỏi:

“Có phải ý ông là vụ tai nạn đó?”

“Phải,” Poirot đáp. “Theo tôi thấy, cô Whittaker đã tò mò không biết vì sao bà đánh rơi chiếc bình ấy. Cô ấy đoán bà bị giật mình vì điều gì đó.”

“Tôi giật mình?” Rowena Drake nhìn ông thám tử, rồi lại chau mày suy nghĩ. “Không, tôi không nghĩ khi ấy tôi bị giật mình. Chỉ là không may cái bình tuột khỏi tay. Thỉnh thoảng tay chúng ta vẫn bị trơn đấy thôi, theo tôi có lẽ là do người bị mệt quá. Lúc đó tôi đã bắt đầu kiệt sức, sau bao nhiêu công việc lên kế hoạch cho bữa tiệc, rồi lại chuẩn bị bày biện bữa tiệc, rồi bao việc lặt vặt khác nữa. Tiệc hôm đó đã rất suôn sẻ. Theo cảm nhận của tôi là vậy - ôi dào, chỉ là một phút sơ sẩy khi người mệt quá đó mà.”

“Vậy bà chắc chắn không có gì làm cho bà giật mình khi ấy? Ví dụ như bất ngờ nhìn thấy điều gì đó chẳng hạn?”

“Nhìn thấy? Ở đâu cơ? Ở hành lang bên dưới? Tôi chẳng thấy gì ở hành lang cả. Nó vắng hoe vì mọi người đang bận chơi trò Rồng táp, ngoại trừ, tất nhiên là cô Whittaker. Mà hình như tôi còn không nhìn thấy cô ấy đứng đó cho đến khi cô ấy chạy đến giúp.”

“Bà có thấy người nào đó, ví dụ như, bước ra khỏi phòng đọc sách chẳng hạn?”

“Ra khỏi phòng đọc… tôi hiểu ý ông rồi. Phải, có thể tôi đã thấy gì đó,” Rowena nghĩ một hồi lâu, rồi nhìn thẳng vào mắt Poirot, quả quyết. “Tôi không nhìn thấy bất cứ ai rời khỏi phòng đọc sách,” bà khẳng định. “Không một ai cả.”

Poirot lấy làm lạ. Thái độ của Rowena Drake khi nói những lời này khiến ông cảm thấy nghi ngờ, rằng bà đang không nói sự thật, mà ngược lại dường như bà đã nhìn thấy điều gì đó hoặc ai đó, có thể là cánh cửa mở hé, hoặc đơn giản là thoáng thấy một cái bóng bên trong. Nhưng Rowena cương quyết phủ nhận, ông tự hỏi, tại sao lại tỏ ra quyết liệt như vậy? Bởi vì bà đã nhìn thấy một người mà mình không thể tin, dù chỉ một giây, có thể dính líu đến tội ác ở bên kia cánh cửa? Một người bà quan tâm, hoặc một người bà muốn bảo vệ - ông nghĩ khả năng này có vẻ cao hơn. Một ai đó, có thể vẫn còn nhỏ dại, một người mà bà cảm thấy chưa thực sự nhận thức được điều kinh khủng mà họ vừa làm.

Poirot đã nghĩ Rowena Drake là người hà khắc nhưng cũng chính trực. Ông đã nghĩ bà cũng giống kiểu tính cách những phụ nữ thường làm quan tòa, hoặc điều hành hội đồng hoặc hội từ thiện nào đó, hay những người nhiệt tình tham gia vào các hoạt động thường được gọi là “thiện nguyện”. Những phụ nữ này thường dễ yếu lòng trước các tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Thật kỳ lạ là họ sẵn sàng tìm cách bao biện cho những tội phạm trẻ tuổi. Một cậu con trai mới lớn, hay một cô bé tâm thần chậm phát triển. Những đối tượng thuộc diện - là từ gì ấy nhỉ - “cần người bảo hộ”. Nếu đúng là bà ấy đã chứng kiến một người như vậy bước ra khỏi phòng đọc, thì kẻ đó chắc đã tin rằng bản năng che chở của Rowena Drake sẽ giúp hắn ta. Ngày nay trẻ em, thậm chí còn nhỏ tuổi, phạm tội không còn là chuyện lạ. Có những đứa trẻ chỉ tầm bảy tám chín tuổi. Và thường rất khó xử lý những tên tội phạm nhỏ tuổi bẩm sinh này khi đưa chúng ra tòa án vị thành niên. Người ta luôn đưa ra những lý do bao biện cho hành vi của chúng. Gia đình tan vỡ. Cha mẹ bỏ bê hay không đủ khả năng nuôi dạy. Nhưng những người lên tiếng bênh vực nhiệt tình nhất cho những đứa trẻ này, những người sẵn sàng tìm mọi lý lẽ để bào chữa cho chúng, lại thường là những người như Rowena Drake. Một phụ nữ nghiêm khắc và hay chỉ trích người khác, nhưng lại dễ mềm lòng với những đứa trẻ sai trái.

Về phần mình, Poirot không tán thành điều này. Ông thuộc kiểu người luôn đặt công lý lên hàng đầu. Ông nghi ngờ, vẫn luôn luôn nghi ngờ tác dụng của sự khoan dung - hay đúng hơn là khoan dung quá đà. Kiểu khoan dung quá mức ấy, như ông biết từ kinh nghiệm sống cả ở Bỉ và ở Anh, thường dẫn đến hậu quả tội ác ngày càng tăng, gây ra nhiều cái chết của những nạn nhân vô tội mà lẽ ra họ đã không phải mất mạng nếu như công lý được đặt lên hàng đầu và lòng khoan dung xếp sau.

“Tôi hiểu rồi,” Poirot đáp. “Tôi hiểu rồi.”

“Ông không nghĩ là biết đâu cô Whittaker cũng đã nhìn thấy ai đó đi vào phòng đọc sao?” bà Drake gợi ý.

Poirot hào hứng: “À, bà nghĩ như vậy sao?”

“Theo tôi khả năng ấy là có. Cô Whittaker có thể đã thoáng thấy bóng ai đi qua cửa phòng đọc khoảng năm phút trước chẳng hạn, và sau đó, khi tôi làm rơi bình hoa, cô ấy nghĩ rằng tôi cũng nhìn thấy người đó. Rằng có thể tôi đã nhìn rõ đó là ai. Có lẽ cô ấy không muốn vội đổ tội một ai đó mà mình chỉ thấy loáng thoáng, có thể sợ là không công bằng - nhất là khi chưa đủ để khẳng định chắc chắn. Như cái lưng của một đứa trẻ nào, hay một cậu thanh niên nào đó chẳng hạn.”

“Vậy liệu bà có nghĩ rằng đó là một đứa trẻ, một cô bé hoặc một cậu bé chẳng hạn, hay một thiếu niên không, thưa bà? Bà có nghĩ, dù chúng ta chưa khẳng định gì, có khả năng cao đây là đối tượng gây ra tội ác đó không?”

Rowena suy nghĩ hồi lâu, rồi lên tiếng:

“Có, tôi nghĩ là có. Tôi chưa nghĩ kỹ chuyện này lắm. Tôi thấy có vẻ ngày nay tội phạm ngày càng dính líu đến đám trẻ. Những đứa như vậy thường chưa hiểu rõ chúng đang làm gì, những đứa chỉ muốn làm mấy cái trò trả thù ngu ngốc nào đó, hay những đứa có bản tính thích phá hoại. Ngay như những tên phá bốt điện thoại, hoặc rạch lốp xe, làm những trò điên rồ ấy chỉ để gây sự với người khác, bởi đơn giản không phải chúng căm ghét một cá nhân nào, mà là căm ghét cả thế giới. Giống như một dạng tính cách thất thường của tuổi vị thành niên vậy. Nên tôi cho rằng khi người ta gặp phải những vụ như một đứa trẻ bị dìm chết trong một bữa tiệc không vì lý do nào cả, thì người ta thường hay tin là kẻ thủ ác hẳn vẫn chưa thể chịu trách nhiệm cho hành động của bản thân. Tôi nghĩ đây là khả năng lớn nhất trong vụ án này. Ông có đồng ý với tôi không?”

“Tôi nghĩ cảnh sát cũng cùng suy nghĩ với bà - hoặc họ đã từng tin là vậy.”

“Thì họ phải là người rõ nhất. Ở đây chúng tôi có một đội cảnh sát làm việc rất hiệu quả. Họ đã xử lý rất tốt một số vụ, rất chịu xông pha và không bao giờ bỏ cuộc. Tôi tin cảnh sát sẽ phá được vụ án này, nhưng có thể là không nhanh lắm. Những vụ giết người kiểu này thường mất nhiều thời gian phá án. Riêng thu thập chứng cứ cũng mất nhiều công sức rồi.”

“Bằng chứng cho vụ án này không dễ thu thập đâu,.”Thưa bà''

“Vâng, chắc là không dễ. Khi chồng tôi bị sát hại - ông ấy bị tàn tật, ông biết đấy. Ông ấy đang băng qua đường và bị một chiếc xe đâm gục. Cảnh sát đã không tìm ra kẻ làm chuyện đó. Như ông biết đấy - hoặc cũng có thể ông chưa biết - chồng tôi bị viêm tủy. Căn bệnh làm ông ấy bị liệt một phần cơ thể, từ sáu năm trước. Bệnh tình ông ấy đã có tiến triển, nhưng vẫn tàn phế, thế nên nếu một chiếc xe cố tình lao nhanh về phía chồng tôi thì ông ấy khó có thể tránh kịp. Có lúc tôi đã nghĩ lỗi là do tôi, dù trước đó ông ấy luôn khăng khăng rằng mình có thể tự ra ngoài mà không cần tôi hay ai đi cùng, vì chồng tôi rất ghét cảm giác phải dựa dẫm vào y tá riêng, hoặc để vợ làm y tá riêng chăm sóc. Thêm nữa chồng tôi luôn cẩn thận khi băng qua đường. Dẫu sao thì con người ta vẫn luôn tự trách mình mỗi khi có tai nạn xảy ra.”

“Tai nạn đó xảy ra sau cái chết của cô Llewellyn-Smythe của bà?”

“Không. Bà ấy mất không lâu sau đó. Mọi tai họa dường như luôn ập đến cùng một lúc vậy, có phải không?”

“Đúng vậy,” Hercule Poirot nói. “Cảnh sát không thể lần ra dấu vết chiếc xe đã đâm chồng bà hay sao?”

“Tôi nghĩ có thể đó là một chiếc Grasshopper Mark 7. Ông để ý là bây giờ cứ ba chiếc chạy trên đường thì có một chiếc là Grasshopper Mark 7 - hoặc cách đây vài năm là vậy. Đó là dòng xe phổ biến nhất trên thị trường, họ nói với tôi thế. Cảnh sát cũng nói nó đã bị ăn cắp từ chợ đầu mối ở Medchester. Tại bãi đậu xe ở đó. Chiếc xe thuộc sở hữu của một người đàn ông lớn tuổi tên là Waterhouse, chuyên buôn bán các loại hạt ở Medchester. Ông Waterhouse vốn là một người lái xe chậm và cẩn thận. Chắc chắn đó không phải là người gây tai nạn. Rõ ràng đây là trường hợp một gã trai trẻ vô trách nhiệm nào đó đã chôm xe và lái đi. Những tên vô trách nhiệm như vậy, thậm chí phải nói là nhẫn tâm, lẽ ra phải bị trừng trị. Đôi lúc tôi nghĩ rằng cần dùng hình phạt nặng nề hơn hiện nay.”

“Có lẽ nên là một án tù lâu năm. Nếu chỉ đơn thuần bị phạt tiền, mà thường món phạt đó lại do gia đình họ hàng chiều chuộng chi trả cho, thì chẳng có tác dụng lắm.”

“Người ta phải nhớ rằng,” Rowena Drake tiếp lời, “tuổi trẻ là thời điểm quyết định để trau dồi kiến thức và hình thành nhân cách con người nếu như họ muốn có một cuộc sống tốt đẹp sau này.”

“Lại viện đến vai trò thần thánh của giáo dục,” Hercule Poirot nói. “Ý kiến này tôi đã nghe nhiều,” ông nhanh chóng thêm vào, “từ nhiều người, đặc biệt là những người học thức cao.”

“Có lẽ họ không đủ tiền trợ cấp cho những người trẻ lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn. Từ những gia đình tan vỡ.”

“Vậy bà cho rằng những thanh niên đó cần các phương án khác ngoài án tù?”

“Chế độ cải tạo phù hợp,” Rowena Drake nói quả quyết.

“Và như vậy- (thêm một thành ngữ cổ khác) - ít bột vẫn gột nên hồ? Bà không tin vào câu châm ngôn ‘số phận con người ai cũng đã được an bài’* sao?”

(Câu gốc “The fate of every man have we bound about his neck“ được trích từ lời Chúa nói trong kinh Koran, Quran.)

Bà Drake tỏ vẻ hết sức nghi hoặc và có phần không hài lòng.

“Đó là một châm ngôn trong đạo Hồi, theo như tôi biết,” Poirot giải thích thêm.

Bà Drake không chút ấn tượng với hiểu biết của ông.

“Tôi hy vọng rằng,” bà cất lời, “chúng ta không phải đi mượn tư tưởng - hay thậm chí là lý tưởng - từ Trung Đông.”

“Chúng ta phải chấp nhận thực tế,” Poirot nói, “và có một thực tế do các nhà sinh vật học hiện đại nêu ra - các nhà sinh vật học của phương Tây…” Ông nhanh chóng thêm vào, “…họ đưa ra giả thuyết rằng nguồn gốc cho các hành vi của một cá nhân xuất phát từ cấu trúc gene của anh ta. Rằng nếu một kẻ giết người năm hai mươi tư tuổi thì hắn đã là một kẻ sát nhân tiềm ẩn từ lúc hai, ba tuổi. Điều này cũng áp dụng với những cá nhân xuất chúng như các nhà toán học hoặc thiên tài.”

“Chúng ta đang không bàn đến những kẻ giết người,” bà Drake đáp lại. “Chồng tôi chết là do tai nạn. Một vụ tai nạn do hành vi bất cẩn của một tư cách méo mó. Cậu bé đó, hay chàng trai đó có là ai đi chăng nữa, thì tôi vẫn giữ hy vọng cuối cùng cậu ta sẽ thay đổi, sẽ hiểu rằng một con người sống trên đời phải biết suy nghĩ cho người khác, sẽ được dạy dỗ rằng phải biết cắn rứt lương tâm nếu như mình vô tình giết chết người khác, đơn thuần chỉ là vô ý phạm tội, mà không phải tội cố ý giết người?”

“Vậy là bà chắc chắn đó không phải là cố ý phạm tội?”

“Tôi không tin có kẻ cố tình giết chồng tôi,” bà Drake tỏ vẻ hơi ngạc nhiên. “Tôi nghĩ cảnh sát cũng không thực sự cân nhắc đến khả năng này bao giờ. Tôi chắc chắn là không rồi. Đó là một tai nạn. Một tai nạn hết sức thảm khốc. Nó đã làm thay đổi cuộc đời của rất nhiều người, trong đó có cả tôi.”

“Bà nói vụ việc này không có hung thủ cố ý giết người,” Poirot nói. “Nhưng trong cái chết của Joyce thì chắc chắn phải có kẻ sát nhân rồi. Đó hoàn toàn không phải là một tai nạn. Có kẻ đã cố ý dùng tay ghì chặt đầu cô bé xuống nước cho đến khi nạn nhân chết hẳn. Một hành vi tàn nhẫn có chủ ý.”

“Tôi biết. Tôi biết. Thật kinh khủng. Tôi không muốn nghĩ đến chuyện đó, tôi không muốn ai nhắc đến nó cả.”

Rowena đứng dậy và chuẩn bị bỏ đi, nhưng Poirot vẫn tiếp tục nói:

“Chúng ta ở đây vẫn còn một lựa chọn. Chúng ta vẫn có thể tìm ra động cơ đằng sau hành động đó.”

“Như tôi thấy thì những tội ác thế này chắc chẳng có động cơ nào.”

“Ý bà kẻ thủ ác là một kẻ tâm thần bất bình thường, bệnh hoạn đến mức tìm niềm vui bằng việc giết người khác? Ví như giết chết nạn nhân nào đó còn nhỏ tuổi.”

“Người ta vẫn nghe về những vụ như thế suốt. Khó mà tìm ra được nguyên nhân đằng sau hành động đó. Ngay cả các chuyên gia tâm thần cũng không hiểu được.”

“Bà không muốn chấp nhận một cách lý giải đơn giản hơn sao?”

Rowena Drake nhìn Poirot khó hiểu.

“Đơn giản hơn?”

“Là kẻ đó không bị thần kinh, không phải là một vụ mà các nhà tâm thần học không thể lý giải. Một kẻ nào đó làm vậy chỉ vì muốn bản thân được an toàn.”

“An toàn? Ồ, ý ông là…”

“Trong ngày hôm đó, trước đó chỉ vài giờ, cô bé đã khoe rằng mình từng chứng kiến một người khác giết người.”

“Joyce,” bà Drake đáp lại bằng vẻ chắc chắn và bình tĩnh, “là một cô bé rất ngốc nghếch. Và tôi e rằng không phải lúc nào cũng đáng tin.”

“Mọi người đều nói vậy với tôi,” Hercule Poirot nói. “Tôi bắt đầu tin rằng đó là sự thật,” ông nói thêm, kèm tiếng thở dài. “Thường là vậy.”

Poirot đứng dậy, chuyển giọng dịu xuống:

“Tôi phải xin lỗi. Thưa bà Từ nãy đến giờ tôi toàn gợi cho bà những chuyện đau buồn, dù những chuyện này không có can hệ đến tôi. Nhưng theo lời cô Whittaker nói với tôi thì hình như….”

“Tại sao ông không hỏi thêm cô ấy?”

“Ý bà là…”

“Cô ấy là giáo viên. Cô ấy hẳn hiểu rõ hơn tôi về khả năng có sát nhân tiềm ẩn (như lời ông nói) trong đám trẻ cô ấy dạy.” Rowena ngừng một lúc, rồi tiếp: “Cả cô Emlyn nữa.”

“Cô hiệu trưởng?” Poirot ngạc nhiên hỏi lại.

“Phải. Cô ấy cũng biết nhiều chuyện. Ý tôi là, cô ấy là một chuyên gia tâm lý bẩm sinh, ông nói tôi có thể có những phỏng đoán - những ý nghĩ còn trong trứng nước - về kẻ giết Joyce. Tôi thì không có - nhưng có thể cô Emlyn có đấy.”

“Thật thú vị…”

“Ý tôi không phải là có bằng chứng. Mà cô ấy có thể biết gì đó. Chính cô ấy có thể tiết lộ cho ông - nhưng tôi không nghĩ là cô Emlyn sẽ nói ra đâu.”

“Tôi mới nhận ra,” Poirot nói. “Tôi vẫn còn cả một quãng đường dài phía trước. Mỗi người đều biết cái gì đó - nhưng sẽ chẳng ai chịu nói với tôi cả.” Dứt lời ông nhìn Rowena Drake đầy ẩn ý. “Cô của bà, bà Llewellyn-Smythe, từng có một cô au pairô-pe bên cạnh chăm sóc, một cô gái người nước ngoài.”

“Có vẻ ông đã nghe ngóng được mọi chuyện đàm tiếu trong vùng rồi,” Rowena lạnh lùng đáp. “Phải, đúng vậy. Cô ta bỏ đi khá đột ngột sau khi cô tôi mất.”

“Lý do có vẻ cũng dễ hiểu.”

“Tôi không biết nói thế này có phải là vu khống hay phỉ báng người khác không - nhưng có vẻ cô ta chắc chắn đã làm giả một bản di chúc bổ sung thay cho bản của cô tôi - hoặc là có người đã giúp cô ta làm vậy.”

“Có người khác sao?”

“Cô ta từng thân thiết với một anh chàng làm việc cho văn phòng tư vấn pháp luật ở Medchester. Trước đây cậu ta từng dính vào một vụ giả mạo giấy tờ. Vụ việc này chưa ra được đến tòa do cô ta bỗng dưng biến mất. Cô ta nhận ra tờ di chúc đó không được chấp nhận là một bản di chúc có giá trị pháp lý, và sự việc sẽ được đưa ra tòa. Cô gái đó đã bỏ đi và không ai nghe tin tức gì từ đó.”

“Cô ấy, như tôi nghe nói, cũng đến từ một gia đình tan vỡ,” Poirot tiếp lời.

Rowena Drake nhìn ông một cái sắc lẻm, nhưng ông chỉ cười đáp lại.

“Cảm ơn bà đã nói cho tôi biết nhiều điều, thưa bà ” Poirot nói.

Rời khỏi nhà Rowena Drake, Poirot đi bộ một quãng ngắn ra tới đường lớn, rồi lại rẽ vào một con đường nhỏ gắn biển tên “Đường Nghĩa trang Helpsly”. Chẳng mấy chốc ông đã đến nghĩa trang ghi trên tấm biển, mất khoảng mười phút đi bộ. Nơi này rõ ràng mới được xây dựng khoảng mười năm trở lại đây, có lẽ là để đáp ứng cho số lượng dân định cư ngày một nhiều ở Woodleigh. Nhà thờ ở đây diện tích vừa đủ, mới được xây dựng khoảng hai, ba thập kỷ trước và khoảng đất rất nhỏ bao quanh nó đã kín chỗ người yên nghỉ. Vậy nên người ta đã mở ra một khu nghĩa trang mới, nối với nhà thờ cách đó hai cánh đồng bằng một con đường đất nhỏ. Một nghĩa trang hiện đại được sắp xếp khoa học và thực tế, Poirot nghĩ trong đầu, với đá cẩm thạch và granite tạo không gian tôn kính và trầm lắng; với các bình đựng tro cốt, lối đi rải sỏi, các cây bụi nhỏ và hoa. Không có các bia mộ hình thù độc đáo hay các câu khắc trên bia thú vị. Chẳng có gì giá trị cho những nhà nghiên cứu và sưu tầm đồ cổ ở đây. Nghĩa trang này được dọn dẹp sạch sẽ, gọn gàng, ngay ngắn, với không khí thành kính chuẩn mực bao trùm.

Tất cả các ngôi mộ đều đề ngày tháng khoảng hai hoặc ba năm trước. Poirot dừng lại đọc tấm bia dựng trên một ngôi mộ còn mới so với xung quanh. Khắc trên đó dòng chữ đơn giản: Tưởng nhớ Hugo Edmund Drake, người chồng yêu dấu của Rowena Arabella Drake, đã từ trần vào ngày 20 tháng 3 năm 19...

Vẫn còn nguyên cảm xúc sau cuộc gặp với người phụ nữ hét ra lửa Rowena Drake ít phút trước, Poirot bỗng có cảm giác có lẽ giấc ngủ ngàn thu này là lối thoát nhẹ nhàng mà ông Drake quá cố đã chờ đợi từ lâu.

Trên mộ là một bình đựng tro bằng thạch cao tuyết hoa, cạnh đó là những bông hoa đã tàn. Một người làm vườn lớn tuổi, có vẻ được thuê để chăm nom cho ngôi mộ của những công dân khả kính trong vùng, đặt cuốc và chổi xuống, tiến lại gần Poirot bắt chuyện.

“Người mới đến đây,” ông ta cất tiếng, “tôi đoán có phải không, thưa ngài?”

“Đúng vậy,” Poirot đáp. “Tôi là người lạ với ông, cũng như với những người đang an nghỉ trước mặt tôi đây.”

“À, này. Ở đây có câu giống vậy cũng được khắc trên mộ nào đó. Ở góc bên kia kìa.” Rồi ông lão nói tiếp, “Ông Drake là một người tử tế. Bị tàn tật, chắc ông có biết, ông ấy bị bệnh bại liệt trẻ em, ấy là họ gọi như vậy, dù thông thường không chỉ trẻ em mới mắc phải. Cả người lớn cũng bị. Đàn ông hay phụ nữ. Vợ tôi có bà cô cũng bị mắc bệnh ấy ở Tây Ban Nha. Đi du lịch tới đó, bà cô ấy, rồi tắm ở sông nào đấy. Sau đó người ta chẩn đoán là nhiễm trùng từ nước, nhưng tôi không nghĩ mấy người đó bắt được đúng bệnh. Là nói các bác sĩ ấy. Nhưng giờ thì khác rồi. Có mấy thứ thuốc họ chích ngừa cho bọn trẻ con. Giờ không còn nhiều người mắc như ngày xưa nữa. Phải, ông ấy là người rất tử tế và chẳng kêu ca nửa lời, dù rất khổ sở với nó, ý tôi là bại liệt ấy. Ông Drake từng là vận động viên thể thao rất cừ, hồi còn trẻ khỏe ấy. Từng đánh bóng cho đội criket của làng. Bao nhiêu trái ăn điểm sáu tuyệt đối ông ấy đánh ra đến đường biên sân. Phải, một người đàn ông tốt.”

“Ông ấy mất vì tai nạn, có phải không?”

“Đúng vậy. Băng qua đường, lúc trời chạng vạng tối. Một chiếc xe ô tô lao tới. Lại mấy thằng trẻ du thử du thực lái xe, tóc tai bờm xờm. Ấy là họ kể thế. Chúng nó cũng không thèm ngừng xe. Cứ thế đi tiếp. Không buồn quay lại xem. Rồi bỏ cái xe lại ở một bãi đậu cách đây hai mươi dặm. Cũng chẳng phải xe chúng nó. Chôm chỉa được ở bãi đậu xe nào đó. Ôi cha, thật tệ hại, giờ nhiều tai nạn như vậy quá. Mà cảnh sát thường cũng không làm gì được bọn nó. Bà vợ chăm sóc ông ấy rất chu đáo. Bị như vậy bà ấy suy sụp lắm. Tuần nào bà ấy cũng tới viếng, mang theo hoa đặt lên mộ. Phải, vợ chồng nhà ấy quan tâm nhau lắm. Nếu ông hỏi tôi, thì tôi đoán bà ấy không định ở đây lâu đâu.”

“Vậy sao? Nhưng ở đây bà ấy có ngôi nhà đẹp như vậy.”

“Phải, ồ phải. Và bà ấy cũng năng giúp nhiều việc cho địa phương lắm, ông biết đấy. Mấy trò tổ chức này nọ - hội nhóm của các bà các cô, tiệc trà và các buổi giao tế các thứ. Bà ấy đứng ra chỉ đạo tổ chức nhiều công chuyện lắm. Thậm chí chỉ đạo hơi quá mức với nhiều người. Dạng hách dịch, thích ra lệnh cho người khác, hay can thiệp, nhiều người vẫn nói thế. Nhưng mục sư ở đây dựa cả vào bà ấy. Bà ấy khởi xướng nhiều hoạt động. Sinh hoạt cho phụ nữ các thứ. Tổ chức các chuyến dã ngoại và du lịch. À phải. Tôi vẫn thường nghĩ, dù tôi chẳng dám nói với bà vợ ở nhà đâu, là mấy công việc hay ho đẹp đẽ các bà hay làm ấy, chẳng khiến các ông chồng yêu mến thêm gì các bà đâu. Lúc nào cũng đòi biết tuốt. Lúc nào cũng bảo các ông phải làm cái này với không được làm cái kia. Chẳng tự do gì cả. Giờ chẳng đâu có tự do hết.”

“Nhưng ông nghĩ bà Drake có thể sẽ rời khỏi đây sao?”

“Tôi đoán bà ấy sẽ chuyển ra nước ngoài sống. Họ thường thích đi nước ngoài, từng đi du lịch cùng nhau.”

“Tại sao ông nghĩ bà ấy muốn rời đi?”

Một nụ cười ranh mãnh bỗng hiện lên trên gương mặt người quản trang.

“À thì, tôi thấy bà ấy đã làm mọi thứ ở đây rồi. Nói theo kinh thánh thì bà ấy cần tìm vườn nho khác để chăm. Bà ấy cần thêm công chuyện khác để làm. Vùng này thì chẳng còn nhiều công chuyện cho bà ấy nữa. Bà Drake đã làm tất cả rồi, người ta còn nói là đã làm hơn tất cả những gì cần làm ấy.”

“Bà ấy cần nơi mới để tìm công chuyện sao?” Poirot hỏi lại.

“Ông hiểu rồi đấy. Nên chuyển đến nơi nào còn công chuyện để bà ấy có thể tiếp tục điều hành xuất sắc, bắt nạt được thật nhiều người khác. Bà ấy đã biến nơi đây thành nơi mình muốn rồi, chẳng còn nhiều việc để làm nữa.”

“Có lẽ đúng là vậy,” Poirot nói.

“Thậm chí chẳng còn chồng để mà chăm sóc. Bà Drake chăm chồng được mấy năm rồi cơ đấy. Có thể nói việc chăm sóc ông Drake đã trở thành một công việc chính của bà ấy. Cộng thêm mấy hoạt động bên ngoài nữa, bà Drake cũng đủ bận rộn tối ngày. Bà ấy thuộc kiểu người thích làm việc luôn chân luôn tay. Mà hai người ấy cũng không có con cái, càng thêm tội nghiệp. Thế nên tôi nghĩ bà Drake ấy sẽ chuyển đến nơi khác sống và làm lại từ đầu.”

“Chắc ông có biết chuyện gì đó. Bà ấy sẽ đi đâu mới được?”

“Chuyện đó thì tôi không biết. Có thể đến mấy chỗ ở Riviery ấy - hoặc là đâu đó ở Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha, hay Hy Lạp - tôi từng nghe bà Drake nhắc đến Hy Lạp và mấy đảo gì đó. Như bà Butler, bà ấy từng đến Hy Lạp theo mấy tour người ta tổ chức ấy. Hellenic, họ đặt tên là thế, tên gì tôi nghe cứ như là lửa đốt lưu huỳnh ấy.” Poirot mỉm cười.

“Đảo của Hy Lạp,” ông lẩm bẩm, rồi hỏi người quản trang: “Ông có quý mến bà ấy không?”

“Bà Drake à? Nói quý mến cũng không hẳn. Bà ấy là một người tốt. Luôn làm tròn trách nhiệm với xóm giềng các thứ - nhưng bà ấy luôn cho mình quyền đứng trên chỉ đạo mọi người - và nếu ông hỏi tôi, thì chẳng ai thích những người luôn nhúng tay vào mọi việc cả. Đòi chỉ tôi cả cách tỉa khóm hồng nhà tôi, mà chuyện đó tự tôi cũng biết cách làm. Lúc nào cũng nói tôi cần phải trồng các giống rau mới. Với tôi cải bắp là đủ rồi, nên tôi cứ trồng cải bắp thôi.”

Poirot lại mỉm cười, nói: “Tôi phải đi có việc rồi. Ông chỉ cho tôi đi đường nào tới chỗ Nicholas Ransom và Desmond Holland sống được không?”

“Đi qua nhà thờ, nhà thứ ba bên tay trái. Hai tên đó trọ nhà cô Brand, ngày nào cũng đến trường Medchester Technical để học. Giờ chắc về nhà rồi đấy.” Ông già quản trang nhìn Poirot tò mò, nói: “Vậy ra ông cũng nghĩ theo hướng đó, có phải không? Đã có người cũng nghĩ như thế rồi đấy.”

“Không, tôi chưa nghĩ gì cả. Nhưng họ cũng có mặt hôm đó, vậy thôi.”

Poirot rảo bước đi, đầu mải miết suy nghĩ. “Những người dự tiệc, ta đã đi gặp gần hết danh sách rồi.”