Chương 16
Hercule Poirot nhìn gương mặt bà Goodbody, vẻ lạ lẫm. Quả là một gương mặt lý tưởng cho vai phù thủy. Ngay cả tính cách hết sức hòa nhã đáng mến của bà cũng không đủ sức xua tan đi ấn tượng từ vẻ ngoài ấy. Bà Goodbody say sưa thuật lại cho Poirot bằng giọng hào hứng.
“Vâng, đúng là tôi có mặt ở đó. Tôi luôn đóng vai phù thủy trong các dịp lễ tiệc trong vùng. Năm ngoái mục sư còn khen tôi, nói là tôi đã nhập vai quá xuất sắc nên sẽ tặng tôi một chiếc nón gắn chuông mới làm quà. Nón phù thủy cũng sờn cũ như mọi món đồ khác thôi. Phải, hôm tiệc Halowe'en tôi cũng có mặt. Tôi giúp sáng tác các bài thần chú, ông biết đấy. Ý tôi là bài thần chú dành cho từng cô gái một, với tên thánh của các em được nhắc trong đó. Một bài cho Beatrice, một bài cho Ann, cứ thế. Rồi tôi đưa chúng cho người giả giọng linh hồn và họ đọc lớn cho cô gái cầm gương nghe, và hai chàng trai, Nicholas và Desmond bậc thầy, làm cho các tấm ảnh ghép bay ra lơ lửng. Làm tôi suýt chết ngất vì cười, mấy lần liền. Nhìn hai cậu bé thay nhau dính râu tóc lên mặt và tự chụp ảnh cho nhau. Và mấy bộ đồ hai thằng bé mặc nữa! Hôm trước tôi có thấy cậu Desmond bậc thầy ấy, ông không thể tin nổi cậu ta mặc gì đâu. Áo khoác hồng và quần chẽn nâu vàng. Hạ đo ván các cô gái về độ thời trang. Các cô nàng chỉ biết diện mấy cái váy càng ngắn càng tốt, mà thế vẫn chưa đủ, vì bên trong còn phải mặc thêm mấy lớp nữa. Tôi chẳng hiểu sao họ lại thích diện mấy món mà họ gọi là quần tất với áo bó. Ngày xưa chúng tôi chỉ dùng chúng cho các cô biểu diễn hợp xướng - thế mà giờ các cô gái trẻ đổ cả đống tiền vào đó. Nhưng các cậu thanh niên này - chà chà, họ mặc đồ đẹp rực rỡ như mấy chú chim công và chim bói cá ấy, hay là mấy loài chim đến từ thiên đường vậy. Ôi trời, tôi thích những thứ có màu sắc rực rỡ một chút. Xem mấy tấm hình cổ tôi cứ nghĩ ngày xưa mấy dịp lễ như thế này chắc phải vui lắm. Ông biết đấy, mọi người ai cũng mặc đồ ren, uốn tóc, đội nón rộng vành gắn lông vũ các kiểu. Các cô nàng bây giờ phải xem đấy mà học hỏi. Rồi còn áo bó tay bồng đi với quần chẽn. Bây giờ nhắc đến ngày xưa các cô chỉ nghĩ được đến váy bồng bong bóng thật bự, mà sau này họ gọi là váy phồng, và đeo thêm cổ áo diềm đăng-ten tổ ong! Bà tôi từng kể tôi nghe về các cô chủ của bà ấy - ngày xưa bà tôi là người giúp việc, ông biết đấy, cho một gia đình tử tế thời Nữ hoàng Victoria - và các cô chủ (hình như tôi nhớ là trước cả thời Victoria cơ) - là thời trị vì của vua gì đó đầu trông như quả lê ấy - Billy Ngờ nghệch, có phải không nhỉ, William Đệ tứ - dẫu sao thì các cô chủ, ý là cô chủ của bà tôi, họ phải mặc những chiếc váy trắng bằng vải muslin mỏng, dài xuống tận mắt cá chân, nhìn kiểu đức hạnh và rất cứng nhắc. Nhưng họ có cách là đem thấm nước những chiếc váy ấy để vải dính vào da. Ông biết đấy, như vậy váy sẽ thành xuyên thấu, trưng ra được tất cả những gì bên trong. Thế là họ mặc đồ nhìn có vẻ nhu mì và thùy mị, nhưng vẫn có thể khiến cánh quý ông nhức mắt.”
“Tôi đưa bà Drake mượn quả cầu phù thủy của tôi cho bữa tiệc,” bà Goodbody tiếp. “Mua quả cầu ấy từ một phiên chợ bán đồ cũ ở đâu đó. Tôi đang treo nó ở đằng kia, cạnh ống hút khói, ông thấy không? Màu xanh dương thẫm rất đẹp. Tôi giữ nó trên cửa ra vào.”
“Bà xem bói được không?”
“Tôi không thể nói là không được, có phải không?” bà Goodbody bật cười. “Giới cảnh sát thường không thích trò này. Không phải là họ không thích những thứ tôi bói ra. Chẳng có gì ghê gớm cả. Ở những nơi như thế này, ông luôn biết ai đang yêu đương qua lại với ai, nên việc bói toán cũng không khó lắm.”
“Bà có thể nhìn vào quả cầu phù thủy của bà, đằng kia, để xem ai đã giết Joyce không?”
“Ông có chút nhầm lẫn rồi,” bà Goodbody nói. “Quả cầu pha lê mới dùng để nhìn ra mọi thứ, chứ không phải quả cầu phủ thủy. Nếu tôi nói ông biết tôi nghĩ ai hạ sát cô bé, thì ông sẽ không thích đâu. Ông sẽ nói như vậy là trái tự nhiên. Nhưng thật ra có rất nhiều thứ trên đời này đi ngược lại tự nhiên.”
“Biết đâu bà lại giúp được gì đó.”
“Đây là một nơi sinh sống rất dễ chịu, nhìn chung là vậy. Ý tôi là, mọi người đều tử tế, đa số là vậy, nhưng dù ông có đi đâu chăng nữa thì quỷ dữ luôn trà trộn vào được. Chúng được sinh ra và nuôi dạy theo cách đó.”
“Ý bà là… tà thuật?”
“Không, không phải.” Bà Goodbody tỏ vẻ khinh bỉ. “Mấy thứ tà thuật toàn là vớ vẩn cả, chỉ dành cho những phù thủy thích ăn vận khùng điên và làm những trò ngớ ngẩn. Bày trò làm tình tế thần các thứ. Không, ý tôi là những người đã bị quỷ dữ nhập vào. Những kẻ sinh ra đã xấu xa. Chúng giống như môn đồ của Lucifer* vậy. Sinh ra đã tàn ác nên giết chóc với chúng chẳng có gì là ghê gớm, nhất là khi chúng có thể kiếm lợi từ đó. Chúng muốn gì thì sẽ phải có bằng được. Và để giành được điều đó, chúng sẵn sàng xuống tay không thương xót. Dù bề ngoài mang vẻ đẹp của thiên thần. Có lần một cô bé, chừng bảy tuổi, đã ra tay giết chết em trai và em gái mình. Hai đứa sinh đôi, mới chỉ năm sáu tháng tuổi. Bóp chết hai đứa bé ngay trong nôi.”
Lucifer là một nhân vật trong Kinh Thánh, một Chúa Quỷ có hình hài đẹp đẽ. Kitô giáo sử dụng cái tên Lucifer để chỉ Quỷ Satan trước khi bị sa ngã.
“Chuyện như vậy đã xảy ra ở Woodleigh Common rồi sao?”
“Không, không có, không phải ở Woodleigh Common. Tôi từng gặp chuyện như vậy khi còn ở trên xứ Yorkshire, nếu tôi nhớ không nhầm. Một vụ án khủng khiếp. Cô bé ấy cũng rất xinh xắn. Ông có thể gắn cho nó đôi cánh trắng và cho lên sân khấu hát mừng Giáng sinh, cô bé trông sẽ rất hợp vai thiên thần ấy. Nhưng thực tế lại trái ngược. Tâm địa bên trong nó đã mục nát rồi. Ông sẽ hiểu ý tôi muốn nói gì. Ông cũng là người từng trải. Ông biết rõ thế giới ngoài kia xấu xa như thế nào mà.”
“Ôi trời!” Poirot nói. “Bà nói không sai. Đúng là tôi hiểu quá rõ. Nếu Joyce quả thật đã chứng kiến hành vi giết người…”
“Ai nói cô bé nhìn thấy?” bà Goodbody hỏi.
“Chính Joyce nói vậy.”
“Vậy thì chẳng đáng tin. Con bé ấy rất hay nói dối.” Bà liếc Poirot sắc lẻm. “Ông cũng đâu có tin điều đó, đúng không?”
“Có chứ,” Poirot đáp, “tôi có tin. Có quá nhiều người đã nói như bà, rằng tôi không nên tin lời cô bé.”
“Các gia đình hay nảy sinh những chuyện kỳ lạ,” bà Goodbody nói. “Cứ nhìn nhà Reynolds mà xem. Ông Reynolds làm về nhà đất. Chưa bao giờ làm nên trò trống gì bằng nghề đó, và chắc chắn là sẽ không bao giờ làm được. Còn bà Reynolds, lúc nào cũng lo lắng buồn rầu vì mấy chuyện không đâu. Ba đứa con nhà ấy không ai giống cha mẹ cả. Ann là đứa có đầu óc thông minh. Cô bé học hành ở trường rất giỏi. Thế nào nó cũng sẽ học đến đại học cho xem, tôi cũng không ngạc nhiên, có thể là học sư phạm làm giáo viên. Mà ông cứ để ý sẽ thấy, con bé ấy khá là tự phụ. Đến nỗi chẳng ai chịu nổi nó. Chẳng cậu thanh niên nào thèm nhìn ngó nó đến lần thứ hai cả. Rồi đến Joyce, không thông minh được như Ann, cũng không bằng cả cậu em Leopold, nhưng lại thích tỏ vẻ ta đây. Lúc nào cũng muốn ra cái điều hiểu biết hơn người và làm được những việc người khác không làm được, sẵn sàng nói mọi chuyện để người khác phải ngồi xuống và nghe nó nói. Nhưng ông chớ tin con bé dù chỉ một lời. Vì mười lần thì đến chín là nói dối.”
“Vậy còn cậu em út?”
“Leopold sao? À, thằng bé mới chỉ chín mười tuổi thì phải, nhưng nó cũng khá sáng láng. Tay chân cũng khéo léo nữa. Nó thích mày mò những môn như vật lý, cũng giỏi môn toán. Các giáo viên ở trường đã khá ngạc nhiên về khả năng của Leopold. Phải, thằng bé rất thông minh. Lớn lên nó sẽ thành nhà khoa học cho mà xem. Mà nói ra, nếu nó làm nhà khoa học thật, thì tôi đoán những thứ nó nghiên cứu hoặc chế tạo ra hẳn sẽ là toàn những thứ khủng khiếp, cỡ bom nguyên tử ấy! Leopold thuộc kiểu người thích tìm tòi nghiên cứu, và đầu óc quá thông minh đến mức có thể nghĩ ra những thứ hủy diệt được một nửa thế giới này, trong đó có cả những con người tội nghiệp chúng ta nữa. Ông hãy xem chừng thằng bé Leopold ấy. Nó thích chơi tiểu xảo với mọi người, và hay nghe lỏm lắm. Thích bới móc bí mật của người khác. Tôi hết sức tò mò muốn biết tiền tiêu vặt của nó là từ đâu ra. Chắc chắn không phải từ cha mẹ thằng bé rồi. Họ đâu có dư dả mà cho nó nhiều vậy. Thế mà lúc nào nó cũng có nhiều tiền trong túi. Giấu dưới mấy đôi tất để trong ngăn tủ. Thằng bé hay mua sắm nhiều thứ nữa. Toàn những đồ đắt tiền. Chỗ tiền ấy nó lấy từ đâu ra được nhỉ? Tôi rất tò mò. Tôi đoán là nó phát hiện ra bí mật của người khác rồi bắt họ đưa tiền để nó im lặng.”
Bà Goodbody ngừng lại lấy hơi sau một tràng kể lể, rồi tiếp tục:
“Chà, tôi nghĩ mình đã không giúp gì cho ông được rồi.”
“Bà giúp tôi rất nhiều,” Poirot đáp. “Chuyện gì đã xảy ra với cô gái ngoại quốc bị mọi người đồn là đã bỏ trốn?”
“Chắc là không đi được xa, theo tôi là vậy. Chuông vang đinh đoong, chú mèo rơi xuống giếng mất rồi. (1)Tôi nghĩ thế.”
Chú thích:
Một câu trong bài hát thiếu nhi Ding Dong Dell nổi tiếng của Anh.
Ding, dong, bell
Pussy's in the well
Who put her in?
Little Johnny Green
Who pulled her out?
Little Tommy Stout
What a naughty boy was that
Tried to drown the poor cat