Phần Ii.14.
Câu chuyện về cha con bé Grace Roennfeldt trở thành một trong những chuyện ly kỳ bí ẩn ở hạt Great Southern. Người thì nói rằng chuyện cho thấy kiểu gì cũng không tin bọn Hung được: hẳn anh ta là gián điệp, sau chiến tranh đã bị gọi về Đức. Chuyện anh ta là người Áo cũng không ăn thua. Những người khác, đã quá quen với biển cả, không hề thấy ngạc nhiên: “Trời đất, anh ta nghĩ gì mà lao xuống dòng nước như vậy? Anh ta ấm đầu chắc? Kiểu gì mà chịu quá năm phút nổi.” Người ta còn mơ hồ cho hẳn là Chúa phật ý với sự lựa chọn của Hannah. Tha thứ thì tha thứ, nhưng cứ nghĩ xem đồng bào của anh ta đã gây ra tội gì…
Phần treo thưởng của ông già Potts cũng trở nên ly kỳ. Năm tháng qua đi, phần thưởng lôi kéo người ta từ các bãi vàng, từ phía bắc, từ tận Adelaide, những người ôm mộng làm giàu bằng cách mang đến nhà Potts một mẩu gỗ dạt kèm theo một câu chuyện. Trong mấy tháng đầu, Hannah chăm chú lắng nghe mỗi câu chuyện về dấu vết của hai cha con, cả những chuyện nghe thấy tiếng trẻ con khóc từ bờ biển trong cái đểm định mệnh đó.
Thời gian qua đi, mặc dù vô cùng tha thiết mong tin, Hannah vẫn nhận ra lỗ hổng trong những câu chuyện đó. Khi cô ngỏ ý nói rằng chiếc áo bé gái mà người ta tìm được trên bờ biển không hề giống với áo Grace mặc hôm đó, người đưa tin sẽ ngay lập tức nài nỉ. “Chị nghĩ lại đi! Hẳn chị đang buồn quá. Làm sao chị nhớ rõ được hôm đó con nhỏ mặc gì?” hay “Chị biết không nếu chị chấp nhận bằng chứng thì chị sẽ thấy thanh thản hơn, chị Roennfeldt à.” Rồi họ bắt đầu nói lời chua chát khi Gwen đến tiễn họ ra cửa, mặc cho cô cảm ơn họ đã bỏ công tìm đến và cho mỗi người vài shilling tiền tàu xe.
***
Tháng giêng năm đó hoa nhài lại nở, mùi hương nồng nàn dìu dặt trong không khí. Hannah giờ còn hốc hác hơn, vẫn đi những con đường cũ – dù không thường xuyên như trước – đến đồn cảnh sát, bãi biển, nhà thờ. “Loạn trí thật rồi,” Cảnh sát Garstone lẩm bẩm sau khi cô rời đồn. Ngay cả Cha Norkells cũng lên tiếng khuyên nhủ cô nên tránh ngồi lâu trong gốc tối ở nhà thờ mà nên “tìm Chúa giữa cuộc đời bên ngoài.”
Hai đêm sau buổi tiệc kỷ niệm thành lập hải đăng, Hannah nằm trằn trọc. Cô nghe thấy tiếng bản lề thùng thư kẽo kẹt. Cô nhìn lên đồng hồ, những con số lạnh lùng cho thấy chỉ vừa ba giờ sáng. Chắc là một con chuột túi? Cô lần ra khỏi giường, nhìn qua khe rèm cửa nhưng không thấy gì cả. Trăng còn chưa lên: chung quanh tối đen, chỉ có ánh sáng mờ mờ của những vì sao phủ bụi lên khắp bầu trời. Một lần nữa cô nghe tiếng nắp thùng như leng keng, lần này là do gió lay.
Cô châm một cây đèn bão rồi đi ra cửa trước, cẩn thận để không đánh thức em gái, chỉ hơi mơ hồ làm động mấy con rắn đang tranh thủ đêm tối săn chuột hay cóc nhái. Đôi bàn chân xanh tái không hề gây ra tiếng động trên lối đi.
Nắp trước thùng thư mở đóng nhẹ trong gió, Hannah thoáng thấy bên trong có vật gì đó. Khi đứ đèn tới gần cô thấy một hình bầu dục hiện ra – một gói đồ. Cô lấy ra. Một bọc giấy màu nâu chỉ nhỉnh hơn bàn tay. Cô nhìn quanh xem làm sao gói đồ lại đến đây được, nhưng chỉ có bóng tối bao quanh ngọn đèn, như nắm tay đang thu lại. Cô vội đi vào phòng ngủ, lấy chiếc kéo may cắt sợi dây buộc. Gói đồ ghi địa chỉ người nhận là tên cô, cũng với nét chữ ngay ngắn như trước. Cô mở ra.
Khi Hannah tháo dần các lớp giấy, vật gói bên trong gây tiếng động theo mỗi cử động. Lớp giấy cuối cùng được mở ra. Dưới ánh đèn chập chờn hiện ra chiếc lục lạc bằng bạc mà cha cô đã đặt làm tận Perth cho cháu ngoại. Không thể nhầm được. Những hình thiên thần chạm trên tay cầm. Bên dưới cái lục lạc là một tờ giấy.
Con bé được an toàn. Được yêu thương và chăm sóc. Hãy cầu nguyện cho tôi.
Không có gì hơn. Không có ngày tháng, tên viết tắt, chữ ký.
“Gwen! Gwen, nhanh lên!” Cô gõ rầm rầm lên cửa phòng em gái. “Nhìn này! Con bé còn sống! Grace vẫn còn sống. Chị biết mà!”
Gwen loạng choạng đi ra khỏi giường, chuẩn bị nghe thêm một câu chuyện hoang đường nữa. Nhưng lần này, đối diện với cái lục lạc, cô tỉnh ngay, bởi chính cô đã ngồi với cha tại hiệu Caris Brothers ở tận Perth khi ông nói chuyện đặt làm chiếc lục lạc với người thợ bạc. Cô thận trọng sờ món đồ chơi, như thể nó là quả trứng sắp nở ra con quái vật.
Hannah vừa khóc vừa mỉm cười, rồi cô bật cười thành tiếng, hết nhìn lên trần nhà lại nhìn xuống sàn. “Chị đã nói mà, phải không? Ôi Grace! Nó còn sống!”
Gwen đặt tay lên vai chị. “Khoan đã Hannah à. Sáng mai mình sẽ đi đến chỗ cha rồi ra đồn cảnh sát. Họ sẽ biết phải làm gì. Giờ chị đi ngủ đi. Ngày mai cần tỉnh táo.”
Làm sao mà ngủ được. Hannah sợ rằng nếu nhắm mắt cô sẽ tỉnh giấc mộng này mất. Cô ra sân sau, ngồi trên chiếc ghế xích đu nơi cô từng ngồi với Frank và Grace, nhìn lên hàng ngàn ngôi sao lấm tấm trên trời; những ngôi sao nhịp nhàng ẩn hiện khiến cô thấy khuây khỏa, như nhìn những tia hy vọng lấp lánh trong đêm. Trong cõi bao la đến phận người cũng thành nhỏ nhoi vô kể. Vậy mà cô đã tìm được chiếc lục lạc. Nó mang đến cho cô hy vọng. Đây không phải là một trò lừa đảo. Đây là một thứ bùa chú nhiệm màu – vật chứng rằng cha cô đã tha thứ cho cô, vật từng được con gái cô và những người yêu thương nó chạm vào. Cô nghĩ đến tác phẩm cổ điển, đến câu chuyện về nữ thần mùa màng Demeter và con gái Persepphone. Đột nhiên câu chuyện cổ xưa này trở nên thật sống động với Hannah, khi cô nghĩ đến đứa con gái sẽ trở về sau những tháng ngày bị giam giữ ở nơi nào đó.
Hannah cảm thấy – mà không, cô biết rằng những ngày tháng đau khổ sắp chấm dứt. Một khi Grace quay về với cô, cuộc sống sẽ bắt đầu trở lại. Hai mẹ con sẽ cùng nhau hưởng thứ hạnh phúc mà họ đa từng bị tước trên tay. Cô bật cười khi nghĩ đến những kỷ niệm vui: Frank chật vật thay tã cho con; cha cô cố giữ mặt nghiêm khi đứa cháu ngoại nôn trớ lên vai áo ngay hôm ông mặc bộ đồ đẹp nhất. Lâu lắm rồi cô mới thấy mình xốn xang trong lòng. Giá mà cô có thể chờ được tới sáng.
Khi có chút ngờ vực nào len lỏi vào trong tâm trí, cô nghĩ ngay đến những thứ thật cụ thể rõ ràng: tóc Grace đằng sau đầu hơi mỏng do con bé hay nằm ngửa; chỗ móng dưới mỗi ngón tay con tạo hình hình bán nguyệt nhỏ xíu. Hannah níu giữ lấy con gái trong kỷ niệm, dùng ý chí mang nó về nhà với mình – vì trên cõi đời này luôn có một nơi chất chứa mọi ký ức về con bé. Cô mong nó về nhà biết bao.
***
Thị trấn xôn xao. Nghe nói người ta tìm thấy cái núm vú giả. Không phải, là một cái đồ chơi con nít ngứa lợi kia. Một món gì đó cho thấy con bé đã chết; một món gì đó cho thấy con bé còn sống. Người cha đã giết con bé. Người cha đã bị giết. Từ người bán thịt đến chủ hàng chạp phô, từ xưởng đóng móng ngựa cho đến nhà thờ, câu chuyện được thêm bớt, thêu dệt từ miệng người này sang người kia, thường mỗi khi kể lại đều đi kèm một cái chậc lưỡi, hay bĩu môi để tỏ vẻ ta đây không quan tâm.
“Ông Potts à chúng tôi không hề nghi ngờ chuyện ông nhìn ra món đồ do chính tay mình mua. Nhưng tôi chắc ông cũng hiểu rằng việc này không có nghĩa là con bé còn sống. Hạ sĩ Knuckey cố đấu dịu với Septimus, giờ đang đỏ bừng mặt, đứng ngay bên cạnh, cằm ngẩng cao, ngực ưỡn ra cứ như chuẩn bị lên võ đài.
“Anh phải điều tra chứ! Tại sao người ta đợi đến lúc này mới đem nộp? Ngay đêm hôm? Không cần phần thưởng?” Hàng ria mép của ông lão dường như trắng hơn khi mặt ông sầm lại.
“Nói xin lỗi ông, làm quái gì mà tôi biết được?”
“Anh nói năng vậy đủ rồi, cảm ơn anh. Ở đây còn có đàn bà con gái!”
“Xin lỗi ông.” Knuckey nhấp môi. “Tụi tôi sẽ điều tra, tôi đảm bảo với ông như vậy.”
“Chính xác là các anh sẽ điều tra như thế nào?” Septimus lớn tiếng.
“Tụi tôi… Tôi… Đảm bảo danh dự với ông sẽ điều tra.”
Hannah thấy lòng chùng xuống. Rồi cũng sẽ như những lần trước thôi. Thấy vậy nhưng cô bắt đầu thức khuya, trông ra chỗ hòm thư, chờ đợi một dấu hiệu.
“Anh làm một tấm cho cái này nhé Bernie,” Cảnh sát Lynch lên tiếng. Lynch đang đứng ở quầy hàng tiệm ảnh Gutcher, chìa ra cái lục lạc bạc đựng trong túi nỉ.
Bernie Gutcher trông có vẻ ngờ vực. “Sao tự dưng giờ đâm ra ưa con nít hả?”
“Tự vì bằng chứng đó cha nội!” viên cảnh sát đáp lại.
Tay thợ ảnh loay hoay chuẩn bị đồ nghề. Trong khi chờ đợi, Lynch nhìn quanh các bức tường treo mấy tấm ảnh mẫu cho thấy nhiều kiểu chụp và khung ảnh khác nhau. Anh ta nhìn lướt qua một loạt ví dụ trong đó có cả hình của đội bóng địa phương, Harry Garstone và mẹ, rồi Bill và Violet Graysmark cùng với con gái và cháu ngoại.
Mấy ngày sau đó tấm ảnh chụp cái lục lạc được dán trên bảng thông báo ngay ngoài đồn cảnh sát. Trong ảnh có thêm một cây thước để người ta dễ hình dung kích cỡ. Tấm ảnh kêu gọi người nào đã từng thấy món đồ này ngay lập tức liên lạc với cảnh sát. Bên cạnh là một thông báo của Ngài Septimus Potts, nói rằng phần thưởng cho người đem đến manh mối về cháu ngoại Grace Ellen Roennfeldt giờ đây đã là ba ngàn guineas. Mọi thông tin về người đó sẽ được giữ kín.
Ở Patageuse, một ngàn guineas có thể mua được cả một nông trại. Ba ngàn – trời, ba ngàn guineas thì biết làm gì cho hết?
“Mày có chắc không đó?” mẹ của Bluey vừa gặng hỏi, vừa sốt ruột di lại trong bếp, vẫn chưa kịp tháo ống uốn tóc từ khi ngủ dậy. “Nhớ kỹ lại đi, trời đất ơi!”
“Không, con không chắc – không chắc hoàn toàn, tại lâu quá rồi. Nhưng trước đó con chưa từng thấy cái gì sáng vậy cả, lại ở trong nôi em bé nữa!” Hai tay Bluey run run khi cậu ta vấn một điếu thuốc, rồi lập bập quẹt diêm châm lửa. “Má ơi, con phải làm sao đây?” Những giọt mồ hôi túa ra trên trán Bluey, ngay dưới mấy lọn tóc đỏ. “Chắc có lý do gì đó. Hay là có khi con nằm mơ thôi.” Cậu rít một hơi thuốc thật mạnh, thở ra ngẫm ngợi. “Có lẽ nên chờ lần ra Janus tới rỗi hẵng hỏi chuyện ảnh, đàn ông với nhau.”
“Đàn ông với khỉ thì có! Làm vậy thì mày còn ngu hơn tao tưởng! Ba ngàn guineas!” Bà đưa ba ngón tay vào mặt cậu. “Mày có đi thuyền một trăm năm cũng không kiếm nổi chừng đó!”
“Nhưng ở đây là anh Tom. Rồi cả Isabel nữa. Hai người đó sao làm chuyện quấy được. Ngay cả khi chính là cái lục lạc đó thì có thể nó chỉ bị dạt vào đảo rồi hai người lượm được. Trên Janus hay dạt vô nhiều món lạ lắm. Có lần anh Tom nhặt được cả khẩu súng trường, rồi cả ngựa gỗ nữa.”
“Hèn gì con Kitty Kelly cho mày lên đường… Người đâu mà không có tham vọng. Không biết tính toán gì hết.”
“Má!” Bluey giật mình trước câu cạnh khóe của bà mẹ.
“Mặc áo vô. Đi ra đồn cảnh sát.”
“Nhưng là anh Tom mà! Ảnh là bạn mà Má!”
“Ba ngàn guineas đó con à! Nếu mày không mau lên thì lão già Ralph Addicott có khi đã ngồi sẵn đó rồi.” Bà nói thêm, “Kitty Kelly làm sao dám chê một thằng có tiền, phải không? Giờ chải đầu đi. Rồi quăng dùm cái điếu thuốc chết tiệt đó luôn.”