← Quay lại trang sách

Phần Iii.11.

Ở xứ Mũi, mỗi khi trời mưa, những đám mây như trút nước đổ ào ào xuống, cả thị trấn ướt đến tận xương cốt. Cũng chính những trận mưa đó, qua hàng thiên niên kỷ đã mang đến những cánh rừng mọc trên thứ đất mùn xa xưa. Trời tối sẫm và nhiệt độ hạ xuống. Mặt đường đất bị xẻ rãnh, nếu có lũ quét thì không thể chạy xe hơi nổi. Mấy con sống như cũng thức dậy khi nghe thấy mùi đại dương đã bao lâu chia cắt.

Thị trấn trở nên im lặng. Vài con ngựa ít ỏi cuối cùng đứng buồn bã trước xe kéo, nước mưa nhỏ từ miếng da che mắt bắn xuống chiếc mấy chiếc xe hơi, dạo này đã nhiều hơn xe ngựa. Người ta đứng dưới những mái hiên lớn của các hàng quán dọc theo đường chính, vòng tay co ro, nhăn nhó chịu thua thời tiết. Ở sân sau trường học mấy trò quấy đang giẫm chân nghịch vũng nước mưa. Những người đàn bà mệt mỏi, nhìn áo quần phơi ngoài dây vẫn chưa lấy vào được. Mấy con mèo len lỏi qua những cánh cửa gần nhất, miệng kêu meo meo khinh khỉnh. Nước xối xuống tấm bia kỷ niệm tử sĩ, những dòng chữ vàng trên đó giờ đã phai. Nước bắn trên mái nhà thờ qua miệng máng xối hình kỳ dị, đổ xuống ngôi mộ mới của Frank Roennfeldt. Cơn mưa biến đổi cả người còn sống lẫn kẻ đã chết, không hề phân biệt.

***

“Lucy sẽ không thấy sợ hãi.” Tom cũng nghĩ như vậy. Anh nhớ lại cảm xúc trong lồng ngực, chút run rẩy kinh ngạc khi nhìn nó ngắm sấm chớp mà cười thành tiếng. “Ba ơi, làm nó nổ cái nữa đi ba!” con bé reo lên chờ tiếng sấm đổ đến.

“Khỉ thật!” Vernon Knuckey thốt lên. “Lại mưa đột ngột nữa rồi.” Trận mưa đổ xuống từ ngọn đồi phía trên đồn cảnh sát không chỉ là chút “mưa dột”. Nước tràn vào từ phía sau, vốn thấp hơn phía trước tòa nhà. Chỉ trong vài giờ, phòng giam của Tom đã ngập đến tấc rưỡi, nước từ trên đổ xuống, từ dưới dâng lên. Con nhện đã bỏ tấm lưới chăng dở, tìm chỗ ẩn náu an toàn.

Knuckey xuất hiện, chìa khóa cầm trong tay. “Hôm nay đúng là ngày may mắn của anh, Sherbourne à.”

Tom không hiểu lời ông cảnh sát.

“Mỗi khi mưa nhiều như vậy, trần nhà ở góc này rất dễ sập. Perth lúc nào cũng nói sẽ sửa nhưng rồi chỉ đưa xuống một đứa để bôi trét ít bột và keo dán lên cho có. Nhưng mà nếu tội phạm bỏ trốn trước phiên xử thì kiểu gì họ cũng làm cho ra chuyện. Nên anh ra trước một lúc đã. Chờ nước rút.” Ông cảnh sát để chìa khóa trong ổ mà không vặn. “Anh sẽ không làm trò gì chứ?”

Tom nhìn ông cánh sát, thành thật mà không nói gì.

“Thôi được rồi. Anh ra đi.”

Tom đi theo Knuckey đến văn phòng phía trước. Ông cảnh sát móc còng tay Tom vào một chiếc ống nước bị hở. “Trời cứ như vậy thì mình sẽ tha hồ ế ẩm,” ông nói vói Harry Garstone, Kunckey bật cười ra điều dí dỏm. “Mo McCackie mà kể vào!”[1]

[1] Mo McCackie (1891-1954): Nghệ sĩ hài nổi tiếng người Australia.

Không có tiếng động nào khác trừ tiếng mưa, rầm rập trút xuống, biến mọi bề mặt thành trống, thàng chũm chọe. Gió đã trốn đi, ngoài trời mọi thứ bất động chỉ có mỗi nước là chảy tràn. Garstone cầm cây lau và mớ giẻ, bắt đầu dọn dẹp và lau chùi bên trong đồn.

Tom nhìn đường phố qua cửa sổ, mường tượng quanh cảnh từ vọng đài Janus ngay bây giờ: người gác đèn hẳn thấy như mình như đang ở trong đám mây, không khí như đảo ngược. Anh nhìn kim di chuyển quanh mặt đồng hồ, cứ như hết thảy thời gian vẫn còn đó.

Anh giật mình. Một người nhỏ đang tiến về phía đồn. Không áo mưa, không dù che, hai tay khoanh lại, cúi về phía trước như dựa vào cơn mưa. Anh nhận ra dáng ai ngay. Lát sau Isabel mở cửa bước vào. Cô nhìn thẳng tới quầy thủ tục nơi Harry Garstone đang cởi trần, loay hoay vét khô vũng nước.

“Tôi…” Isabel mở lời.

Garstone quay lại xem ai đang nói.

“Tôi cần gặp Hạ sĩ Knuckey…”

Viên cảnh sát bối rối, mình trần, tay cầm giẻ lau, ngượng chín mặt. Anh ta thoáng liếc về phía Tom. Isabel nhìn theo, há hốc.

Tom giật mình đứng dậy nhưng không thể đi xa khỏi bức tường. Anh với tay về phía cô. Isabel nhìn anh, bàng hoàng.

“Izzy! Izzy mình ơi!” Anh giằng chiếc còng, vươn cánh tay ra, đầu ngón tay duỗi căng. Cô đứng đó, hoảng sợ, hối hận và tủi nhục, không dám cử động. Đột nhiên nỗi sợ hãi chiếm lấy cô, cô quay lưng dợm đi ra.

Hình bóng Isabel nhe làm cho cả cơ thể Tom hồi sinh. Thoáng thấy cô chuẩn bị biến mất, anh không thể chịu nổi. Anh kéo mạnh tay, lần này mạnh đến nỗi bứt đoạn ống ra khỏi tường, nước bắn lên cao.

“Tom!” Isabel bật khóc khi anh ôm cô trong tay, “Ôi Tom!” Cô vẫn run cả người, mặc cho anh ôm ghì chặt. “Em phải nói cho họ biết. Em phải…”

“Suỵt, Izz, suỵt, rồi sẽ ổn mà, mình à. Không sao cả.”

Hạ sĩ Knuckey bước ra khỏi phòng. “Garstone, chuyện quái quỷ gì…” Ông dừng lại khi thấy Isabel trong tay Tom, cả người ướt đẫm nước từ đường ống tràn.

“Ông Knuckey, không đúng… chuyện không đúng!” Isabel hét lên. “Frank Roennfeldt đã chết khi chiếc thuyền dạt vào. Giữ Lucy lại là ý của tôi. Tôi ép anh ấy không được báo cáo. Là lỗi của tôi.”

Tom ôm chặt lấy cô, hôn lên đầu cô. “Shh, Izz. Cứ để yên đi.” Anh đẩy cô ra, giữ chặt vai cô, khuỵu gối nhìn thẳng vào mắt cô. “Không sao mà mình. Đừng nói gì nữa.”

Knuckey chậm rãi lắc đầu.

Garstone đã kịp mặc lại chiếc áo chẽn, tay vuốt vội tóc cho xong. “Bắt cổ luôn hả sếp?”

“Bớt ngớ ngẩn đi một lần được khổng hả. Lo mà sửa ống nước không ngập hết giờ!” Knuckey quay nhìn hai người, họ nhìn nhau chăm chú, sự yên lặng cũng là một thứ tiếng nói. “Còn hai người này, giờ thì đi theo tôi.”

***

Tủi nhục. Hannah ngỡ ngàng nhận ra mình thấy tủi nhục, nhiều hơn là giận dữ khi Hạ sĩ Knuckey ghé thăm, mang theo tin tức mới nhất về Isabel Sherbourne. Mặt cô đỏ bừng khi nhớ đến chuyến viếng thăm Isabel chỉ một ngày trước đó, và cả sự thỏa thuận đã xong xuôi.

“Khi nào? Cô ta khai khi nào?” cô hỏi.

“Hôm qua.”

“Mấy giờ?”

Câu hỏi làm Knuckey ngạc nhiên. Mấy giờ thì có liên quan gì? “Khoảng năm giờ chiều.”

“Vậy là sau khi…” Giọng cô tắt dần đi.

“Sau gì kia?”

Hannah càng đỏ mặt, thấy nhục nhã rằng Isabel đã từ chối sự hy sinh của cô, và thấy ghê tởm vì bị lừa dối. “Không có gì cả.”

“Tôi tưởng cô muốn biết chuyện này.”

“Đương nhiên. Đương nhiên rồi…” Cô cố không tập trung vào ông cảnh sát, mà cố nhìn vào tấm kính cửa sổ. Cần phải lau chùi. Cả căn nhà cần được dọn dẹp: đã mấy tuần rồi cô không hề đụng tới. Hannah nghĩ đến những việc nhà quen thuộc, những thứ khiến cô thấy an toàn, cho đến khi bình tĩnh lại. “Vậy… giờ cô ta ở đâu?”

“Cô ta được bảo lãnh tại ngoại, đang ở nhà cha mẹ.”

Hannah bứt chỗ móng tay bị xước. “Rồi sẽ ra sao?”

“Cô ta sẽ bị xử chung với chồng.”

“Cô ta nói dối, từ đầu đến cuối… Cô ta làm tôi tưởng…” Cô lắc đầu, lạc vào một suy nghĩ khác.

Kunckey thở hắt ra. “Chuyện rất tệ. Isabel là người tử tế, trước khi ra Janus. Sống ngoài đó chẳng tốt chút nào cho cô ấy. Mà có lẽ cũng chẳng tốt cho ai cả. Suy cho cùng thì Sherboourne có việc đó vì Trimble Docherty tự sát.”

Hannah không chắc phải hỏi câu tiếp theo ra sao. “Họ sẽ phải ngồi tù bao lâu?”

Knuckey nhìn cô. “Cả cuộc đời còn lại.”

“Chung thân?”

“Tôi không nói chuyện ở tù. Hai người sẽ không bao giờ thấy tự do nữa. Họ sẽ không bao giờ quên được chuyện xảy ra.”

“Tôi cũng thế, thưa Hạ sĩ.”

Knuckey ngẫm ngợi, quyết định sẽ thử xem. “Chị nghe tôi, được Huy chương Chữ thập không phải là chuyện đơn giản. Chưa nói đến chuyện hai lần Huy chương Chữ thập, chỉ cho người cứu được nhiều đồng đội mà không quản ngại hy sinh thân mình. Tom Sherbourne là người tử tế, tôi thấy vậy. Tôi có thể nói anh ấy là người tốt, chị Roennfeldt à. Isabel cũng là người tử tế. Ba lần bị sảy thai ở ngoài đó, không có ai giúp đỡ. Trải qua những chuyện như vậy thì khó mà sáng suốt được.”

Hannah nhìn ông ta, hai bàn tay nằm yên, chờ đợi xem ông ta sẽ nói gì.

“Một người như Tom mà rơi vào cảnh đó thì thật đáng tiếc. Chưa nói đến người vợ.”

“Ông muốn nói gì kia?”

“Những điều tôi sắp nói ra vài năm nữa chị cũng sẽ nghĩ đến. Nhưng đợi tới lúc đó thì đã quá muộn.”

Hannah hơi quay đầu lại, cứ như để hiểu rõ hơn ý của ông cảnh sát.

“Tôi chỉ muốn hỏi chị, thực chị có muốn như vậy không? Ra tòa xét xử? Rồi tù tội? Con gái chị đã trở về. Biết đâu cũng còn cách khác…”

“Cách khác?”

“Sparagg hẳn sẽ không mặn mà gì nữa khi không còn chuyện án mạng. Miễn vụ việc vẫn thuộc thẩm quyền Partageuse tôi cũng có thể can thiệp chút ít. Biết đâu thuyết phục được đại tá Hasluck nói cho một câu với bên phía Cục Hải đăng. Nếu chị cũng có thể nói đỡ cho anh… Để mà giảm án…”

Gương mặt Hannah lại đỏ bừng lên, cô đột ngột đứng thẳng dậy. Những lời lẽ nung nấu hàng tuần, hàng năm, những lời lẽ mà chính Hannah cũng không biết là đã có sẵn trong cô, bật tuôn ra. “Tôi chán lắm rồi! Tôi chán bị các người đá qua đá lại, cuộc đời của tôi mà ai muốn phá cũng xong. Ông chẳng biết gì về tôi cả, hạ sĩ Knuckey à! Ai cho ông vào nhà tôi nói chuyện như vậy? Ai cho ông nói những lời khốn nạn đó?”

“Tôi không có ý…”

“Để tôi nói hết đã! Tôi ngán ngẩm lắm rồi, ông hiểu không?” Lúc này Hannah đã hét thành tiếng. “Không ai được bắt tôi phải sống ra sao nữa! Đầu tiên là cha tôi nói cho tôi nghe phải lấy ai, rồi cả thị trấn xông vào hiếp đáp Frank như một đám mọi rợ. Rồi Gwen cố thuyết phục tôi trả Grace lại cho Isabel Graysmark, và tôi đã đồng ý – Tôi đồng ý, ông biết không! Đừng sốc như vậy: không phải chuyện gì ở đây ông cũng biết cả! Rồi hóa ra là cô ta đã nói dối với tôi! Ai cho ông hả? Ai cho ông cái quyền nói với tôi, đề nghị tôi phải đặt người khác lên trên mình, lại một lần nữa!” Cô đứng thẳng người dậy. “Bước ra khỏi nhà tôi! Ngay! Đi ngay! Trước khi tôi…” cô cầm lên thứ ở gần nhất – bình cắm hoa bằng thủy tinh, “ném cái này vào mặt ông!”

Knuckey đứng dậy không kịp, chiếc bình hoa xẹt ngang qua vai ông rồi va xuống ván chân tường, vỡ thành vô số mảnh sắc.

Hannah dừng lại, không chắc mình có tưởng tượng được việc vừa làm. Cô nhìn ông, chờ đợi.

Knuckey đứng im. Gió đung đưa màn cửa. Một con ruồi xanh bị mắc vào lưới bẫy. Mảnh bình hoa cuối cùng rơi tiếng buồn tẻ xuống đất.

Im lặng một hồi lâu, Knuckey lên tiếng, “Cô thấy đỡ hơn không?”

Miệng Hannah vẫn còn mở. Trong đời cô chưa bao giờ tấn công ai. Hiếm khi nào chửi thề. Và chắc chắn là chưa bao giờ hành xử như vậy với một sĩ quan cảnh sát.

“Nhiêu đó không hề gì.”

Hannah nhìn xuống sàn nhà. “Tôi xin lỗi ông.”

Người cảnh sát cúi xuống nhặt những mảnh thủy tinh lớn, đặt lên bàn. “Lỡ con nhỏ đạp trúng.”

“Nó đang ở ngoài bờ sông với cha tôi,” Hannah lẩm bẩm. Cô quơ tay mơ hồ về phía đám thủy tinh vỡ, nói thêm, “Thường tôi không…” nhưng câu nói bị bỏ lửng.

“Cô khổ lắm rồi. Tôi biết. Cũng may là cô ném vào tôi chứ không phải Hạ sĩ Spragg.” Knuckey thoáng mỉm cười.

“Tôi không nên nói như vậy.”

“Ai cũng có lúc vậy mà. Nhiều người còn khổ hơn cô. Không phải lúc nào mình cũng kiểm soát được mọi việc mình làm. Nếu vậy thì tôi thất nghiệp mất.” Ông nhặt mũ lên. “Thôi tôi đi đây. Để cô suy nghĩ. Nhưng mà thời gian còn ít lắm. Một khi thẩm phán tới đây rồi quyết định chuyển bọn họ về Albany thì tôi không thể làm gì được.”

Knuckey bước qua cửa, ngoài trời rực nắng, mặt trời đang thiêu đốt mấy đám mây cuối cùng đằng đông.

***

Hannah đi lấy chổi và hót rác, cô làm mà không nghĩ gì cả. Cô gom mấy mảnh bình vỡ, cẩn thận kiểm tra xem còn mảnh nào sót không. Cô mang vào bếp và đổ ra giấy báo cũ, gói lại cẩn thận rồi mới bỏ vào thùng rác bên ngoài. Cô nghĩ đến câu chuyện về Abraham và Isaac. Chúa đã thử thách Abraham đến tận cùng, để xem ông ta có chịu dâng hiến thứ quý giá nhất trên thế giới này cho Người. Chỉ khi lưỡi dao đã kề cổ đứa con, Chúa mới chỉ ra vật sinh tế khác.[1] Cô vẫn còn đứa con gái.

[1] Câu chuyện trong Kinh thánh: Vâng lệnh Thiên Chúa, Abraham mang con trai là Issac ra làm sinh tế. Khi dao đã kề cổ Isaac thiên sứ hiện ra và nói rằng Chúa muốn thử thách đức tin của Abraham. Sau đó Abraham giết một con chiên (cừu) đực ở gần đó để thế vào. (ND)

Cô vừa định đi vào nhà thì chợt trông thấy bụi cây tầm bóp, rồi nhớ đến cái ngày tồi tệ sau khi Grace trở về, lúc đó con bé cứ chui vào giữa bụi cây. Cô khuỵu gối xuống cổ và khóc nấc, miên man nhớ lại cuộc trò chuyện với Frank. “Nhưng làm sao? Làm sao việc gì mình cũng bỏ qua được!” Cô từng hỏi anh. “Mình cứ gặp nạn nhưng lúc nào cũng vui vẻ. Làm sao vậy hả mình?”

“Tôi lữa chọn mà,” anh nói. “Tôi có thể ngồi đó ủ rũ về quá khứ, ghét bỏ người ta vì những chuyện đã xảy ra, như cha tôi từng làm. Hoặc là tôi có thể tha thứ và quên đi.”

“Nhưng đâu có dễ gì.”

Anh mỉm cười, nụ cười của Frank không lẫn vào đâu được. “Nhưng mình ơi, đỡ nhọc hơn nhiều chứ. Ta chỉ phải tha thứ có một lần. Muốn ghét ai, ta phải ghét suốt ngày, ghét hàng ngày. Cứ nhớ mãi những việc tồi tệ.” Anh bật cười, giả vờ lau sạch mồ hôi trên chân mày. “Nếu vậy tôi phải viết ra một danh sách thật dài, dài lắm, rồi phải nhớ ghét mỗi người đó bao nhiêu cho đủ. Ghét như vậy cũng mất công kỹ lưỡng lắm: đúng kiểu dân Đức chính cống! Không,” giọng anh trở nên tỉnh táo, “lúc nào ta cũng có sự lựa chọn mình à. Ai cũng có.”

Giờ đây cô nằm úp trên cỏ, cảm thấy nắng như muốn làm mình lả đi. Mệt mỏi, cô nằm đó, mơ hồ thấy mấy con ong và nghe mùi hoa bồ công anh bên cạnh, tay chạm vào hoa chăn dê nảy lên giữa đám cỏ um tùm, rồi thiếp đi.

***

Tom như còn cảm giác thấy làm da ướt nước mưa của Isabel, mặc dù bây giờ trong khám đã rút hết nước, áo quần anh cũng đã khô và cuộc tái ngộ với Isabel tối hôm qua giờ chỉ còn là ký ức. Anh vừa mong nó có thật, vừa mong đó chỉ là ảo ảnh. Nếu có thật, Izzy đã quay lại với anh, như anh từng cầu nguyện. Nếu là ảo ảnh, cô ấy vẫn tránh xa được tù tội. Vừa nhẹ lòng vừa lo lắng, anh tự hỏi liệu có còn được ôm cô trong tay nữa không?

***

Trong phòng ngủ, Violet Graysmark đang khóc. “Ôi Bill. Tôi không biết phải nghĩ sao, phải làm gì. Con gái mình có thể phải đi tù. Tội nghiệp quá.”

“Tụi mình sẽ vượt qua được mà. Con nhỏ cũng sẽ vượt qua được.” Ông không kể lại câu chuyện với Vernon Knuckey. Không muốn bà mừng vội. Nhưng biết đâu, vẫn còn một tia hy vọng.

***

Isabel ngồi một mình dưới cây phượng tím. Cô vẫn thường nhớ Lucy như lúc ban đầu: một nỗi đau không có nơi chốn, không có cách chữa lành. Bỏ đi gánh nặng của lời nói dối cũng có nghĩa là từ bỏ giấc mơ. Nỗi đau trên gương mặt mẹ cô, trong đôi mắt cha cô, vẻ khổ sở của Lucy, hình ảnh Tom bị còng tay: cô cố xua đi một loạt hình ảnh, rồi tưởng tượng ra nhà tù sẽ ra sao. Cuối cùng cô thấy sức mình cạn kiệt. Cô không còn chống chọi được nữa. Cuộc đời cô chỉ còn là những mảnh vỡ, không thể hàn gắn. Tâm trí cô như gục ngã trước sức nặng đó, rơi xuống một cái giếng sâu, đen tối, nơi tủi nhục, mất mát và sợ hãi khiến cô chìm sâu.

***

Septimus và cháu gái đang đứng ở bờ sông, ngắm tàu thuyền. “Để ông kể cho con nghe ai chèo thuyền giỏi: Hannah đó. Khi đó mẹ còn nhỏ. Mẹ con cái gì cũng giỏi. Thông minh sáng dạ lắm. Lúc nào cũng ở bên ông, như con đây.” Ông xoa đầu con bé, “Con là Grace, là của để dành của ông.”

“Không, con là Lucy!” con bé khăng khăng.

“Lúc mới sinh ra con tên là Grace.”

“Nhưng con muốn là Lucy.”

Ông nhìn con bé, chăm chú ngắm nó. “Thôi giờ mình tính vậy đi, giống như đi làm ăn, chia đều vậy, ông sẽ gọi con là Lucy-Grace. Được không?”

***

Hannah tỉnh dậy khi có bóng người trước mặt. Cô mở mắt ra, Grace đang đứng cách đó vài bước, nhìn cô chăm chú. Hannah ngồi dậy, vuốt tóc, hơi choáng.

“Ông nội nói rồi mà, mẹ biết ngay,” Septimus bật cười. Grace thoáng mỉm cười.

Hannah bắt đầu đứng dậy nhưng Septimus đã kịp nói, “Không, cứ ngồi đó. Còn Công Chúa của ông, con ra ngồi trên cỏ, kể cho mẹ nghe Hannah nghe chuyện mình đi coi tàu thuyền. Con thấy bao nhiêu cái?”

Con bé ngập ngừng.

“Cố nhớ thử, lúc nãy con xòe tay đếm đó?”

Con bé đưa hai bàn tay ra. “Sáu,” nó nói, xòe hết một bàn tay và đưa ba ngón tay ở tay kia, rồi nó xếp lại ngón lại.

Septimus nói, “Giờ ông vô trong bếp lấy nước ngọt cho con. Con ngồi đó, kể cho mẹ nghe chuyện con hải âu tham lam ăn con cá lớn khi nãy đi.”

Grace ngồi trên cỏ, chỉ cách Hannah có vài bước. Mái tóc vàng óng ánh trong nắng. Hannah lưỡng lự: cô muốn kể lại cho cha nghe chuyện Hạ sĩ Knuckey vừa ghé thăm, muốn xin ông lời khuyên. Nhưng Grace chưa bao giờ có vẻ muốn nói, muốn chơi đùa như hôm nay. Hannah không thể bỏ lỡ khoảnh khắc này. Như thói quen, cô so sánh đứa bé đang ngồi trước mặt với ký ức về đứa con nhỏ, cố nhớ lại đứa con đã mất. Cô dừng lại. “Lúc nào ta cũng có sự lựa chọn.” Những lời nói đó vang lên trong tâm trí cô.

“Mình làm dây chuyền hoa cúc nhé?” cô hỏi.

“Cây chuyền hoa cúc là gì?”

Hannah mỉm cười. “Dây chuyền. Đây, để mẹ kết cho con một cái vương miện,” cô nói rồi bắt đầu ngắt bông bồ công anh gần đó.

Khi Hannah chỉ cho Grace cách lấy móng tay xẻ dọc cuống hoa, rồi móc cuống hoa kế tiếp vào, cô nhìn bàn tay của con bé, nhìn cách nó cử động. Không phải bàn tay của một em bé. Mà là bàn tay của một bé gái mà cô sẽ phải làm quen từ đầu. “Lúc nào ta cũng có sự lựa chọn.” Cô thấy lồng ngực nhẹ băng, như vừa thở một hơi rất sâu.