Nỗi sợ hãi có căn cứ
Lịch sử có một điều hết sức mai mỉa, còn hơn cả Hoa Kỳ thua trận: Trung Hoa cũng bị đánh bại ở Việt Nam. Việc Hoa Kỳ rút ra khỏi Việt Nam năm 1975 tuồng như đem lại cho các nhà chiến lược Trung Hoa một cơn ác mộng về Việt Nam. Một nước Việt Nam mạnh và thống nhất là một sự thách thức ở phía Nam Trung Hoa, đồng bọn với kẻ thù cay đắng ở phía Bắc.
Sự sụp đổ quyền lực bi thảm của Mỹ ở Việt Nam - biểu tượng bằng hình ảnh đại sứ Mỹ ở Phnom Pênh, John Gunther Dean dấu lá cờ Mỹ trong bọc nylon và những chiếc trực thăng bị xô xuống biển để rộng bãi đáp trên các chiến hạm Mỹ sau khi triệt thoái khỏi Saigon, nay là lúc Bắc Kinh phải đối đầu với Liên Xô “đế quốc xã hội chủ nghĩa” đang mở rộng ảnh hưởng ở châu Á. Từ sau chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Nixon, sự hiện diện của Mỹ trông có vẽ ôn hòa. Tuy nhiên, Đài Loan là một ngoại lệ. Bây giờ Trung Hoa lo lắng vì sự rút lui hốt hoảng của Mỹ khỏi vùng Đông Nam Á chỉ có lợi cho Moscow, - kẻ viện trợ quân sự chính yếu cho Việt Nam -, sẽ lấp vào khoảng trống sau khi Mỹ rút đi. Sau ngày 29 tháng Tư, sau chiến dịch “Vãng lai phong” nhằm đưa hết những người Mỹ ra khỏi Việt Nam, đề mục chính của tin tức ngoại giao trong bản tin thế giới của Tân Hoa Xã là sự thao dượt của hải quân Liên Xô. Sau khi nói rằng hải quân Liên Xô hiện diện nhiều nơi khác nhau trên khắp thế giới, bao gồm cả việc “hăng hái thâm nhập vào eo biển Malacca” ở phía nam Việt Nam. Hãng thông tấn này bày tỏ việc “tập trận sau cùng của hải quân Liên Xô đạt tới mức độ nghiêm trọng nhất” chống lại hiểm nguy do sự xâm lược và bành trướng của “đế quốc xã hội chủ nghĩa.”
Chủ tịch Mao, Chu Đức và Chu Ân Lai dĩ nhiên gởi lời chúc mừng Hà Nội về “ngọn triều vui sướng” này nhưng họ cũng chỉ rõ rằng chiến thắng của nhân dân Việt Nam cũng là một biểu lộ khác của cuộc chiến tranh nhân dân đang ngấm ngầm, một khái niệm về sự khởi thủy và thực hiện ở Trung Hoa trước kia. Bài bình luận trên tờ Nhân Dân Nhật Báo ngày 1 tháng Năm cho thấy rõ cố gắng bác bỏ bất cứ vai trò nào của Liên Xô trong chiến thắng của Việt Nam. Tờ báo viết: “Chiến thắng của nhân dân Việt Nam thêm một lần nữa được chứng tỏ rằng yếu tố quyết định cho sự thắng bại là nhân dân và sự ủng hộ của họ, không phải do vũ khí”. Nói cách khác, không phải nhờ xe tăng và hỏa tiễn Liên Xô được đưa vào Việt Nam mà thành công. Đó là sự ủng hộ của nhân dân.
Những lời cảnh cáo công khai như thế rất cần thiết vì Bắc Kinh nghi ngờ những phần tử xét lại Việt Nam có thể đang bị cám dỗ bởi những viện trợ rất có hiệu quả của Liên Xô và ngược lại Việt Nam sẽ dành cho Liên Xô các căn cứ quân sự. Trung Hoa ghi nhận và theo dõi đại biểu quân sự Liên Xô đến Hà Nội chỉ một tuần sau khi Saigon sụp đổ và hàng loạt tàu Liên Xô đến các hải cảng Việt Nam. Chỉ 3 tuần sau khi Cọng Sản VN chiếm miền Nam, Trung Hoa, lần đàu tiên cảnh cáo bằng cách nói với đoàn đại biểu Nhật Bản là Liên Xô đã yêu cầu Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam VN để cho họ xử dụng các căn cứ cũ của Mỹ ở miền Nam.
Tháng Bảy năm 1975, tôi hỏi Ngô Điền, một nhà ngoại giao hòa nhã giữ nhiệm vụ báo chí trong Bộ Ngoại Giao (Sau này là đại sứ ở Kampuchia) quả thật Liên Xô có đòi xử dụng những căn cứ này hay không. Tuồng như ông ta hết sức bất bình. “Ông có nghĩ rằng Liên Xô có thể đòi những điều như thế ở đất nước chúng tôi hay không?” Rồi ông ta không cần câu trả lời, nói tiếp: “Trước khi ông hỏi bạn ông một câu gì, ông phải hiểu là bạn ông sẽ nghĩ như thế nào về câu hỏi đó. Làm sao Liên Xô có thể đòi những “căn cứ” như thế được? - sặc mùi đế quốc.” Tuy nhiên, ông ta nói thêm rằng, quả thật tàu bè Liên Xô có xử dụng những tiện nghi ở vịnh Cam Ranh, giống như tàu bè của tất cả các nước anh em khác. Mấy năm sau tôi khám phá rằng, phát biểu của Điền chỉ là cãi bướng, một trò chơi chữ. Sáu năm sau 1975, các nhà ngoại giao Việt Nam có nói với tôi rằng quả thật thời kỳ đó Liên Xô có gây sức ép để xử dụng các căn cứ quân sự cũ nhưng thất bại - thêm bốn năm nữa họ mới được những gì yêu cầu khi Việt Nam đã lún sâu vào cuộc chiến tranh với Trung Hoa.
Ngay cả việc nếu như không có căn cứ quân sự Liên Xô ở nam Việt nam, Trung Hoa lo lắng cái gì sẽ xảy ra khi cán cân quyền lực ở Đông Nam Á không còn cân bằng vì với số lượng to lớn chiến lợi phẩm lấy được ở Miền Nam, Hà Nội có sức mạnh vượt trội lên, theo đúng ngôn ngữ của nó, sẵn sàng nắm lấy vai trò cách mạng tiên phong ở khu vực này. Hầu như muốn chọc quê những lời cảnh cáo của Trung Hoa vì mối nguy hiểm do Liên Xô thay thế khoảng trống Mỹ ở Đông Nam Á, báo Nhân Dân số ra ngày 21 tháng Năm hân hoan với sự sụp đổ tuyến phòng ngự của Mỹ ở Đông Nam Á. Bài báo viết: “Một thời kỳ làm nên thắng lợi của nhân dân Việt Nam, đã góp phần đem lại sự thay đổi quan trọng trong cán cân quyền lực thế giới... Nhân dân trong vùng này có điều kiện dễ dàng để loại bỏ phụ thuộc của họ vào đế quốc tư bản...” Nhìn từ hướng Bắc Kinh, điều đó cũng giống như Hà Nội đòi giành lấy vai trò lãnh đạo cách mạng Đông Nam Á. Tôi đã ngửi thấy cung cách thỏa mãn của Hà Nội trong chuyến viếng thăm ở đây vào mùa hè năm 1975. Nó là một thành phố không phải lỡm chỡm đầy những họng súng hay các bích chương kêu gọi cách mạng toàn thế giới. Hà Nội vui mừng một cách thầm lặng. So với sự căng thẳng, ồn ào, và hỗn độn của Saigon mà tôi đã bỏ lại đằng sau, thủ đô phía Bắc là một sự tìm tòi mâu thuẫn. Hà Nội thay đổi chút ít từ khi Pháp rời Đông Dương 21 năm trước. Thành phố có cái già cỗi đáng yêu: Những đại lộ có những hàng cây bóng rợp, và những mặt hồ yên ã. Những con đường lặng im chỉ bị khuấy động một chút bởi những âm thanh nhẹ nhàng của xe đạp đang chạy. Hà Nội có vẽ tin tưởng trong không khí lặng im. Nói chuyện với tôi trong ngôi nhà của bộ ngoại giao xây theo kiểu Pháp, Ngô Điền đọc cho tôi nghe một bài thơ làm hồi thế kỷ 15 sau khi quân nhà Minh bị đánh đuổi ra khỏi Việt Nam:
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông
.....................,
Giangsơn từ đây mở mặt,
Xã tắc từ đây vững bền
(Bình Ngô đại cáo - người dịch)
Người Việt Nam vẫn còn sửng sốt với chiến công của họ. Trong suốt những ngày chiến tranh đen tối, khi B-52 rải thảm ở phía Bắc, hàng ngàn thanh niên rời bỏ quê hương đi Nam chiến đấu không bao giờ trở lại, chỉ có một ít hy vọng sống sót để thấy chiến thắng ở thành phố Hồ Chí Minh như họ tiên đoán. Sau khi vượt qua được những thử thách ghê gớm và đánh bại kẻ thù hùng mạnh nhất thế giới, với họ, mọi việc tuồng như có thể làm được. Giờ đây, Việt Nam sẵn sàng góp mặt với thế giới, đứng thẳng lên cùng bè bạn và kẻ thù, bày tỏ ý kiến của mình.
Một Trung Hoa lo lắng, nắm lấy cơ hội kỷ niệm ba mươi năm của Bắc Việt để bày tỏ quan tâm về vai trò lãnh đạo của Việt Nam. Họ gởi một thành viên Bộ Chính trị, tướng Chen Xilian tham dự buổi lễ tổ chức tại Hà Nội. Chen, người to lớn, đang giữ chức Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, năm 1969, chỉ huy lực lượng quân sự Trung Hoa trong chiến tranh với Liên Xô dọc theo biên giới Nga Hoa và hiện ở trong cương vị có thể cảnh cáo Hà Nội về những nguy hiểm do Liên Xô tạo ra ở châu Á. Phát biểu trong một buổi lễ tại nhà máy thép Thái Nguyên do Trung Hoa xây dựng, bị đánh bom trong chiến tranh, nay cũng do Trung Hoa giúp tái tạo, ông ta ca ngợi cuộc đấu tranh “chống bá quyền” (một danh từ Trung Hoa thường dùng để ám chỉ chống Liên Xô). Ông ta cảnh cáo “âm mưu của siêu cường nhằm mục tiêu bá quyền” - có nghĩa là Liên Xô cố lấp chỗ trống của Mỹ, đang tạo ra nhiều điều ghê gớm và đe dọa gia tăng chiến tranh. Khi Chen đến Hà Nội vào ngày 31 tháng Tám, thủ tướng Phạm Văn Đồng bước lên cầu thang máy bay ôm hôm thắm thiết - theo truyền thống những ngày đoàn kết chiến đấu. Nhưng giới báo chí Hà Nội đón tiếp không lịch sự nhằm bày tỏ tính cách độc lập của họ. Họ loại bỏ những điều Chen nói tới bá quyền trong các bài phóng sự. Không bỏ lỡ cơ hội phê bình quan điểm của Trung Hoa, đài phát thanh Moscow phê bình Chen là “khiếm nhã và khiêu khích chính trị”. Bản tin đó nói rằng “Nhân dân Việt Nam biết phân biệt bạn và thù”, và họ ý thức được “sự giúp đỡ vô giá và vô vị lợi từ Moscow.”
Sự đấu đá công khai giữa Moscow và Bắc Kinh về lòng trung thành của Hà Nội chẳng đem lại điều tốt lành nào cho chính sách của Việt Nam để lèo lái cuộc tranh chấp của các bậc đàn anh trong khi Hà Nội đang mong họ giúp đỡ. Ngày 22 tháng Chín, Lê Duẫn và Lê Thanh Nghị đi Bắc kinh để cám ơn và cầu viện. Rõ ràng đây là một thử thách về tài khéo léo của Việt Nam. Hôm trước lúc lên đường, một bản tường trình từ Bắc Kinh báo cho biết trước những gì các nhà lãnh đạo Bắc Kinh muốn nghe Lê Duẫn trình bày. Sau khi họp với Mao và Đặng, cựu thủ tướng Anh Edward Heath nói với báo chí rằng Moscow đã “quá lậm” trong việc đòi hỏi xử dụng các căn cứ quân sự ở Việt Nam. Nhưng ông ta cũng nói rằng Trung Hoa không nghĩ rằng Liên Xô sẽ thành công trong việc vận dụng ảnh hưởng dài lâu với Việt Nam, cũng không thể tiến tới việc thiết lập căn cứ quân sự ở đây. Qua ông Heath, Trung Hoa đưa ra những dấu hiệu rõ với Hà Nội, không phải cho tới bây giờ, khi Duẫn trấn an Trung Hoa thì sự lạc quan mới thấy rõ.