← Quay lại trang sách

Giữa đế quốc và ông hoàng

Hồi tháng Giêng/1953, Saloth Sar trở về Phnom Pênh sau ba năm ở Paris. Nhà cách mạng 25 tuổi, sau này trở thành một người nổi tiếng tàn ác dưới cái “Tên gây chiến tranh” (nom de guerre): Pol Pot. Đơn của ông ta xin gia nhập đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia lúc ấy còn phôi thai được một cán bộ Việt Nam xem xét và chấp thuận. Con người lùn và mập xét đơn ấy là Phạm Văn Ba. Một cán bộ lâu năm của đảng Cọng sản Đông Dương sống ở Phnom Pênh dưới nhiều võ bọc khác nhau, ngay cả ngụy danh một nhà báo. Cuối thập niên 1950, ông ta biến mất khỏi Phnom Pênh rồi lại xuất hiện dưới danh nghĩa một nhà ngoại giao của Việt Cọng. Sau khi giữ vai trò Trưởng đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời (Miền Nam VN) ở Paris tới năm 1975, Ba trở thành đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Kampuchia thời Pol Pot.

Bảy năm sau khi tôi gặp Ba tại văn phòng Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Paris, lại thấy ông ta tại thành phố Hồ Chí Minh, tháng Giêng/1981. Ông ta nói một cách khoái trá trước sự ngạc nhiên của tôi, tiết lộ những điều trước khi có sự gảy đổ với Khmer đỏ: “Hồi ấy tôi là bí thư (bí mật) của văn phòng đảng Cọng sản Đông Dương ở Phnom Pênh. Pol Pot tiếp xúc với tôi, xin gia nhập đảng. Ông ta có cái thẻ đảng viên đảng Cọng sản Pháp (PCF), có tham gia chi bộ Kampuchia của đảng này trong khi theo học École de Radio-Électricité ở Paris. Tôi gởi điện cho ban tham mưu đảng ở Bắc Bộ, yêu cầu họ kiểm chứng với đảng Cọng sản Pháp. Thời gian sau tôi nhận được một bức điện mật do Hoàng Văn Hoan gởi từ Bangkok, -nơi ông Hoan đang điều hành phân bộ Việt Nam hải ngoại của đảng,- xác nhận rằng quả thật Pol Pot là đảng viên Cọng sản. Vì vậy tôi cho ông ta gia nhập đảng.”

Tuy nhiên, sự giám sát trực tiếp của Việt Nam (CS) đối với đảng Nhân dân Cách mạng Kampuchia ngưng lại một năm sau khi chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất chấm dứt. Do áp lực của đại biểu Nga và Trung Hoa trong hội nghị Genève năm 1954, Cọng sản Việt Nam buộc phải chấp thuận chia cắt tạm thời Việt Nam và thỏa thuận nhường phần đất của Khmer Issrak giải phóng cho chính phủ hoàng gia Kampuchia. Không giống như kháng chiến Lào, họ được hội nghị Genève chập nhận và cho phép tập trung tại hai tỉnh phía bắc giáp giới Việt Nam và Trung Hoa (Vùng an toàn hậu phương). Phong trào Khmer Issarak bi buộc phải giải tán. Ông vua trẻ Sihanouk, người đưa ra áp lực cá nhân của ông để ngừa trước phong trào Issarak do Việt Nam (CS) hỗ trợ, đã giành phần thắng tại Hội nghị Genève. Cùng với Hiệp định này, lực lượng Việt minh cùng khoảng 2 ngàn người kháng chiến Khmer, núp trong quân đội Việt Minh phải rút về Bắc Việt Nam để chờ một ngày tốt đẹp hơn. Ba giải thích: “Chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng Pháp sẽ thi hành đầy đủ Hiệp đinh Genève, vì vậy chúng tôi phải chuẩn bị.” Quả thật đó là điều thấy xa. Dù năm 1972-75 nhóm Pol Pot đã loại trừ phần lớn những người Kampuchia do Hà Nội huấn luyện, một số người sống sót mấy năm sau đã tham gia chính quyền thân Hà Nội ở Kampuchia.

Trong khi một số lãnh tụ Khmer Issarak bị buộc phải rút lui, những người trẻ, được huấn luyện du kích ở ngoại quốc thì cay đắng hơn. Những phần tử Cọng sản quốc gia quá khích như Pol Pot, Ieng Sary và Son Sen, những người từ Paris về đã tố cáo Việt Nam hy sinh những thành quả do người Khmer đạt được trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tuy nhiên, những người kháng chiến và những khuôn mặt lãnh đạo rút khỏi những phần đất rộng lớn ở Kampuchia, những người hoạt động gần gủi với Việt Minh, những người đào thoát và cả những người đã bị giết, để lại cho nhóm Pol Pot những vùng đất rộng lớn để họ phát triển khu vực chính trị của chính họ.

Khi Sơn Ngọc Minh, một nhà lãnh đạo Cọng sản của phong trào Khmer Issarak chọn ở lại Hà Nội sau Hiệp định Genève, quyền lãnh đạo đảng Cọng sản Kampuchia nằm trong tay Sieu Heng. Người này phản bội. Sau vài năm hợp tác bí mật với cảnh sát, -đưa tới việc sát hại hầu hết các chi bộ Cọng sản- năm 1959, Heng đào thoát theo chính quyền Sihanouk. Tại hội nghị bí mật của đảng Cọng sản Kampuchia ở nhà ga xe lửa Phnom Pênh từ 28 đến 30 tháng 8/1960, một nhà sư theo cọng sản Tou Samouth (người này có liên hệ gần gủi với Việt Nam) được bầu làm bí thư đảng. (16)

Hồi ấy Pol Pot là giáo viên ở Phnom Pênh, năm 1961 được chọn làm phó bí thư. Tháng Sáu/1962, Samouth bí mật mất dạng, Pol Pot nắm quyền bí thư đảng. Chẳng bao lâu sau, Pol Pot, em bạn rễ là Ieng Sary và Son Sen cùng những người khác trốn vào rừng bí mật tổ chức đảng. Từ đó cho đến năm 1970 mới nghe lại tin tức họ.

Trong suốt thời gian ấy, những dị biệt về chủng tộc, chủ nghĩa quốc gia cực đoan càng lúc càng phát triển sâu sắc giữa nhóm Pol Pot và nhómn ôn hòa muốn hợp tác với chính phủ Sihanouk để chống Mỹ và chống Việt Nam. Trong chuyến đi Hà Nội hồi tháng 3/1978, bất thần tôi được mời tới ăn một bữa cơm tối giản dị tại nhà một viên chức cao cấp. Sau nhiều năm phủ nhận không có gì nghiêm trọng xảy ra với Kampuchia, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Võ Đông Giang nói với tôi buổi tối hôm đó về sự xung đột có từ hai thập niên trước, sự chia rẽ sâu sắc giữa đảng Cọng sản Việt Nam và nhóm Pol Pot trong đảng Cọng sản Kampuchia. Theo ông ta ngay từ khi bắt đầu, Việt Nam (CS) đã đứng về phía nhóm người “điều chỉnh” trong đảng Cọng sản Kampuchia để chống lại nhóm Pol Pot. Ông ta nói tới họ bằng cách châm biếm như là bọn “Dân quân, những người chẳng có công trạng gì trong việc tham gia kháng chiến chống Pháp.” Giang nói chính sách của họ đem lại một thứ cách mạng, thứ cọng sản chính thống trẻ con bởi vì “ngọn cờ chống Mỹ vẫn do Sihanouk giương cao, tiếng tăm của ông ta trong dân chúng không ai bằng được. Do đó, người Cọng sản biết làm cách nào để dùng uy tín của ông mà chống lại đế quốc Mỹ, giành sự ủng hộ của dân chúng. Tiếng tăm trong dân chúng Kampuchia thuộc về Sihanouk, sau mới đến những người hoạt động chính trị (bên trong đảng Cọng sản Kampuchia) để đoàn kết dân chúng chống lại kẻ thù, chứ không phải Pol Pot. Chính sách thống nhất mọi lực lượng chống kẻ thù chung và kêu gọi đoàn kết giữa nhân dân ba nước Đông Dương là đường lối cách mạng của chúng tôi từ trước cho tới bây giờ. Tuy nhiên, vì Pol Pot lãnh đạo đảng Cọng sản Kampuchia theo đường lối phân biệt chủng tộc, nên cách mạng gặp phải những khó khăn hồi năm 1967-69”. Giang nói khéo đến việc Sihanouk đàn áp Cọng sản.

Giang nói đúng khi ông ta nhấn mạnh đến việc Sihanouk được quần chúng ủng hộ khi ông nầy lãnh đạo nhân dân Kampuchia giành độc lập. Nhưng Giang nói sai khi nhắc lại khoảng thời gian trước 1954, khi đó Việt minh và Khmer Issarak xem Sihanouk như là tên đầy tớ của Pháp. Nhắm vào chính sách chống Mỹ của Sihanouk trong thập niên 1960, Giang cũng tránh không nêu lên vấn đề thái tử Sihanouk đàn áp phái hữu. Trong thập niên nầy, Việt Nam (CS) cũng khuyến cáo đảng cọng sản Kampuchia gia tăng kêu gọi từ bỏ đấu tranh giai cấp ở Kampuchia để khỏi gây rắc rối cho thái tử và có hại cho mối giao hảo giữa Sihanouk và Hà Nội.

Điều Giang không muốn nói ra là Hà Nội gia tăng phương cách gìn giữ quan hệ của họ với Sihanouk đang ngọt ngào. Việc gia tăng cường độ chiến tranh sau năm 1965, quân Việt Cọng và Bắc Việt xâm nhập cần hơn bao giờ hết những vùng đất thánh ở Kampuchia và con đường tiếp tế an toàn. - một nhu cầu mà thái tử Sihanouk đang muốn chứng tỏ một cách công khai dưới chiêu bài trung lập. Mặc dù Sihanouk đối xử với Khmer Đỏ bằng bàn tay sắt, ông ta cũng tỏ lộ cảm tình với Cọng sản Việt nam. Trong khi ông ta loại trừ những tên Cọng sản địa phương, xem họ như là kẻ làm tình báo cho Hà Nội và Bắc Kinh, thì ông ta coi chiến tranh Việt Nam đúng là cuộc chiến đấu của những người quốc gia chống lại sự bất công do chính sách can thiệp của ngoại bang. Như sau này ông ta viết trong hồi ký, ông ta nhắm mắt cho Việt Nam (CS) thiết lập các căn cứ dưỡng quân, bệnh viện và trung tâm tiếp liệu trong nội địa Kampuchia. Ông ta cũng chấp thuận cho tàu bè Trung Hoa, Liên xô, Tiệp Khắc, và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác được cập bến Sihanoukville, đổ hàng xuống và từ nơi nầy được công khai vận chuyển tới biên giới Việt Nam sau khi giữ lại cho quân đội Kampuchia một phần. (17)

Điều Sihanouk giúp Cọng sản Việt Nam đặt căn bản trên tính toán sáng suốt là nắm trước những thời điểm tốt đẹp với những kẻ chắc chắn sẽ chiến thắng. Sau này Sihanouk nói: “Lý do tôi quyết định hợp tác với Việt Nam (CS) là làm cho Cọng sản Việt Nam mắc Kampuchia một món nợ, để sau này họ chẳng bao giờ dám đưa tay, mở mồm chống lại đất nước và dân tộc chúng tôi là ân nhân của họ.” (18)

Có lẽ Sihanouk cũng sợ Cọng sản Bắc Việt chống ông ta nếu ông ta chống lại cuộc chiến đấu của họ. Sihanouk biết trước rằng Trung Hoa và Việt Nam là những nước sẽ chế ngự Châu Á sau khi Mỹ rút quân về. Tháng 8 năm 1963, Sihanouk cẩn trọng đặt mối quan hệ ngoại giao với Nam Việt Nam và một năm sau ông ta từ chối viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ cho Kampuchia. Tháng năm 1965, Sihnouk cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Thịnh Đốn -một hành động được Hà Nội và Bắc Kinh ca ngợi. Cũng năm này, tháng Sáu, Sihanouk hỗ trợ cho Mặt trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam bằng viện trợ y tế. Trong một cuộc phỏng vấn hồi tháng Mười một năm 1965, ông ta tâm tình với người phỏng vấn ông rằng “Người Mỹ có thể giết 10 hay 20 triệu người Việt Nam, nhưng không chóng thì chầy họ buộc phải trả lại Việt Nam cho những người còn sống... Hoa Kỳ tự họ dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mà hậu quả thất bại sẽ không tránh được.”(19)

Việt Nam (CS) biết ơn sự giúp đỡ của Sihanouk, và cũng chẳng ai lạ gì hồi mùa hè 1965, Pol Pot bí mật thăm Hà Nội trên đường đi Bắc Kinh. Hà Nội khuyên Pol Pot ủng hộ chính sách chống đế quốc của Sihanouk. Nếu đảng Cọng sản Kampuchia phát động cuộc đấu tranh vũ trang chống lại chính quyền Sihanouk thì sẽ có hại cho chiến lược của Việt Nam (CS). Hà Nội không cho rằng điều này là phụ thuộc, mà coi cuộc chiến đấu của nhân dân Kampuchia có tinh cách ích kỷ, hơn là nhu cầu của Việt Nam (CS) vì họ tin rằng tình hình Kampuchia chưa đủ chín mùi để phát động đấu tranh giai cấp vũ trang. Hơn thế nữa, Hà Nội cho rằng chiến thắng ở Miền Nam Việt Nam cuối cùng sẽ tạo ra những điều kiện thành công lý tưởng cho cuộc chiến đấu chống lại chính quyền Sihanouk.