Đánh lá bài Trung Hoa
Vào buổi tối 27 tháng Chín, khi một toán người Mỹ đảm trách vấn đề Việt Nam ra về sau khi thảo luận với Thạch về việc mở tòa đại sứ Mỹ ở Hà Nội, tưởng như có khả năng tiến tới được. Vài người có vẽ bi quan. Michel Oksenberg nhớ có nói với Holbrooke: “Dick, Việt Nam họ trêu ghẹo anh. Họ chọc quê anh.” Oksenberg ngạc nhiên bởi vì Thạch dai dẵng đòi viện trợ. Oksenberg nói: “Ông ta chỉ bỏ điều kiện tiên quyết vào phút chót mà kết quả là do Holbrooke bền bỉ từ khước.
Xong rồi, tức thì ông ta đòi ký một thỏa ước ngoại giao. Ông ta phải biết rằng cung cách ngoại giao không phải là làm như vậy.” Ông ta được biết Việt Nam làm như vậy là chỉ muốn quảng cáo cho họ -họ muốn được xem là một trong những người thực hiện được việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao, nhưng họ thiếu nghiêm chỉnh về việc ấy. Bốn năm sau, hồi tưởng giai đoạn ấy, Oksenberg nghĩ rằng hồi mùa thu năm 1978, có những động lực đã lôi kéo hai nước đi về hai hướng khác nhau. “Tay đã đưa ra nhưng có sự nhận thức rằng họ không thể bắt tay nhau được”. (29)
Người ta biết như vậy là do nhận xét của Oksenberg về thái độ chống đối bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam của Brzezinski. Hoặc ông ta nói ra là vì ông ta biết thế mà thôi. Trái với điều ông ta nghĩ, quả thật Việt Nam rất nôn nóng, hầu như tuyệt vọng nữa, muốn ký một thỏa ước ngoại giao với Hoa Kỳ. Chiến thuật của Thạch, như Holbrooke đoán đúng, chỉ là một cố gắng cuối cùng bảo đảm lời hứa viện trợ của Mỹ trước khi họ từ bỏ yêu sách của họ. Việt Nam muốn xúc tiến công việc này chẳng qua họ được thuyết phục rằng một khi họ từ bỏ điều kiện tiên quyết thì họ có thể mau lẹ ký được một thỏa ước với Hoa Kỳ.
Holbrooke không bi quan như Oksenberg. Ông ta biết có trở ngại nhưng không phải là không vượt qua được. Holbrooke cũng biết quan điểm của Brzezinski. Ông ta cũng biết Việt Nam và Kampuchia đang ở trên bờ vực chiến tranh và sự liên hệ của họ với siêu cường. Một thời gian ngắn trước khi gặp Thạch, máy bay thám thính RC 135 của Hoa Kỳ bay gần bờ biển miền Trung Việt Nam thu nhận được tín hiệu cho biết một sư đoàn cọng sản Việt Nam đang triển khai ở biên giới Kampuchia. Các tin tình báo khác cũng cho biết hoạt động quân sự đang triển khai ở biên giới Kampuchia-Viêt Nam và đang hâm nóng chiến tranh biên giới. Raphael Iungerich, trưởng ban phân tích về Đông Dương của cơ quan tình báo bộ Ngoại giao, hồi tháng Tám viết một bản nhận định, tiên đoán Việt Nam trù định kế hoạch lật đổ Pol Pot trong vòng 6 tháng. (30)
Hoa Kỳ cũng quan tâm về việc Việt Nam thắt chặt hơn nữa quan hệ với Moscow bằng cách tham gia khối Comecon. Holbrooke nói rõ mối quan tâm này với Thạch. Thạch trấn an ông ta: “Chủ ý của chúng tôi đối với Kampuchia chỉ là phòng vệ.” Câu trả lời của Thạch có thể chấp nhận được vì đã có lúc Hoa Kỳ biết bọn Khmer Đỏ tàn ác tấn công các làng Việt Nam dọc theo biên giới. Iungerich nói với tôi: “Thực ra, Holbrooke và tất cả chúng tôi nói chuyện với phía Việt Nam là vào thời điểm tháng Chạp 1978. Lúc đó Việt Nam đang bị phục kích bên trong lãnh thổ Việt Nam, Điều đó cũng nhằm chống Thái Lan vào mùa hè năm đó. Vì vậy chúng tôi nhìn con chó hoang Pol Pot như là kẻ mà cả vùng ai cũng căm ghét, coi như là tên khủng bố chính yếu. Vì vậy chúng tôi rất thiên về quan điểm của người Việt vào thời gian đó,” (31)
Vance và Holbrooke cho rằng sự căng thẳng ở trong khu vực là một lý do khác để củng cố sự hiện diện của Hoa Kỳ. Quan hệ bình thường với cả Trung Hoa và Việt Nam có thể tạo cho Hoa Kỳ đòn bẩy để giảm căng thẳng trong vùng. Sự xung đột trong nội bộ cọng sản ở châu Á tạo ra đe dọa cho vùng này nhưng cũng là một cơ hội để thúc đẩy Hoa Kỳ trở lại. Bộ trưởng bộ Ngoại giao Úc, Andrew Peacock, bạn thân của Holbrooke hoàn toàn chia xẻ quan điểm của Holbrooke và Vance. Sau nầu ông ta nói với tôi ông ta hết sức phấn khởi nghe tin bình thường hóa đang tiến tới với Việt Nam và ông ta cũng có ý kiến về hành động bổ sung. Peacock kể lại: “Lúc ấy tưỏng như mọi việc đã tới nơi rồi và tôi đề nghị với họ (Vance và Holbrooke) đó là ý kiến hay, nếu những nước như Úc bắt đầu nói chuyện với Kampuchia về một vài hình thức trao đổi ngoại giao và từng bước chậm rãi tiến chung con đường với Trung Hoa. Trung Hoa có thể thấy chúng ta đang canh chừng họ. Những nước như Canada và Tân Tây Lan cũng có thể được yêu cầu làm như chúng ta. Do đó, chúng ta đóng một vai trò kềm giữ bất cứ một sự đối nghịch nào trong việc bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ qua mối quan hệ Mỹ-Hoa” (31) Holbrooke sau này cũng không nhắc lại những ý kiến như vậy đã được bàn thảo, nhưng ông ta nói: “Tôi không nhớ, nhưng nếu Andrew cho rằng việc ấy xảy ra thật thì tôi chẳng tranh cải gì cả.” (33)
Ngày 27 tháng Chín, một ngày đơn giản trong chuỗi biến cố thế giới, cũng như mọi buổi tối khác, một bản tóm tắt về việc Holbrooke họp với Thạch được chuyển từ bộ Ngoại giao tới tòa Bạch ốc, có ghi thêm lời nhận xét của bộ trưởng ngoại giao Vance về việc thực hiện những bước tiến nhằm bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Điều này đúng như những gì Carter đã suy nghĩ vì hồi đầu tháng Chín, tổng thống đã chỉ thị cho Brzezinski phải nhắm vào mục đích “công nhận đồng thời với cả Trung Hoa lẫn Việt Nam”. (34)
Brzezinski chống lại những điều ông ta cho là cố gắng của Vance và Holbrooke “để đưa Việt Nam vào tiến trình bình thường hóa quan hệ Mỹ-Hoa và Trung Hoa cho rằng chúng ta cũng bình thường hóa với Việt Nam.” Trong mục tiêu chiến lược đối đầu với người Nga, những vấn đề khu vực trở nên kém trọng yếu. Ông ta cũng chẳng lưu tâm nhiều tới mối hận thù giữa người Trung Hoa và Việt Nam và nỗi sợ hãi của Trung Hoa đối với các nước chung quanh. Ông ta loại trừ mối sợ hãi của các nước trong khu vực đối với việc Trung Hoa có thể bành trướng xuống phương Nam, bởi vì, như ông ta nói với tôi “chẳng phải vì lý do lịch sử hay lý do chiến lược mà lo sợ như thế.” Với ông, Việt Nam chỉ là kẻ được Liên Xô ủy nhiệm. Việc Trung Hoa lo lắng Việt Nam trở thành một căn cứ của Liên Xô chính là điều Hoa Kỳ quan tâm nhứt. Ông ta nói: “Vance và Holbrooke thúc đẩy việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, theo nhận định của ông, chỉ làm hỏng việc bình thường hóa quan hệ Mỹ-Hoa, có khả năng phát triển quan hệ chiến lược với Trung Hoa.” Ông ta cho rằng chính Holbrooke, nôn nóng trong việc quan hệ với Việt Nam, là người đã xúi Việt Nam từ bỏ yêu cầu viện trợ. Ông ta tuyên bố một cách tự hào: “Tôi cho rằng Holbrooke đến đó (gặp phái đoàn Việt Nam tại Nữu Ước hồi tháng Chín/ 1978) để chứng tỏ rằng họ muốn làm cho việc quan hệ bình thường thêm được dễ dàng, và tôi từ chối việc ấy.” (35)
Ông ta cho biết đã thảo luận về hoạt động vô ích đó, và Carter đồng ý những điều ông ta phân tích, quyết định trì hoãn việc bình thường hóa với Việt Nam. Năm 1981, khi Brzezinski nói với tôi việc này thì Việt Nam đã trở thành một quốc gia bị nhiều người kinh tởm vì họ chiếm đóng Kampuchia và hàng vạn người vượt biên bằng thuyền. Lời ông ta phát biểu giống như lời tố cáo của một chính khách mà chỉ một mình ông ta tấn công vào việc bình thường quan hệ với Hà Nội. Một người khác, có thể tố cáo như vậy, nếu không được người ta “tin tưởng” lắm đối với việc cản trở quan hệ bình thường như trên thì mai mỉa thay, người đó lại là Leonard Woodcock, người đã hướng dẫn phái đoàn của tòa Bạch ốc đi Hà Nội hồi mùa xuân năm 1977 để dọn đường cho công việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
Là người giữ nhiệm vụ trưởng phòng liên lạc của Mỹ ở Bắc Kinh, và là người được giao nhiệm vụ thương thuyết bình thường hóa Mỹ-Hoa, Woodcock bây giờ khác xa với những quyền hạn ưu tiên trong khi hướng dẫn phái đoàn thăm viếng Hà Nội trước kia. Việc bí mật thương nghị với Trung Hoa về quan hệ bình thường giữa hai nước bắt đầu ở Bắc Kinh hồi tháng Bảy, đạt tới một mức độ nhạy cảm và cần phải thận trọng hơn nữa. Có nhiều điều hết sức nhạy bén do bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Hoa của Trung Hoa đề nghị hôm 3 tháng Mười mà ông đem về theo. Cùng với Vance, Holbrooke và Oksenberg gặp phái đoàn Trung Hoa để thảo luận trong bữa ăn tối. Cũng tối hôm đó, George Quintin chỉ huy một đám đốt pháo bông ở công viên Central Park, cách chỗ phái đoàn Trung Hoa chỉ có mấy căn nhà. Tiếng pháo nổ dội vào khung cửa kính tăng thêm vẽ bi tráng của cuộc đối đầu nóng bỏng. Bộ trưởng Hoàng Hoa với vẽ hiếu chiến, kịch liệt đã kích Vance về việc Hoa Kỳ cương quyết duy trì quan hệ và bán vũ khí cho Đài Loan. Tới mười giờ đêm, khi họ nghĩ tới bữa ăn tối, thì các đĩa thức ăn ngon do Trung Hoa dọn ra trên bàn đã nguội lạnh. Holbrook tiếc rẽ nhớ lại bữa ăn tối với thức ăn lạnh ấy. “Chúng ta ở đây, chẳng thấy được pháo bông, nhưng tiếng nổ thì nghe như súng cối, giống Saigon trong thời chiến.”
Woodcock chán nãn toàn bộ công việc. Tuy nhiên, ông ta thấy có một chút hy vọng khi một người phụ tá của Hoàng Hoa len lén tới gần để nói nhỏ với ông. Ông ta trở lại Bắc Kinh để định lại một vòng thương thuyết mới. Đó là dấu hiệu bí mật của người Trung Hoa: mặc dù tranh cải với Vance, nhưng lại uyển chuyển với Woodcock vì ông này làm việc gần gủi với Carter và Brzezinski hơn.
Do đó, trong cuộc họp với Brzezinski ở phòng Bầu Dục hôm 11 tháng Mười/1978, Carter hỏi Woodcock về quan điểm của ông đối với tiến trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, ông này trả lời nhanh là “Không”. Ông trình bày với Carter ý nghĩ sâu sắc của ông là nếu có quan hệ với Việt Nam tại thời điểm đó thì nó sẽ là “bưng đổ mối quan hệ với Trung Hoa xuống nước.” Woodcock sau này kể lại, theo ông ta, nhiệm vụ của ông đơn thuần có liên hệ tới lòng mong muốn kết thúc thỏa hiệp bình thường quan hệ với Trung Hoa. Tuy nhiên, có phải Trung Hoa muốn chỉ cho ông ta thấy rằng họ có nhận xét không chắc lắm về việc thiết lập quan hệ Mỹ Việt? Woodcock nói rằng không bao giờ ông ta trắc nghiệm người Tàu về vấn đề này. Những vấn đề này lại nổi lên khi một người nào đó đi thăm Trung Hoa. “Một lần, trong khi người nào đó có thể hỏi: Ông nghĩ thế nào nếu chúng tôi lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Câu trả lời có thể đó là công việc của ông, nhưng chúng tôi nghĩ là chẳng khôn ngoan khi nói vì lý do này hay vì lý do kia mà không nói rõ ra rằng điều đó không làm cho chúng tôi vui.” Lý do ông ta sợ phản ứng tiêu cực của Trung Hoa là không phải họ biểu lộ sự chống đối nhưng bởi vì vấn đề không được đem ra thảo luận gì cả. Woodcock giải thích: “Từ tháng Bảy, tôi đã nói chuyện với họ một cách nghiêm chỉnh, và lúc bấy giờ là tháng Mười. Chúng tôi đã sẵn sàng cho hành động chót. Chưa bao giờ nói chuyện với Trung Hoa về Việt Nam trong khoảng thời gian đó, không nói với họ việc quan hệ bình thường với Hà Nội. Tôi nghĩ rằng có thể đặt ra trong trí họ niềm tin nơi chúng tôi.” (36)
Brzezinski và Woodcock đọc được phản ứng của Trung Hoa bằng sự đối nghịch với Holbrooke. Holbrooke nói: “Tôi nhớ rất rõ, năm 1978, trong khi Đại hội đồng Liên hợp Quốc họp thì người Trung Hoa nói với chúng tôi: “Những điều ông làm để bình thường hóa quan hệ với Việt Nam là việc của ông. Chúng tôi không chống lại việc bình thường hóa quan hệ của Hoa Kỳ với bất cứ một nước xã hội chủ nghĩa nào.” Do đó, tất cả chúng tôi biết rằng dù họ không nhiệt tình với công việc ấy bởi vì họ muốn tái lập quan hệ với chúng tôi, họ không chống lại việc quan hệ bình thường giữa chúng tôi và Việt Nam.” (37) Nhưng Carter đồng ý với Brzezinski và Woodcock “Quan hệ đối với Trung Hoa là điều quan trọng nhất” và quyết định trì hoãn quan hệ với Việt Nam cho đến khi việc quan hệ với Trung Hoa hoàn tất. (38)
Trong bầu không khí mưu đồ bí mật bao quanh các cuộc đàm phán quan hệ bình thường với Trung Hoa, quyết định của tổng thống đưa ra hôm 11 tháng Mười, mọi người vẫn chưa được biết, ngọai trừ một nhóm nhỏ ở bộ Ngoại giao, là nơi có động cơ thúc đẩy công việc thiết lập tòa đại sứ ở Hà Nội. Holbrooke và các phụ tá chính yếu của ông không nói thật lý do tại sao việc bình thường hóa bị đình chỉ, có lẽ là để tránh một sự xung đột khác nữa giữa Vance và Brzezinski. Thay vì nói rõ ra việc thiết lập quan hệ với Trung Hoa quan trọng hơn với Hà Nội thì họ giả bộ nói rằng việc ký kết một thỏa hiệp thân hữu với Việt Nam có thể tạo ra những sự phức tạp nội bộ, có thể có ảnh hưởng đến cuộc bầu cử quốc hội vào đầu tháng Mười một. Sau này, một phụ tá thân cận nhứt của Holbrooke nói thêm: “Sau ngày 27 tháng Chín, tòa Bạch ốc chỉ thị cho chúng tôi: Đừng bình thường hóa, đợi đến sau ngày bầu cử.” (39)