← Quay lại trang sách

Một cái nháy mắt của Hoa Thạnh Đốn

Mục đích của Trung Hoa là gì? Mục đích của Bắc Kinh tuồng như có sự thay đổi sau tháng Bảy/1978, khi lần đầu tiên Bộ Chính trị trù liệu việc dạy cho Việt Nam “một bài học”. Trong khi ý định trừng phạt Việt Nam “vô ơn” và là một anh “học trò bất trị” bằng cách đánh mạnh vào Việt Nam và buộc họ phải suy nghĩ lại chính sách của họ vẫn còn là một mục tiêu chính, tình hình thế giới có liên hệ tới vấn đề này đã làm cho Trung Hoa tăng cường mục tiêu. Việc Việt Nam liên minh với Liên Xô và xâm lược Kampuchia loại trừ cuộc so găng với một Trung Hoa vượt trội trong khu vực châu Á. Mất mặt vì chế độ Pol Pốt sụp đổ, và bị Mạc Tư Khoa đe dọa bao vây có thể làm suy yếu quyền lực Trung Hoa. Đổ một phần tư triệu người để chống Việt Nam, đánh đổ cái gọi là “huyền thoại Việt Nam là một nước vô địch” như Đặng đã từng tuyên bố, là nhằm làm mờ nhạt niềm tự hào và bảo tồn tiếng tăm tin cậy nơi Trung Hoa và cũng là buộc Việt Nam phải rút vài đơn vị ra khỏi Kampuchia. Đó cũng là một bài học cho toàn thể thế giới Tây phương mà họ từng coi Trung Hoa như một con bệnh tê liệt khi phải đối đầu với Liên Xô đang theo đuổi chủ nghĩa phiêu lưu. Đặng tuyên bố với một nhà báo trong khi cuộc xâm lăng của Trung Hoa đang diễn ra: “Chúng tôi không tha thứ cho một Cu-Ba phách lối một cách hoang tàng ở Phi châu, ở Trung Đông hay các khu vực khác, chúng tôi cũng không thể nào tha thứ cho một Cu-Ba ở phương Đông (tức Việt Nam) phách lối ở Lào, ở Kampuchia hay trên vùng biên giới (Hoa-Việt). Hiện giờ, một vài nơi trên thế giới sợ không dám đụng đến chúng, ngay cả khi chúng làm điều gì đó kinh khủng. Những nước này không dám có hành động nào chống lại chúng.” (75)

“Giải phóng quân Nhật báo” của Trung Hoa còn nói một cách gay gắt hơn: “Cuộc tấn công phòng vệ của chúng tôi là một phương thuốc ngăn ngừa cho những ai mắc chứng sợ hãi Liên Xô. Chiến thắng của chúng tôi là một khích lệ lớn cho các nước Đông Nam Á và cho cả thế giới đối với cuộc đấu tranh toàn bộ chống lại chủ nghĩa bá quyền.” (76)

Tuy nhiên, lời bột phát của Đặng chống lại chính sách hòa hoãn của phương Tây lại chính là thừa nhận gián tiếp về thất bại của Trung Hoa khi họ muốn kêu gọi ủng hộ cho hành động thô bạo của họ. Nhờ có sự hỗ trợ của Brzezinski đối với hành động này, Hoa Kỳ chỉ là một quốc gia đơn độc ở Tây phương chấp thuận cuộc chiến do Trung Hoa gây ra. Trái ngược với việc lên án trước đây khi Việt Nam xâm lăng Kampuchia là “Một sự đe dọa cho nền hòa bình và ổn định trong khu vực, có thể tạo ra nhiều xung dột nguy hiểm và rộng lớn hơn.” Hoa Kỳ âm thầm đồng ý với việc Trung Hoa lên án Việt Nam xâm lược Kampuchia. Tổng thống Carter tuyên bố: “Trong vài tuần qua, chúng ta thấy Việt Nam xâm lược Kampuchia và như kết quả cho thấy, quân Trung Hoa xâm nhập biên giới Việt Nam.” Phát ngôn nhân Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam tức khắc rút quân khỏi Kampuchia và Trung Hoa rút quân khỏi Việt Nam, một hình thức can thiệp đúng lúc, ám chỉ Hoa Kỳ không phải là mục tiêu của quân đội Trung Hoa ở lại Việt Nam bao lâu quân Việt Nam còn trụ lại Kampuchia. (77)

Brzezinski thành công khi chống lại yêu cầu của Vance đòi trì hoãn chuyến đi Trung Hoa của bộ trưởng ngân khố Michael Blumenthal để bày tỏ sự bất bình của Hoa Kỳ đối với viêc Trung Hoa tấn công Việt Nam. Brzezinski viết trong hồi ký một cách kín đáo: “Nhờ sự hỗ trợ của Carter, mối quan hệ mới Hoa-Mỹ đạt được thành công trong lần đầu ra trận”. (78)

Chiến tranh Hoa-Việt tuồng như đánh dấu một bước mới trong việc hợp tác an ninh Hoa-Mỹ sau chuyến thăm của Brzezinski hồi tháng Năm/1978. Những năm sau, vài viên chức Mỹ đi thăm Trung Quốc với tính cách riêng, có nói với tôi trong khi đám mây đen bao trùm biên giới Hoa-Việt trong tuần lễ đầu tiên của cuộc chiến, đã ngăn vệ tinh gián điệp Mỹ không khám phá ra được các cuộc triễn khai nhỏ của quân đội Việt Nam. Hoa Thạnh Đốn kín đáo giúp Trung Hoa bằng cách dùng vệ tinh thám sát việc triển khai quân đội Liên Xô dọc biên giới Nga-Hoa và báo cho Trung Hoa biết quân đội Liên Xô ở Tây Bá Lợi Á được đặt trong tình trạng báo động sau khi Trung Hoa mở đầu cuộc chiến Việt Nam”. (79)