Tương lai Đông Dương sẽ ra sao?
Căn cứ vào lịch sử hiện đại và những năm trước mắt có lẽ phải thêm nhiều đau khổ và đổ máu. Trung Hoa quyết định dạy Việt Nam và thiết lập quyền lực ưu thế của họ ở Đông Nam Á, một mục đích chỉ được các nước ASEAN và Tây phương hỗ trợ. Việt Nam thì cố giữ ưu thế đã giành được bằng sức mạnh quân sự và bóc lột chính nhân dân họ. Trừ phi Hà Nội và Bắc Kinh tỏ rõ thiện chí của mình còn không thì không bao giờ Đông Dương có được hòa bình.
Mặc dù có diện tích to lớn và giàu nhân lực, Trung Hoa tự họ thấy không đủ khả năng buộc Việt Nam đi theo đường lối họ muốn. Có Moscow hỗ trợ, Việt Nam có sức mạnh quân sự đáng gờm. Tuy nhiên, dù Việt Nam giành được ưu thế quân sự ở Đông Dương nhưng què quặt về kinh tế và xáo trộn xã hội, vì tinh thần quốc gia của người Khmer và sức chống đối bền bỉ truyền thống thù địch của người Thái Lan.
Nếu lịch sử đã dạy cho những ai đóng vai chính trong chính trường này cần thận trọng khi đối đầu với nhau thì lịch sử cũng cho họ thấy rằng hòa bình có thể vãn hồi được. Nỗi cay đắng trong cuộc đối đầu Hoa-Việt cũng phù hợp với nhận thức sâu sắc của mỗi bên. Trong quá khứ, giữa những lần hai nước đọ sức chiến đấu cũng lắm lúc họ có được hòa bình, căn bản đặt trên sự kiện Trung Hoa thấy được khó khăn của nước Việt Nam lệ thuộc thiên triều và Việt Nam tôn trọng ưu thế của Trung Quốc. Để có được hòa bình, Trung Hoa cần thừa nhận quan tâm của Việt Nam đối với Kampuchia vì tình hình an ninh và cũng trong chiều hướng như thế, Việt Nam cũng cần quan tâm đến tính hình an ninh Trung Hoa. Niềm tự hào của những người lãnh đạo Việt Nam ngày nay là không sẵn sàng đi theo con đường anh hùng Nguyễn Huệ ngày xưa đã đi -người chiến thắng quân sự chống lại Trung Hoa mang cống vật sang Tàu- Họ không thể không biết tới quyền lực của Trung Hoa trong vùng. Những cố gắng của Việt Nam kiểm soát Kampuchia hồi thế kỷ thứ 19 bị thất bại và chính kinh nghiệm của họ mới đây làm cho Hà Nội phải thêm nhiều suy nghĩ.
Lịch sử quan hệ Thái Lan - Việt Nam cũng cho thấy rằng chỉ có một thời gian ngắn hồi đầu thế kỷ 19 bai bên không đấu đá nhau vì vấn đề Kampuchia, khi đó Việt Nam có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với Kampuchia. Tuy nhiên, triều đình Huế cũng thừa nhận quyền lợi của Thái khi giải quyết vấn đề Kampuchia. Tổng trấn Gia Định thành Lê văn Duyệt có nói trong một buổi lễ rằng ỏKampuchia là một đứa bé mà Thái Lan là cha, Việt Nam là mẹ.õ Người Khmer có thể nổi giận vì bị coi như đứa bé không nơi nương tựa. Nhưng vì có những thập niên chiến tranh và đẫm máu dưới thời Pol Pot, ngày nay, nước Kampuchia quá hèn yếu để có thể trở thành một quốc gia đệm giữa Việt Nam và Thái Lan. Kampuchia lại có thể bắt đầu một cuộc hành trình với đầy đủ tinh thần quốc gia không nằm dưới sự quản lý chung của Thái-Việt mà bằng một bảo đảm quốc tế. - Một sự bảo đảm không cho Khmer Đỏ quay trở lại với chính sách giết người hoặc ngoại quốc can thiệp. Chỉ có một sự bảo đảm to lớn và có đủ quyền hạn như thế mới làm cho người Kampuchia an lòng, một chiếc cầu vượt qua những nghi ngờ lẫn nhau giữa Việt Nam và Thái Lan và tất cả ai ai cũng an tâm về vấn đề Kampuchia.
Tuy nhiên, một bảo đảm quốc tế như thế chỉ có thể có được khi Moscow có thêm ảnh hưởng chính trị và giao thương ở vùng Đông Nam Á, và họ sẽ từ bỏ mục đích duy nhứt là tìm kiếm cơ may xử dụng khí cụ quân sự.
Đó là một trách nhiện nặng nề -một cơ may- tuy nhiên, phải do người Mỹ gánh vác. Tại một khúc quanh đáng mai mĩa, bánh xe lịch sử lại đặt Washington vào vị trí trọng tài ở châu Á. Đó là vị trí tốt đẹp nhứt bảo đảm sự cân bằng quyền lực ở Đông Nam Á, bảo đảm an ninh của Thái đối với Việt Nam, trấn an Hà Nội khỏi chống lại Trung Hoa vì Trung Hoa muốn giành quyến bá chủ, trong khi đó cũng làm cho Trung Hoa dịu bớt quan tâm đối với vai trò của Moscow và giúp Hà Nội có được hoàn toàn độc lập khi quan hệ với Liên Xô. Tuy nhiên, muốn đạt được điều này, Hoa Thạnh Đốn phải từ bỏ con đường đơn độc với Đông Dương -bao gồm cả công việc kiếm tìm người Mỹ mất tích trong chiến tranh- và đóng một vai trò năng động hơn, sáng tạo hơn như người ta mong đợi. Uy danh và ảnh hưởng của Mỹ một thời bị mất mát vì cuộc phiêu lưu quân sự ở Đông Dương nay có thể giành lại được khi Mỹ xử dụng sức mạnh kinh tế và ngoại giao và trên hết là giúp Kampuchia phục hồi sức sống./
hoànglonghải/tuệ chương
Dịch xong ngày 14 tháng 6 năm hai ngàn.
Worcester, Massachusetts
(*) Manichaeism: còn viết là Manichaeanism, tôn giáo do Mani dựng nên trước Thiên chúa giáng sinh. (216-76) Ông là một nhà thông thái người Ba-Tư, tự cho là Paraclete (hòa giải) do Christ ủy thác. Ông này vay mượn tư tưởng của những tôn giáo khác như Phật, Chúa, Gnosticism và Zoroastrianism, ông ta tin tưởng triết học nhị nguyên (dualism - giữa thiện vá ác, linh hồn tiếp nối đời sống và hy vọng cứu rổi. Những người Magian chống lại ông cũng như giáo thuyết của ông đóng đinh lên thập giá. Thánh Augustine là một người từng theo giáo phai Mani khi còn trẻ. Ở Tây phương, giáo phái này tồn tại đến thế kỷ thứ Sáu còn Đông phương thì kéo dài đến thế kỷ 13.