← Quay lại trang sách

VỀ NHÀ Tác giả: Ajaan Lee Dhammadharo

Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961) là một trong những vị tỳ khưu theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng của Thái Lan bậc nhất. Cuộc đời Ngài ngắn ngủi nhưng đầy biến động. Nổi tiếng là vị thầy đạo hạnh và có khả năng thần thông, Ngài là người đầu tiên đã đem truyền thống tu khổ hạnh ra khỏi những cánh rừng thuộc lưu vực sông Mê-kông, để hòa nhập vào xã hội hiện đại ở ngay trung tâm Thái Lan.

.

Nhắm mắt khi ngồi thiền, nhưng chỉ khép hờ mí mắt. Đừng cố gắng nhắm mắt như người đang ngủ. Bạn phải duy trì sự hoạt động của các dây thần kinh mắt. Nếu không bạn dễ ru ngủ mình lắm.

Hãy nghĩ đến đối tượng thiền trong tâm -hơi-thở-vào-và-hơi-thở-ra-, sau đó hãy nghĩ đến việc mang đối tượng thiền bên ngoài ‘buddho’ vào hơi thở.

Một khi bạn đã có thể tập trung vững vàng trên hơi thở, hãy để hơi thở lan tỏa khắp thân cho đến khi bạn cảm thấy nhẹ nhàng, tự tại. Đây được gọi là duy trì chất lượng chuẩn trong việc thực hành chú tâm. Giữ cho tâm vững chãi để nó không trượt khỏi hơi thở được gọi là duy trì đúng đối tượng. Chánh niệm vững vàng về từ niệm (buddho) của bạn, không có sự sai sót nào, được gọi là duy trì sự chủ ý thích hợp. Khi bạn có thể giữ tâm vững chãi trên ba yếu tố đó, bạn có thể nói rằng mình đang thực hành thiền.

Một khi ta đã đem tâm hướng thiện theo cách này, những thứ bất thiện -nivarana, hay chướng ngại- chắc chắn sẽ len vào tâm. Nếu ta định danh các chướng ngại này, thì có năm. Nhưng ở đây chúng ta không nói đến tên chúng; ta chỉ nói chúng là gì: (1) Chướng ngại là những thứ làm ô uế, hư hoại tâm. (2) Chúng khiến tâm u ám, tối tăm. (3) Chúng là các rào cản ngăn không cho tâm trụ vững chãi trên các yếu tố cấu thành thiền định.

Chướng ngại đến từ những mối quan tâm bên ngoài, và các mối quan tâm này phát khởi vì sự quan tâm nội tại yếu kém. Nói rằng các mối quan tâm nội tại yếu có nghĩa là tâm ta không trụ vững chãi trên đối tượng của nó. Giống như khi ta thả cái gàu vào trong thùng nước: Nếu không có thứ gì để giữ chặt nó lại, nó sẽ nghiêng qua, ngả lại. Sự lung lay của tâm là cái tạo ra đường dẫn cho các thứ chướng ngại tràn vào, khiến cho tâm mất thăng bằng.

Chúng ta phải tự biết khi tâm bắt đầu nghiêng ngả, nó có thể nghiêng theo một trong hai cách: (1) nó có thể nghiêng theo những ý nghĩ về quá khứ, các vấn đề vừa xảy ra hai giờ trước đây hay trở về đến tận hơi thở đầu tiên. Những sự phóng tâm như thế có hai ý nghĩa đối với chúng ta: Một là chúng về những việc thế gian -những vấn đề của chúng ta hay của người khác, dù tốt hay xấu – nếu không thì chúng liên quan đến đạo pháp, những việc tốt hay xấu đã xảy ra mà ta biết đến. (2)Hoặc là tâm ta có thể nghiêng về ý nghĩ trong tương lai, cũng tương tự như trên -những vấn đề của chúng ta hay của người khác, qua cách nhìn thế gian hay đạo pháp, dù tốt hay xấu.

Khi tâm ta bắt đầu nghiêng ngả theo cách này, chúng ta sẽ nhận được một trong hai loại kết quả: hài lòng hay thất vọng, các loại trạng thái đầy dục lạc hoặc đầy tự hoại thân. Vì lý do này, chúng ta phải luôn nắm bắt tâm thức, và mang nó trở về hiện tại để các chướng ngại này không thể len vào.

Ngay như thế tâm cũng không thực sự thăng bằng. Nó có khuynh hướng lung lay ở một mức độ nào đó. Nhưng sự lung lay, chập chờn đó không thực sự sai trái (nếu chúng ta biết cách sử dụng nó; nếu chúng ta không biết cách, thì nó là sai) vì khi tâm lung lay, chập chờn là nó đang tìm một chỗ để trụ vào. Trong Pali, điều đó được gọi là sambhavesin. Vì thế chúng ta được khuyên nên tìm một đề mục thiền để hoạt động như là một chỗ trụ cho tâm, giống như màn ảnh hoạt động như một tấm phản chiếu của hình ảnh để chúng hiện ra rõ ràng. Đây là cách để giữ cho các mối quan tâm bên ngoài không thể tràn vào.

Nói cách khác, chúng ta được dạy hành thiền bằng cách chú tâm vào một nơi, vào hơi thở. Khi chúng ta quán tưởng đến hơi thở, đó được gọi là vitakka – giống như khi ta nghĩ ‘bud’ thở vào và ‘dho’ thở ra, như ta đang làm đây. Còn khi tâm lung lay, chập chờn, đó là vicara, hay sự quản lý, đánh giá. Khi mang vicara vào bối cảnh này, chúng ta có thể buông một phần của vitakka. Nói cách khác, khi ta dừng niệm ‘buddho’ và sau đó bắt đầu quán sát xem thân bị từng hơi thở vào ra ảnh hưởng như thế nào. Khi hơi thở ra, nó có dễ dàng, tự nhiên? Khi hơi thở vào, nó có dễ chịu? Nếu không, hãy điều chỉnh nó.

Khi hướng dẫn tâm thức theo cách này, chúng ta không phải sử dụng 'buddho'. Hơi thở vào sẽ thẩm thấu và lan rộng khắp cơ thể, cùng với cảm giác chánh niệm và tỉnh táo. Khi chúng ta buông bỏ một phần của vitakka, như khi chúng ta ngừng lặp lại 'buddho', để chỉ có hành động theo dõi hơi thở - hành động đánh giá tăng lên. Sự dao động của tâm thức trở thành một phần của định tâm của chúng ta. Bên ngoài mối quan tâm ngoại vật của ta lắng xuống. 'Lắng xuống’ không có nghĩa là tai chúng ta bị điếc. Lắng xuống có nghĩa là ta không khuấy động tâm thức để nó chạy theo các đối tượng bên ngoài, quá khứ hay tương lai. Chúng ta để nó chỉ ở lại hiện tại.

Khi tâm thức được tập trung theo cách này, nó phát triển sự nhạy cảm và hiểu biết. Sự hiểu biết này không đến từ việc học hỏi hay từ sách vở. Nó đến từ sự thực hành – giống như khi chúng ta đóng gạch viên. Lúc bắt đầu, ta chỉ biết trộn đất sét với cát và cách làm những tấm gạch phẳng đơn giản. Nhưng với sự tiếp tục thực hành, ta sẽ biết nhiều hơn: cách làm cho chúng đẹp hơn, cách làm cho chúng cứng hơn, chắc hơn và không bị rạn nứt. Sau đó ta sẽ nghĩ ra cách thêm nhiều màu sắc, hình dạng khác nhau cho gạch. Và khi chúng ta cứ tiếp tục làm ra những tấm gạch tốt hơn, đẹp hơn, thì các đối tượng mà chúng ta làm ra trở thành thầy của chúng ta.

Khi chúng ta chú tâm trên hơi thở cũng thế. Khi tiếp tục quán sát cách hơi thở ra vào, ta dần biết hơi thở vào là thế nào; nó có dễ chịu không; thở vào như thế nào để ta cảm thấy thoải mái; thở ra như thế nào để ta cảm thấy dễ chịu; thở như thế nào thì khiến ta căng thẳng, gồng cứng; cách nào khiến ta cảm thấy mệt – vì hơi thở có bốn cách khác nhau. Đôi khi hơi thở vào dài và ra dài, đôi khi hơi thở vào dài và ra ngắn, đôi khi hơi thở ngắn và ra dài, đôi khi hơi thở vào ngắn và ra ngắn. Vì thế ta cần quán sát từng loại hơi thở để xem chúng đem lại bao nhiêu lợi ích cho tim, phổi và các bộ phận khác trên cơ thể.

Khi ta tiếp tục theo dõi và đánh giá hơi thở theo cách này, chánh niệm và sự tỉnh thức sẽ phát khởi bên trong ta. Định sẽ khởi, sự hiểu biết sẽ phát khởi, tỉnh thức sẽ phát khởi bên trong chúng ta. Hành giả, người đã phát triển được khả năng này có thể phát triển một thiện xảo là có thể thở mà không dùng đến mũi; hay thở bằng mắt hay tai. Nhưng khi mới bắt đầu, chúng ta phải sử dụng hơi thở qua mũi vì đó là hơi thở dễ nhận biết. Trước tiên chúng ta cần phải học cách quán sát hơi thở thô trước khi ta có thể nhận biết cảm giác của các hơi thở vi tế hơn trong thân.

Nói chung, năng lượng hơi thở trong thân có 5 loại: (1)'hơi thở tạm thời, như khách' (āgantuka-vāyas) liên tục ra, vào. (2) Năng lượng hơi thở lưu trú trong cơ thể nhưng có thể thấm qua các bộ phận khác nhau. (3) Năng lượng hơi thở xoay quanh tại chỗ. (4) Năng lượng hơi thở di chuyển và có thể chảy qua lại. (5) Năng lượng hơi thở nuôi dưỡng các dây thần kinh và mạch máu trong khắp cơ thể.

Một khi chúng ta đã biết các loại năng lượng hơi thở, cách sử dụng chúng, cách điều chỉnh để chúng phù hợp với cơ thể hơn, là chúng ta đang trở thành chuyên nghiệp. Chúng ta trở nên tường tận hơn với các giác quan của cơ thể. Kết quả sẽ đến: một cảm giác tròn đầy và tự tại tràn ngập châu thân, giống như cây đèn dầu ngấm vào từng sợi chỉ trong lớp phủ của ngọn đèn Coleman, khiến nó phát ra ánh sáng trắng rực rỡ.

Vitakka giống như đổ cát vào cái rây. Vicara thì giống như rây cát. Đầu tiên khi ta bỏ cát vào cái rây, nó vẫn còn vón cục, thô ráp. Nhưng khi ta cứ tiếp tục rây, thì cát sẽ càng lúc càng nhuyễn cho đến khi ta không còn thấy gì ngoài các thành phần nhuyễn mịn. Cũng thế khi ta trụ tâm trên hơi thở. Ở các giai đoạn đầu, hơi thở vẫn còn thô tháo, nhưng khi ta tiếp tục sử dụng càng lúc càng nhiều vitakka và vicara, hơi thở sẽ trở nên nhẹ cho đến khi nó thấm đẵm đến từng lỗ chân lông.

Oḷārika-rūpa: Tất cả các loại cảm giác thoải mái sẽ xuất hiện -cảm giác nhẹ nhàng, thoáng đãng, êm ái, thoát khỏi đau nhức, v.v. -và chúng ta sẽ không cảm thấy gì ngoài sự sảng khoái và an lạc trong sự cảm nhận Pháp (Dhamma), liên tục mát mẻ và thư giãn.

Sukhumāla-rūpa: Cảm giác khoái lạc này sẽ giống như những hạt li ti, như làn sương của các nguyên tử tạo ra không khí nhưng không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nhưng dầu ta cảm thấy thoải mái, thư giãn ở thời điểm này, làn sương khoái cảm dâng tràn cơ thể có thể tạo ra một nơi sinh cho tâm thức, vì vậy không thể nói rằng ta đã vượt qua căng thẳng và đau đớn.

Đây là một trong những hình thức nhận thức mà ta có thể phát triển trong định. Bất cứ ai phát triển được nó sẽ có cảm giác sảng khoái bên trong: một cảm giác nhẹ, giống như bông gòn. Sự nhẹ nhàng này rất dũng mãnh dưới nhiều hình thức. Hīnaṁ vā: Cảm giác thô kệch của cơ thể sẽ biến mất -paītaṁ vā – và sẽ biến thành một cảm giác tinh tế hơn về cơ thể, tinh tế và đẹp đẽ.

Vẻ đẹp ở đây không phải là loại đến từ nghệ thuật hay trang trí. Thật ra, đó là vẻ đẹp trong ý nghĩa tươi sáng, rõ ràng và mới mẻ. Tạo sự khoan khoái. Êm đềm. An tĩnh. Những phẩm chất này sẽ tạo ra cảm giác hưng phấn trong thân, được gọi là sobhaṇa, một trạng thái say mê, phấn khích tràn đầy mọi bộ phận cơ thể. Các tính chất của đất, nước, lửa và gió trong cơ thể đều cân bằng và đầy đủ. Thân dường như trở nên đẹp đẽ, nhưng xin nhắc lại, đây không phải là vẻ đẹp theo ý nghĩa nghệ thuật. Tất cả những điều này được gọi là paṇīta-rūpa.

Khi cơ thể phát triển đầy đủ và hoàn thiện đến mức này, cả bốn đặc tính cơ bản trở nên trưởng thành và có trách nhiệm trong lĩnh vực của chính mình, và có thể được gọi là mahābhūta-rūpa. Đất chịu trách nhiệm các vấn đề thuộc đất; nước trách nhiệm các vấn đề về nước; gió lo các vấn đề về gió, và lửa lo các vấn đề về lửa. Khi cả bốn đặc tính này trở nên có trách nhiệm và trưởng thành hơn trong các vấn đề của riêng mình, điều này được gọi là oḷārika-rūpa. Các tính chất của không gian và ý thức cũng trở nên trưởng thành. Dường như tất cả mọi thứ đều trở thành người lớn trưởng thành. Bản chất của người lớn đã trưởng thành là khi sống với nhau, họ ít khi cãi cọ hay càu nhàu. Trẻ con, khi chúng sống với nhau, có khuynh hướng luôn cự cãi nhau. Vì vậy, khi cả sáu đặc tính này đều trưởng thành, đất sẽ không xung đột với nước, nước sẽ không xung đột với gió, gió sẽ không xung đột với lửa, lửa sẽ không xung đột với không gian, không gian sẽ không xung đột với ý thức. Tất cả sẽ sống trong sự hài hòa và đoàn kết.

Đây là ý nghĩa của ekāyano ayaṁ maggo sattānaṁ visuddhiyā: Đây là con đường thống nhất để thanh lọc chúng sinh. Tất cả bốn tính chất vật lý trở nên trưởng thành theo ý nghĩa thống nhất của cơ thể, bốn-trong-một. Khi tâm đi vào con đường thống nhất này, nó có thể làm quen với các vấn đề của thân. Nó đến để cảm thấy rằng thân này giống như con; tâm như cha mẹ. Khi cha mẹ thấy rằng con mình đã lớn lên, trưởng thành, họ chắc chắn sẽ cảm thấy tự hào. Và khi họ thấy rằng con họ có thể tự chăm sóc bản thân, họ có thể đặt xuống gánh nặng phải chăm sóc nó. (Tại thời điểm này, không cần phải nói về những trở ngại nữa, bởi vì tâm trí tại thời điểm này đã tập trung vững chắc. Các trở ngại không có cơ hội để lẻn vào).

Khi tâm có thể buông thân theo cách này, ta sẽ cảm thấy sự phát sáng nội tại trong cả thân tâm, một sự phát sáng theo nghĩa của một khoái lạc sâu lắng không giống các dục lạc thế gian -thí dụ, thân sẽ cảm thấy thư giãn, thoải mái, không bị đau nhức hay mệt mỏi- một sự phát sáng rạng rỡ. Đối với tâm thức, nó cảm nhận sự phát sáng của một cảm giác bình an, yên tĩnh và sự phát sáng rạng rỡ bên trong. Ánh sáng êm dịu này là bản chất của giá trị nội tại (puñña). Nó giống như hơi nước bốc lên từ các vật thể lạnh và tụ hội lại tạo thành các đám mây rơi như mưa hoặc bốc lên cao và tan đi. Tương tự, cảm giác êm dịu, mát mẻ này cũng bùng phát thành sương mù rạng rỡ. Các tính chất của đất, nước, gió, lửa, không gian và ý thức đều trở thành mù sương. Đây là nơi 'sự rạng rỡ sáu màu' (chabbaṇṇa-raṅsī) phát sinh.

Cảm giác thân dường như rực sáng, tươi mới như một quả đào chín. Sức mạnh của sự tỏa sáng này được gọi là ánh sáng của Pháp (dhammo padīpo). Khi chúng ta phát triển được đặc tình này, thân vững chãi và tâm tỉnh táo hẳn. Một làn sương rạng rỡ - một sức mạnh - xuất hiện bên trong ta. Sự rạng rỡ này, khi nó ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, là nơi mà trực giác giải thoát sẽ xuất hiện: phương tiện để biết tứ diệu đế. Khi trực giác này trở nên mạnh hơn, nó sẽ biến thành tri kiến và ý thức: một tri kiến mà ta chưa học được từ bất cứ nơi nào khác, nhưng đã đạt được từ việc tu tập.

Bất cứ ai có thể làm điều này sẽ thấy rằng tâm trí đạt được những đức tính của Phật, Pháp và Tăng, sẽ đi gội rửa tâm. Một người như vậy có thể nói là đã thật sự được nương trú vào Phật, Pháp và Tăng. Bất cứ ai có thể thực hiện được, dầu chỉ vậy, có khả năng đạt được Thức Tỉnh mà không cần phải đi và làm nhiều việc khác nữa. Nếu ta cẩn thận, quán sát, kiên trì, chánh niệm và sáng suốt, thì ta sẽ có thể mở mắt, mở tai để có thể biết tất cả mọi thứ, -mà thậm chí có thể không phải tái sinh để trở lại và thực hành định tâm nữa. Nhưng nếu ta tự mãn -bất cẩn, vô tâm và lười biếng- thì ta sẽ phải quay lại và trải qua quá trình tu tập một lần nữa.

8.2021

(Trích dịch từ Coming Home do Ṭhānissaro Bhikkhu chuyển ngữ từ Thái sang Anh, 22 tháng 9, 1956). Nguồn: https://www.dhammatalks.org/.../InnerStr.../Section0017.html)