← Quay lại trang sách

- 8 -

Cậu Hai Điền ngồi giữa chiếc ghe, với cái tật cố hữu là chống nạnh. Cậu liếc mắt. Dường như dân chúng đóng cửa lại khi thấy cậu và bọn hộ vệ đi ngang qua. Nhà của Tư Thính, cha ruột cô Huôi, hiện ra giữa chòm cây xanh um. Cậu ra lịnh cho bọn hộ vệ:

– Lên bờ, bao vây xung quanh nhà.

Bọn hộ vệ tuân lời rồi hỏi thêm:

– Thưa cậu, nếu ai kháng cự, chúng tôi đối phó thế nào:

– Cứ bắt sống, bắt nhưng đừng trói, lúc trói thì đừng nói nặng lời. Cô Huôi, Tư Thính hay bất cứ ai cũng đáng bị bắt. Tụi nó làm lộng!

Bọn hộ vệ kéo nhau đi từng hàng dài. Dọc đường ai nấy đều chán nản vì hôm trước bọn họ tới một lần rồi, nhà để trống, không đóng cửa nhưng tuyệt nhiên bên trong chẳng thấy một bóng người. Hôm nay là lần thứ nhì chưa ắt thâu được kết quả.

Cậu Hai nói vọng, từ dưới ghe:

– Mau lên. Tụi bây chậm chạp quá!

Bọn hộ vệ bao vây ngôi nhà. Cậu Hai nhảy lên bờ ra dấu hiệu như ngầm bảo:

– Siết vòng vây!

Cậu chỉ ngón tay vào cửa cái như ra lịnh lục soát. Lát sau, một tên chạy trở ra, đến gần cậu.

Cậu hỏi nhanh:

– Có ai không?

– Dạ, nhà bỏ trống nhưng dưới bếp than lửa còn cháy.

– Lạ thật. Tụi bây dại quá, nó lẻn ra ngoài mà không hay biết.

Tên hộ vệ trả lời:

– Dạ, chắc là xảy ra chuyện gì quan trọng. Trên bàn, tôi thấy tấm giấy viết chữ lăng nhăng.

Câu Hai chạy nhanh vào nhà, chụp miếng giấy rồi đọc. Đại ý, Tư Thính cho biết rằng ông ta tới núi Mo So để dự lễ an táng ông Chúa Hòn, đồng thời ra mắt “cậu Ba Cẩu”.

Dè đâu tình thế biến chuyển quá nhanh! Ai giết cha cậu? Tại sao thằng con nít bị bỏ rơi lại được gọi là “Cậu Ba”! Cậu co chân, đạp nhanh cái bàn, xé nát tấm giấy nọ.:

– Tụi nó giết ba tao! Tao hiểu rồi, chắc là ba tao bị thiệt mạng tại Lung Tràm. Tao phải trả thù, giết thằng Cẩu với con Huôi. Con Huôi…là con nít, bấy lâu nay lấn quyền hạn của mẹ tao. Tao phải cho ông Bá Vạn hay biết.

Ra khỏi nhà, cậu Hai trợn mắt rồi ra lịnh:

– Đốt nhà thằng Tư Thính. Cha con nó muốn soán ngôi vị của tao! Tao không nhịn đâu.

Lửa bốc cháy mù mịt. Dân trong xóm chạy tán loạn, bồng bế nhau, đuổi trâu ra ruộng. Bụi quỳnh hoa run phần phật, nhà cháy khiến gió nổi lên, xoay tròn. Nhớ tới giai thoại xưa, cậu Hai đến gần bụi hoa. Chẳng còn nụ nào cả! Cậu vung tay, nhổ sạch, ném mấy lá quỳnh hoa vào đống lửa. Bọn hộ vệ nhìn nhau ngơ ngác, nêu câu hỏi thầm kín mà chính họ không trả lời nổi:

Ông Chúa chết, đồn điền nầy chia ra hai phần. Họ sẽ theo ai? Rồi đây chắc cuộc tranh chấp sẽ quyết liệt…Cậu Hai và bà chánh thất đứng một phía, thằng Cẩu và cô Huôi, cô Ngó đứng một phía. Nếu đổ máu thì chính họ phải xả thân…

Cậu Hai Điền lập tức xuống bến:

– Tao kiếm ông Bá Vạn mới được. Ông già đó nhiều mưu mô lắm. Ổng sẽ bày kế hoạch cho tao giết thằng Cẩu. Tao thưởng cho ổng một số tiền.

Bọn hộ vệ xuống mấy chiếc ghe lườn, cầm dầm mà chờ. Cậu Hai vỗ trán rồi nói:

– Còn chuyện nầy nữa! Chưa đi được!

Rồi cậu khoát tay:

– Hộ vệ đâu? Kiếm thằng đạo Đất cho tao. Tao xé xác nó. Nó nói toàn là chuyện xui xẻo cho gia đình tao!

Bọn hộ vệ hơi bực dọc vì nhảy lên bờ rồi nhảy xuống ghe quá nhiều lần. Nhưng tất cả đều yên lặng. Phía sườn đồi, là khói trắng bốc lên, lửa cháy vàng hực, đúng ngay hướng nhà ông đạo Đất. Cậu Hai lẩm bẩm:

– Nguy rồi! Đây là việc sắp đặt trước. Tại sao Tư Thính biết tao tới đây? Chắc là Tư Thính và thằng đạo Đất đốt lửa để chọc tức tao! Lên đó làm gì cho mất công! Thôi! Trở về Hòn Chông…

Rồi cậu dậm chân thật mạnh, chiếc ghe nghiêng qua nghiêng lại, suýt chìm:

– Đi qua núi Mo So! Tao muốn gặp thằng Tư Thính, con Huôi, thằng Cẩu. Toàn là quân bất nhơn chiếm đoạt tài sản ông cha tao mấy đời để lại.

Bọn hộ vệ nhìn nhau chưa biết cho đoàn ghe đi về hướng nào vì cậu Hai thay đổi ý kiến như chong chóng. Ai nấy cứ ngậm miệng. Nếu lỡ thốt ra lời sai quấy, cậu Hai sẽ trừng trị gắt gao, đánh đập hoặc giết chết.

Cậu Hai khoát nước dưới rạch để rửa mặt cho tỉnh táo rồi nói:

– Cũng tại con heo rừng ở Lung Tràm! Đi núi Mo So rồi đi Lung Tràm! Tụi bây dám ăn thua với bọn không? Ở đó, đâu có thợ săn, đâu có võ sĩ!

Nhưng, một tên hộ vệ chỉ ngón tay phía Hòn Chông mà reo lên:

– Ai kia, thưa cậu Hai!

Thoạt tiên, cậu Hai không nhận rõ. Trên con rạch, một chiếc ghe độc mộc phóng tới, trước mũi và sau lái có ba người đang dùng sào mà chống. Giữa ghe, một ông lão đứng lom khom, cứ đứng một chập, lại ngồi, như sợ té.

– Ai vậy tụi bây?

Một tên hộ vệ đoán:

– Dường như người quen. Ông già đó hơi giống ông Bá Vạn.

– Phải rồi! Bá Vạn. Chắc tin quan trọng. Tụi bây chống ghe cho tao gặp ổng.

Nói xong, cậu Hai đưa tay ngoắt. Đằng kia, Bá Vạn cũng đưa tay lên trời, để trả lời. Trong phút giây, cậu Hai thương mến Bá Vạn hơn bao giờ hết.

Đúng là người lão bộc gương mẫu của gia đình!

Đằng kia, Bá Vạn mừng thầm khi gặp cậu Hai. Để chuẩn bị tình cảm, ông ta chờ khi gần gặp mặt mới khóc rống lên:

– Cậu ơi! Ông mất rồi. Thằng Cẩu làm phản, chiếm cứ đất đai ở núi Mo So. Cậu cho phép tôi giết nó. Như vầy nhục nhã cho tôi quá. Nó là đứa con rơi, nó là…con chó.

Cậu Hai hỏi:

– Ai đem tin cho ông biết? Chắc như vậy không? Tôi mới vô nhà Tư Thính gặp lá thơ. Thằng đạo Đất đốt chòi để khiêu khích tôi.

Bá Vạn đáp:

– Chuyện hơi dài và hơi bí mật. Tôi muốn nói riêng với cậu. Rủi người khác nghe thì bất lợi. Hay là tôi với cậu lên bờ…

Trước biến cố nầy, thật ra chẳng ai cảm động cả. Cậu Hai hơi mừng vì nay mai sẽ thừa hưởng gia tài, sự chống đối và tranh giành của thằng Cẩu không đáng kể. Bá Vạn thì ra vẻ xúc động để cậu Hai đừng nghi ngờ. Ông ta vuốt mồ hôi trán. Mồ hôi chảy ra vì ông ngồi suốt buổi trên chiếc ghe nhỏ không mui, bị nắng thiêu đốt. Nhưng nó được cậu Hai hiểu là những giọt mồ hôi lo âu của người tôi tớ già.

Bá Vạn thuật chuyện thằng A Mách từ núi Mo So và Lung Tràm trở về với bức thơ.

Cậu Hai hỏi:

– Nó đâu rồi?

– Nó bị bà chánh thất nhốt sau hè. Dường như nó lôi thôi lắm, dính líu tới thằng Cẩu.

– Tại sao lôi thôi?

– Nó nói không ra lời, mặt mày tái mét. Phải chăng nó muốn gieo tin thất thiệt? Làm hộ vệ mà tới lúc nguy nan nó đành bỏ ông Chúa, tội ấy thật đáng đánh.

Cậu Hai tức giận vô cùng.

– Về nhà, tôi giết nó. Bây giờ, theo ý ông, tôi phải làm gì?

– Cậu nên tới núi Mo So để rước linh cữu ông Chúa đem về Hòn Chông mà mai táng. Ngày nay thằng Cẩu với cô Ngó, cô Huôi còn giữ được linh cữu thì dân chúng tin lời họ.

– Phải lắm. Nhưng đi bằng cách nào? Bọn thằng Cẩu đông đảo không? Dao mác, cuốc xuổng nhiều hay ít?

Để thúc giục cậu Hai lên đường, Bá Vạn đáp:

– Cậu cho tất cả số hộ vệ đi theo. Hơn nữa, tôi tình nguyện phò cậu mà. Tụi nó làm sao hơn tôi được? Bấy lâu nay, tôi chưa làm mất lòng ai. Luôn luôn, tôi nhẫn nhịn.

Cậu Hai bèn vỗ vai Bá Vạn:

– Chuyện xưa ông cứ bỏ qua…

Bá Vạn hiểu ý nên nói thẳng ra:

– Hồi xưa, tôi bị cậu làm nhục, nhứt định thằng Cẩu sẽ dạy tôi, để tôi theo nó. Nhưng tôi ngu dại gì! Bây giờ cậu về Hòn Chông gấp chớ.

Chạng vạng tối, cậu Hai và Bá Vạn tới Hòn Chông. Bà chánh thất chạy ra sân, khóc lóc với cậu Hai. Bá Vạn lo lắng vô cùng, chưa biết thằng Mách ra sao. Ông ta nói:

– Cậu nằm nghỉ giây lát, tôi về nhà tắm rửa rồi trở lại.

Không chờ sự đồng ý của bà chánh thất, Bá Vạn ra sân sửa đoạn đi vòng ra phía sau nhà. Lúc bấy giờ, bọn hộ vệ dụm năm dụm ba trước bến, Bá Vạn lên tiếng để thị oai:

– Tụi bây đề phòng kỹ lưỡng, bắt giữ tất cả những người lạ mặt.

Rồi ông ta đến gian nhà ẩm thấp gần cầu xí. Thằng Thừa hỏi:

– Ai đó?

Bá Vạn đáp:

– Tao mà! Xong chưa?

– Dạ, xong mà chưa xong. Tôi đưa chén cơm mà thằng Mách không chịu ăn. Nó cứ la lên. Tôi nhét nùi giẻ trong miệng nó.

Bá Vạn bực tức vô cùng:

– Cậu Hai về tới rồi mà nó còn sống thì chết cả bọn. Tại sao không giết nó? Mầy tệ quá. Giao phó một công việc nhỏ xíu, quá dễ dàng như vậy mà mấy làm không xong. Để tao coi. Đốt đèn lên!

Bị rầy oan ức, thằng Thừa trả lời:

– Làm sao tôi giết nó lúc ban ngày được? Bây giờ mà đốt đèn lên thì lộ bí mật.

Cánh cửa hé mở, thằng Thừa bước vào, đạp mạnh vào ngực A Mách. Thằng Mách thở hồng hộc, đập hai tay xuống nền. Bá Vạn bước theo sau, chân ông đá nhằm chén cơm:

– Mầy lôi thôi quá!

Thằng Thừa hỏi:

– Ông cứ dạy tôi. Siết cổ nó, phải không?

– Để tao coi. Ừ! Phải rồi! Mầy đập cái chén nầy ra, lấy miểng chén mà cắt cho đứt mạch máu ở cườm tay. Rồi mầy tri hô lên. Nhớ bịt mũi, nhét thêm nùi giẻ vô miệng cho nó nghẹt thở. Khi tao trở lại thì mầy rút nùi giẻ ra…

Bá Vạn ra sân, về nhà để rửa mặt rồi thay quần áo. Chưa chi đứa nữ tỳ chạy tới gọi:

– Thưa ông! Cậu Hai mời ông.

– Tao tới bây giờ.

Khi đến sân, ông ta đứng chậm rãi chờ đợi thằng Thừa thi hành kế hoạch. Ông chắt lưỡi chửi lầm thầm:

– Cái thằng chậm lụt quá.

Cậu Hai hỏi:

– Ông tới đó hả? Chừng nào đi núi Mo So? Má tôi cản lại, e gặp rủi ro dọc đường. Vả lại, nếu bọn hộ vệ theo tôi thì nhà nầy còn ai giữ gìn. Thằng Cẩu kéo chừng vài chục tên cướp tới thì sao?

Đột nhiên, từ sau nhà giọng thằng Thừa vang lên:

– Nó chết! Nó đánh tôi nè! Nó tự vận.

Cậu Hai Điền hỏi:

– Cái gì vậy?

– Thằng Mách tự vận rồi. Bậy quá. Tôi muốn nói với cậu nên đánh đập nó để hiểu thêm chuyện ở Lung Tràm. Đúng là nó muốn chạy tội.

– À! Hộ vệ đâu! Đốt đuốc lên, theo tao.

Ánh đuốc chói sáng rực. Thằng Thừa chắp tay thưa:

– Mấy ông ơi! Nó tắt thở rồi.

Cậu Hai Điền vì quá nông cạn nên xông vào nhà giam nắm lỗ tai thằng Mách, xách đầu nó lên mà chửi liền miệng:

– Thằng phản phúc. Nó tự tử bằng cách nào? Tại sao máu me chảy linh láng vậy?

– Nó cắt mạch máu cườm tay, nó đập cái chén ăn cơm, để lấy miểng…

Đôi mắt thằng Mách như mở trao tráo, chỉ còn tròng trắng, miệng hả ra. Cậu Hai đứng dậy:

– Quăng nó xuống sông cho diều quạ rỉa xác. Nó ăn tiền của thằng Cẩu để giết hại ba tôi, còn ai xa lạ nữa!

Cậu Hai trở ra trước sân, hỏi Bá Vạn:

– Làm sao?

Bá Vạn nói:

– Để tôi cho đứa nào đó đi núi Mo So dọ dẫm trước, sáng mai khi mặt trời mọc, cậu với tôi hãy đi.

Nói xong, Bá Vạn gọi thằng Thừa:

– Mầy đáng tin cậy. Chuyện nguy hiểm lắm, mầy phải lo cho tròn. Nuôi quân ba năm, dụng quân một ngày, mầy hiểu chưa?

Thấy cậu Hai Điền còn đứng gần, Bá Vạn đến sát bên cậu mà nói:

– Thằng Thừa võ nghệ cao cường lắm. Nó là đứa khôn lanh. Cậu Hai có sẵn trong mình chút ít vàng bạc thì cho tôi mượn để ban thưởng cho nó.

Cậu Hai Điền tháo chiếc nhẫn, gọi to:

– Thằng Thừa lại đây. Mày nhớ dò xét kỹ lưỡng nơi thằng Cẩu ẩn núp để tao giết nó, trong ngày mai, trễ lắm là ngày mốt. Tao không tiếc với mầy bất cứ món gì. Chiếc nhẫn nầy có nhận hột ngọc bích, trị giá ba bốn lượng vàng ròng.

Thằng Thừa mừng ra mặt:

– Cám ơn cậu.

– Chừng nào mầy trở về?

– Dạ, trong đêm mai.

– Để trễ thì tao giết mầy.

Bá Vạn nói cố ý cho cậu Hai Điền nghe:

– Thừa à! Ai hỏi thì mầy trả lời rằng cậu Hai đang đi săn heo rừng ở Hòn Đất.

Cậu Hai bị chạm tự ái nên cằn nhằn:

– Đáng lý thì nói rằng tao tới núi Mo So để xé xác thằng Cẩu. Tại sao cha tao chết mà thằng Cẩu tự ý chôn cất ở nơi quê mùa hoang vắng? Ông nội tao chôn ở Hòn Chông thì nó phải đưa linh cữu về Hòn Chông. Nó muốn xin tiền bạc thì tao cho nhưng tao không tha thứ cái tội soán ngôi đó được.

Bá Vạn van nài:

– Thằng Thừa dọ thám, làm sao nó dám nói lại đúng theo ý của câu. Vả lại, tôi ngăn cấm không cho nó gặp mặt thằng Cẩu.

– Tại sao vậy?

Bá Vạn nói khẽ vào tai cậu Hai:

– Nó theo dõi thằng Cẩu, chờ cậu tới mà giết để trả thù. Chắc rằng thằng Cẩu đang mướn nhiều đứa hộ vệ. Nếu bọn hộ vệ của hai bên đánh nhau thì đổ máu vô ích, chi bằng cậu tới núi Mo So thình lình để bắt thằng Cẩu vào lúc ban đêm. Hôm sau, cậu đem nó ra xử trước mặt để thị oai với dân chúng.

Cậu Hai vỗ vai Bá Vạn:

– Ông nói phải. Chẳng lẽ tôi giết tất cả dân chúng ở núi Mo So. Dân chết hết, còn ai là tá điền cho tôi. À! Còn con Huôi?

– Cậu giết thằng Cẩu thì cô Huôi sẽ quì lạy cậu, xin tha tội. Cậu bắt buộc cô ta vô chùa tu, thế là xong chuyện.

Cậu Hai Điền trông theo, mãi đến khi thằng Thừa khuất bóng sau rằng cây tràm.