- 13 -
Cậu Cẩu về Hòn Chông, vui sướng vô cùng vì đã giải chức Bá Vạn mà không gặp sự chống đối nào cả. Cậu cho người đến núi Mo So, rước mẹ và ông ngoại về Hòn Chông.
Ông Mười Hấu và cô Ngó đến cư ngụ tại ngôi nhà trước kia dành cho bà chánh thất và ông Chúa Hòn.
Là người thận trọng, ông Mười Hấu hỏi:
– Cháu đã làm điều gì hỗn hào không? Dầu sao đi nữa, ông Bá Vạn giúp cháu quá nhiều.
Cậu Cẩu đáp:
– Hễ cháu đuổi là làm chuyện hỗn hào rồi. Cháu nghĩ rằng dung dưỡng Bá Vạn thì ngoại đâu còn công chuyện mà làm! Theo ý cháu thì từ rày về sau, ông ngoại sẽ lên chức quản gia thay thế Bá Vạn.
– Không được cháu ơi, thiên hạ bàn tán xôn xao. Họ nói rằng ông đây chủ mưu giết cậu Hai Điền.
– Cháu liệu định rồi. Thỉnh thoảng, ông ngoại tới Vàm Rầy mà ở. Bá Vạn cất ba căn phố, dự trữ đầy đủ nào là tôm khô, bong bóng cá để bán với giá cao trong mùa tới. Ông ngoại tới đó làm sổ sách…
Ông Mười Hấu đáp:
– Để tính kỹ lại. Khó lắm.
– Có gì mà khó! Cháu đủ quyền hạn mà.
Thật ra, ông Mười Hấu đang khổ tâm vì chuyện khác. Từ khi cậu Cẩu nắm quyền thay thế cậu Hai Điền và ông Chúa Hòn thì dân chúng núi Mo So vô cùng phẫn uất. Họ không tin cậu Cẩu, xem cậu là đứa ngu dại, khùng điên. Ông Mười Hấu nói:
– Khó lắm. Cháu thì khác…
– Chắc ông ngoại muốn uống rượu chớ gì? Xí Vĩnh đâu?
Xí Vĩnh xuất hiện trước sự ngạc nhiên của Mười Hấu. Nàng mặc áo gấm, chân đi dép cườm. Cậu Cẩu nói:
– Đây ông ngoại. Em hãy chào ông ngoại.
Mười Hấu nói:
– Được rồi! Cô nầy là ở đâu vậy cháu?
Cậu Cẩu nói:
– Cháu nhìn nhận Xí Vĩnh là vợ. Ông ngoại thấy sao? Chưa ai xinh đẹp bằng. Thấy Xí Vĩnh ở đây, ông Bá Vạn nổi cơn ghen mà chết. Thằng A Chúa rước bọn gái đẹp để dành cho Bá Vạn. Dè đâu cháu chận trước đem về đây.
Day qua Xí Vĩnh, cậu Cẩu nói:
– Em hát một bài, hay là đem cây đờn tranh ra khẩy một bản Hành Vân, Lưu Thủy gì đó cho ông ngoại nghe.
Trong phút giây, ông Mười Hấu thấy cảnh suy sụp của gia đình. Theo ý ông thì công việc đầu tiên mà cậu Cẩu nên chỉnh đốn là phòng thủ, tuyển chọn thêm một số đông hộ vệ quân, cho bọn nầy ăn uống đầy đủ, phòng khi hữu sự thì chúng nó dám liều chết cứu chủ.
Nghe chưa dứt bản đàn, ông Mười Hấu đứng dậy:
– Cháu cứ nghe. Ông muốn nằm nghỉ.
Cậu Cẩu hỏi:
– Hay là Xí Vĩnh đờn quá dở. Nếu vậy cháu phạt nó uống rượu?
– Thôi! Ông đã già rồi. Cháu cứ vui…
Cậu Cẩu cau mày:
– Hay là ông ngoại chê cháu ham chơi? Cháu làm công việc dữ lắm. Phải trừ tuyệt bọn tay em của Bá Vạn.
Khi Mười Hấu ra cửa, cậu Cẩu ra lịnh:
– Hộ vệ đâu? Đưa ông ngoại tao tới nhà ông Chúa Hòn. Tụi bây quét dọn trong ngoài cho sạch sẽ.
Tên hộ vệ theo chân ông Mười Hấu. Lần đầu tiên, ông bước vào căn nhà sang trọng, từ trước đến nay. Tên hộ vệ mở khóa rồi chỉ dẫn:
– Đây là bàn thờ…
Ông Mười Hấu sực nhớ một việc quan trọng nên dừng lại.
Sau khi đốt nhang khấn vái lâm râm, ông xá ba lần trước bàn thờ. Trên ấy, có nhiều bài vị, nhưng còn thiếu cái bài vị đề tên ông Chúa Hòn và cậu Hai Điền.
– Trưa nằm ngủ bên nầy.
Cánh cửa mở rộng. Người hộ vệ vào trước, đốt mấy ngọn đèn sáp. Vì quen sống bên ngoài nên Mười Hấu đứng lại mà quan sát rồi hỏi:
– Tại sao tối om om vậy?
– Dạ ban ngày ban đêm gì cũng phải thắp đèn sáng. Hồi trước ông Chúa Hòn nói rằng nhà phải kín đáo thì làm ăn mới khá. Đây là kiểu nhà của vua quan bên Tàu. Nếu khoét cửa thì có ba điều hại.
Mười Hấu hỏi thành thật:
– Điều gì?
– Dạ gió lọt vô dễ bị cảm mạo. Tiền bạc bên trong có thể…bay ra ngoài.
– Ngộ quá! Vậy vua chúa có nhiều phong tục lạ. Nhưng còn điều thứ ba?
– Ông cho phép thì tôi mới dám nói.
– Cứ nói. Ta thưởng tiền bạc cho.
Nhìn kỹ gương mặt người hộ vệ, Mười Hấu hơi sửng sốt vì lão nầy hơi già, trán nhăn lại, gân tay nổi lên. Mười Hấu nói tiếp:
– Tôi lớn tuổi rồi, muốn hưởng nhàn. Cháu tôi mời mọc, tôi phải tới đây. Còn điều thứ ba?
Người hộ vệ bèn cúi đầu:
– Tôi hầu hạ ông Chúa hơn mười năm rồi. Tôi không phải là hộ vệ vì sức lực đã suy giảm. Điều thứ ba là nếu nhà có cửa sổ thì kẻ gian bên ngoài có thể nhảy vào mà thích khách…
Mười Hấu rởn tóc gáy khi nghe hai tiếng đó. Ông ta bèn trao cho lão nọ một nén bạc, với dụng ý mua chuộc tình cảm để lão nói cả sự thật.
Lão cúi đầu, ngỏ lời cám ơn. Mười Hấu nằm xuống sạp, lão cầm quạt phe phảy đứng bên cạnh. Mười Hấu vẫn chưa hết thắc mắc:
– Rủi người ngoài vào đây thích khách thì ta làm sao?
– Dạ, bên ngoài đã có bọn hộ vệ trẻ tuổi. Trong nầy có cách khác…tôi lo món ăn cho ông Chúa Hòn ngày trước. Hỗm rày tôi muốn trình cậu Ba vài việc nhưng chưa dám. Một khi nắm quyền hành trong tay, con người nên cẩn thận việc ăn uống, coi chừng bị đầu độc!
Trong một thoáng, Mười Hấu nhớ đến Xí Vĩnh và cái bầu rượu trên bàn cậu Cẩu lúc nãy:
– Phải đó. Đề phòng bị đầu độc bằng cách nào?
Người hộ vệ thưa:
– Đáng lý ra, trước khi ăn uống, cậu Ba nên hỏi ý tôi.
Mười Hấu trợn mắt:
– Ông làm thầy thuốc? Làm sao biết món ăn có trộn thuốc độc? Ông hửi thử hay là ăn trước vài miếng? Lúc nầy tôi nên đề phòng, dân chúng ở núi Mo So bắt đầu chống đối, hăm he không chịu góp lúa ruộng.
Người hộ vệ bèn kéo cửa tủ rồi mở cái ngăn nhỏ bên trong. Ông ta đem ra một cái dĩa màu xanh mướt trao cho Mười Hấu.
Ông nầy trố mắt, đem cái dĩa lại gần ngọn đèn sáp mà ngắm xem. Nước men nổi lên màu xanh láng kỳ diệu, rờ vào là mát lạnh:
– Ngộ quá! Hồi nhỏ tới lớn, tôi chưa thấy cái dĩa nầy.
Người hộ vệ đáp:
– Đó là cái dĩa quí của vua chúa bên Tàu. Mấy người thương gia đem qua “cống sứ” cho ông Chúa Hòn. Nhờ nó mà hồi mười năm trước, ông Chúa thoát nạn. Ông xem kỹ thì thấy cái màu xanh kỳ lạ, nước biển không ra nước biển, xanh lá cây thì khác hơn…
Mười Hấu thích chí, hỏi thêm:
– Có chén bằng ngọc không?
Người hộ vệ đáp:
– Cái dĩa nầy còn quí hơn ngọc. Nghe đâu nó còn phép lạ khác, để đồ ăn vô dĩa đôi ba ngày mà không hôi thúi.
– Tôi bỏ cái dĩa nầy trong túi. Khi nào nghi ngờ thì đem ra xài.
Người hộ vệ đáp:
– Ngày xưa, ông Chúa Hòn giữ kín, không cho ai thấy cái dĩa nầy, lâu lâu mới đem ra xài một lần. Nếu ông cho người khác thấy thì ai ngu dại gì ám hại bằng cách đầu độc?
– Vậy thì tôi để đây!
Vừa lúc ấy, bên ngoài có tiếng kêu la ơi ới. Mười Hấu chạy ra sân. Cậu Cẩu nói hơ hãi:
– Ông ơi. Nguy rồi! Ông cầm…binh được không?
Mười Hấu hoảng hốt:
– Cầm binh là làm sao? Thì cháu có sẵn mấy chục đứa hộ vệ. Chuyện gì mà đánh mõ ỏm tỏi vậy?
Cậu Cẩu nói khẽ:
– Dân ở núi Mo So chạy giặc lên đây. Thằng Thừa tay sai của ông Bá Vạn tới đó, đốt nhà cửa, xúc lúa đem lên núi.
– Cháu tính cách nào?
– Ông qua đây mà xem thử. Ông sẽ thấy chuyện nầy lớn chớ không nhỏ đâu.
Bên nhà cậu Cẩu, hàng trăm người ngồi chồm hỗm trước sân. Mười Hấu nhận ra tất cả những người quen thuộc:
– À! Tư Hinh!
Trước kia, Tư Hinh sống bằng nghề hái ổ ong, lấy sáp và mật. Tư Hinh vuốt mồ hôi trán, chắp tay thưa:
– Ông Mười ơi! Nguy lắm. Xóm mình không còn một căn nhà nào đứng vững. Nhà ông bị đốt trước. Thằng Thừa gom tất cả dao mác. Dẫn chừng bốn năm chục cậu trai lên núi để luyện tập võ nghệ. Phải chi ông cầm binh đánh một trận cho nó sợ.
Nhiều người mạnh dạn đến gần cậu Cẩu, chắp tay xá dài để xin cơm nước, xin chỗ tá túc. Cậu Cẩu bèn nghiêm nét mặt:
– Tại sao không dám ở núi Mo So? Thằng Thừa bây giờ ở trên chót núi? Ai dám trở về giết nó thì tôi trọng thưởng. Phải về xứ mà ở. Đây là nhà tôi, làm sao chứa chấp hàng trăm người được?
Có người khóc mếu máo mà nói:
– Cậu ơi! Nó mạnh lắm. Mỗi đêm, nó đốt đuốc trên núi, đánh trống mõ vang trời. Nó hẹn năm ngày nữa là kéo binh tới Hòn Chông để …trả thù cho ông Bá Vạn!
– Sao? Mấy người nói gì?
Ông Mười Hấu truyền lịnh nấu cơm cho bọn người tản cư ấy ăn tạm rồi dẫn Tư Hinh vào nhà. Trước kia, Tư Hinh thường uống rượu và đánh cờ tướng với Mười Hấu nên được tin cậy.
Vào trong phòng, ông Mười hỏi kỹ:
– Thằng Thừa mạnh yếu thế nào? Bá Vạn tới núi Mo So chưa?
Tư Hinh đáp:
– Làm sao tôi so sánh được? Nếu ở đây mạnh thì nó yếu. Nó có hơn năm mươi đứa, cầm dao mác.
Nghe qua, Mười Hấu hoảng sợ vì với lực lượng ấy, thằng Thừa đủ sức đốt phá Hòn Chông. Chừng ấy, chưa ắt bọn hộ vệ còn giữ lòng trung thành với cậu Cẩu. Nếu Bá Vạn đi theo thằng Thừa thì mặc nhiên ông ta sẽ thắng thế.
Mười Hấu hỏi tiếp:
– Ai xúi giục thằng Thừa? Bá Vạn có ở đó không?
– Dạ, không thấy Bá Vạn. Nhưng dường như thằng Thừa có chiêu mộ được một người “Sơn Đông mãi võ”. Người nầy ở chợ Rạch Giá mới tới, loan tin rằng quân Lang Sa đang tràn về phía Hòn Chông!
Cậu Cẩu nằm yên trên giường, mồ hôi để tuôn nườm nượp, mặc dầu cô Xí Vĩnh quạt không ngừng tay. Con nít khóc ré trước sân, mấy người tản cư như đói khát lắm giành nhau từng chén cơm. Cậu đếm lẩm bẩm:
– Mười, mười bảy, ba chục đứa hộ vệ. Yếu quá!
Ông Mười Hấu bước vào, đuổi Xí Vĩnh ra ngoài rồi nói với cậu Cẩu:
– Cháu tính sao? Ông thấy rằng để trễ thì…không còn nơi nào chạy trốn. Bọn hộ vệ của thằng Thừa hăng hái lắm…
– Nguy thiệt. Ông tính cách nào thì cháu tuân theo.
Mười Hấu cau mày, sực nhớ đến cô Huôi. Lập tức, ông qua tư thất của cô vấn kế..
Cô Huôi cười lạt:
– Gieo gió thì gặt bão. Người như Bá Vạn đâu dễ kiếm. Bởi vì cậu Cẩu cách chức Bá Vạn nên thằng Thừa hoảng sợ. Muốn dẹp loạn thì nên…
Mười Hấu đáp:
– Thưa cô, nên mời ông Bá Vạn về, biểu cậu Cẩu xin lỗi vài tiếng.
– Không! Nên để cho cậu Cẩu tới núi Mo So dẹp loạn một lần.
Mười Hấu trố mắt:
– Nó đi thì chắc là chết dọc đường. Trước đây, cậu Hai Điền có oai thế nhờ biết săn bắn. Thằng Cẩu là cháu ngoại tôi, nó chỉ biết giỡn gái và đá cá thia thia.
Cô Huôi nói:
– Đây là dịp cho cậu ta thấy rằng làm ông vua con đâu phải dễ. Sau đó, hãy rước Bá Vạn. Nhưng Bá Vạn đâu phải con nít. Theo tôi thì cậu Hai Điền chỉ có tật là “nói bậy nói bạ” cho vui chớ chưa bao giờ dám đuổi Bá Vạn, tịch thu tài sản.
Mồ hôi tuôn giọt vắn giọt dài trên trán Mười Hấu:
– Thưa cô, nhờ cô giúp…
– Phải cho cậu Cẩu hiểu rằng đời là khó.
– Nhưng nó chỉ sợ cô thôi. Cô dạy dỗ nó. Ở xứ nầy cô là người nhiều quyền hạn nhứt.
– Điều đó hơi khó. Thú thật với ông tôi muốn đi tu cho rồi, nhưng chưa rảnh nợ đời. Cha tôi đã cất gần xong một kiểng chùa ở núi Đất… Cứ biểu cậu Cẩu tới núi Mo So ra trận một lần. Chỉ khi nào bại trận, cậu ta mới bớt háo thắng. Thôi! Ông nên ra ngoài, kẻo nó giận tới tôi.
Ra khỏi nhà cô Huôi, Mười Hấu gặp cậu Cẩu, khuyên đứa cháu ngoại nên ra trận, tiến vào núi Mo So để tiễu trừ bọn phiến loạn. Phản ứng đầu tiên của cậu là chờ đợi. Ông Mười Hấu hơi bối rối:
– Nếu cháu không giết nó trước thì nó kéo tới đây. Ông chạy trốn bây giờ.
– Theo ý ông thì nên làm gì?
– Cháu đi thử một chuyến, cho bọn hộ vệ quân đi trước, nếu gặp bất trắc thì chúng nó chết trước.
– Xí Vĩnh với cháu đi sau…Rời Xí Vĩnh cháu thấy buồn quá. Nhưng phải chờ sáng mai, cho bọn hộ vệ tập dượt trước.
Quá thất vọng vì thái độ khiếp nhược của đứa cháu ngoại. Mười Hấu bèn đến gặp cô Huôi lần thứ nhì. Sau khi suy nghĩ khá lâu cô đáp:
– Ông viết thơ năn nỉ Bá Vạn. Có Bá Vạn thì việc nầy mới xong.