← Quay lại trang sách

- 16 -

Sau khi ra lịnh cho bọn tỳ gái dọn dẹp chén bát, cô Ngó vào phòng, cười tủm tỉm một mình. Cô muốn chải tóc rửa mặt, nhưng thấy trời còn sớm. Lâu rồi cô không được hưởng lạc thú yêu đương. Thuở ấy, ông Chúa Hòn chỉ gần gũi cô được mấy tháng rồi từ đó, ông cứ ôm lấy cô Huôi. Mười bảy năm rồi, đâu phải là khoảng thời gian ngắn!

Cô lấy cái thau bằng đồng, đổ nước vào để soi mặt. Dường như trán cô hơi nhăn. Nhưng cô tự an ủi:

– So với mình thì Bá Vạn lớn tuổi hơn nhiều. Bây giờ mình rửa mặt, chải tóc thì hơi sớm. Nên làm công chuyện khác, cần thiết hơn.

Hồi lúc mới về hầu hạ ông Chúa Hòn, cô được thưởng một gói trầm hương. Ông Chúa căn dặn cô nên đốt trầm, xông vào quần áo. Quả thật mùi trầm hương đầy quyến rũ.

Tiếc thay cô chỉ xông áo có ba bốn lần. Khi thằng Cẩu chào đời, cô bị xem như lỗi thời, ông Chúa cứ gần gũi cô Huôi vì cô là thần hộ mạng, đóa hoa còn tươi.

Cô đến gần tủ kéo mạnh cái hộc để tìm gói trầm hương. Trầm hương được chẻ ra từng que nhỏ cho dễ đốt, gói ấy khá to.

Đột nhiên, cô Ngó trố mắt. Cái gói thuốc độc dường như bị đổi chỗ. Hồi sáng, cô bắt gặp lúc cha cô toan lấy nó ra, để đầu độc Bá Vạn. Cô chụp gói giấy. Đúng là loại giấy bản còn mới trắng tinh. Mở gói ra, cô đưa lên mũi hửi.

Loại thuốc độc mà ông Chúa uống lúc đi săn heo rừng ở Lung Tràm có mùi thơm nồng, màu đỏ bầm. Nhờ vậy mà khi pha vào rượu, nạn nhân không bao giờ nghi ngờ, tưởng là rượu ngâm thuốc bổ. Mớ bụi đỏ đen trong gói giấy nầy còn quá tươi.

Cô đưa lên mũi, hửi nhẹ.

Không một mùi gì bốc lên cả!

Như vậy có nghĩa là cha cô đã đánh tráo, mang theo thuốc độc để giết Bá Vạn.

Nghi ngờ gì nữa! Cha cô bơi xuồng, không cần bọn hộ vệ, ra đi lúc trời còn nắng. Nếu Bá Vạn chết vì thuốc độc thì cô chịu trách nhiệm một phần lớn. Lúc nãy cô đã xúi giục Bá Vạn nên đi để trở về lúc nửa đêm. Ông chết vì quá yêu cô.

Nhưng nếu Bá Vạn không chết, tình thế càng rắc rối hơn. Ông tố giác với cô Huôi. Chừng ấy, những người cầm đầu ở Hòn Chông sẽ giết hại nhau, chia ra ba phe.

Lập tức, cô xuống xuồng gọi tên hộ vệ:

– Đưa tôi qua Hòn Đất!

Tên hộ vệ ngơ ngác hỏi:

– Thưa cô, đi ghe có mui, mát mẻ hơn.

Cô Ngó quát to:

– Đi xuồng lẹ hơn. Mấy chú cãi lời tôi sao chớ? Tôi có chuyện riêng…

Chiếc xuồng lướt nhanh. Lần đầu tiên bọn hộ vệ không hiểu tại sao ông Mười Hấu, Bá Vạn và cô Ngó lại trở về với nếp sống của dân nghèo, không có “tiền hô hậu ủng” như mọi khi. Dường như cô Ngó quá xúc động bối rối. Chiếc xuồng lủi vô bờ, cô vội cho mũi xuồng trở ra.

Bọn hộ vệ nói với theo:

– Cô để chúng tôi…

Cô Ngó không thèm trả lời.

Mặt trời xuống dần. Muỗi bay vo ve từ đám lau sậy bên bờ. Dân chúng cứ nhìn nhau mà chỉ chỏ bàn tán. Mặc kệ! Cô bơi mạnh không dám ngừng tay. Trời sắp tối. Cô hối tiếc vô cùng vì đã tính toán vụng về. Bá Vạn và ông Mười Hấu bơi xuồng đi trước, cả hai cầm dầm, xuồng của họ đi nhanh gấp đôi.

Cô đuổi theo quá chậm trễ, chắc giờ này ông Mười là cha cô đã đến Hòn Đất rồi, và Bá Vạn chỉ còn là cái xác không hồn.

Cô mừng thầm vì đã đến Doi Lửa, cách Hòn Đất không xa cho lắm. Gọi là Doi Lửa vì nơi đây khúc sông chảy quanh co. Nghe đâu, mấy trăm năm về trước, để đề phòng bọn cướp biển, quân sĩ đã bố trí nơi đây một chòi canh. Hễ thấy thuyền bè lạ vào bãi thì họ đốt lửa làm ám hiệu.

Cô Ngó gặp một chiếc ghe chở củi đi ngược chiều, nên vội hỏi:

– Thấy ai ở phía trước không?

Người trên ghe không nhận ra cô, nên trả lời vu vơ:

– Thiếu gì ghe xuồng…

Cô hỏi kỹ:

– Có chiếc xuồng hai người bơi…

Người trên ghe trả lời:

– Dường như có …ông Bá Vạn say rượu. Chẳng lẽ ông Bá lại ngồi trên xuồng?

Cô Ngó càng sợ sệt, hỏi thêm:

– Ông Bá ở đâu? Gần hay xa?

Người nọ đáp:

– Khó nói lắm. Dường như chiếc xuồng đậu gần đây. Cô là ai? Nếu tôi không lầm thì… Đời là vậy. Chắc là ông Bá Vạn buồn rầu, sau khi bị cách chức.

Cô Ngó không muốn phí thì giờ nên bơi nhanh hơn. Bên trái, sát đám cây, cô nhận ra chiếc xuồng không người. Mặt trời khuất hẳn. Cô chú ý một điều là chim cò bay bổng lên, đảo vòng quanh.

Tại sao có hiện tượng lạ? Chiều thì chim cò đáp xuống, để ngủ. Nhứt định là trong đám lau sậy có người nào đang làm náo động.

Phải chăng cha cô và Bá Vạn đang đánh đấm nhau? Bá Vạn chết rồi, cha cô đang đào huyệt để dấu xác?

Quá nóng nảy, cô la lớn:

– Ai đó? Ai làm gì trong đám sậy?

Đám sậy lại khua động xào xạc mặc dầu trời không nổi gió. Lập tức, cô cho xuồng lui vô bờ rồi chạy ngay vào đám sậy:

– Ai đó?

Cô la hoảng.

Từ trong đám sậy, một bóng người nhô ra:

– Ai?

Nhận ra ông Mười Hấu, cô Ngó kêu lên:

– Trời ơi! Cha giết ông Bá Vạn!

Mười Hấu hốt hoảng, nói khẽ:

– Con đừng nói lớn tiếng, gần đây có nhà cửa, thiên hạ nghe được thì sao?

Cô Ngó dậm chân.

– Trời ơi! Ổng ở đâu?

– Bá Vạn là cái gì mà con mến tiếc? À! Cha biết rồi. Bá Vạn tuổi tác đã cao, còn lớn hơn tuổi của cha.

Dụng ý của Mười Hấu tranh thủ thời giờ. Bá Vạn say mèm và bắt đầu mửa ra máu thì thuốc độc bắt đầu công phạt.

Lúc ngồi xuống xuồng, Bá Vạn kêu rú như con chó điên rồi đưa tay vào miệng mà móc tận cổ họng. Mười Hấu thấy có vài người bơi xuồng đến gần nên cương quyết cầm cây dầm, đập vào đầu Bá Vạn. Bá Vạn té xuống rạch. Mười Hấu vất vả lắm mới kéo Bá Vạn lên tận đám sậy này.

Giờ đây Bá Vạn đang hấp hối. Mười Hấu nói qua vấn đề khác:

– Con đi thình lình như vầy nguy hiểm lắm. Con có cho thằng Cẩu biết không?

Cô Ngó hỏi:

– Sao ba hỏi quẩn quanh vậy? Ông Bá Vạn đâu? Chôn tại đâu? Nhờ ổng nên ba với con được lên địa vị cao sang. Sao ba không nói?

Mười Hấu nói:

– Bá Vạn chết rồi! Cha mướn người quăng xác ông ta ngoài biển.

Đột nhiên, trong đám sậy có tiếng ụa mửa, tiếng rú vang ra. Vài cây sậy nằm xuống, gãy rôm rốp. Và bầy chim cò cứ bay lượn, kêu oang oác.

Cô đã biết sự thật, cắm đầu chạy vào giữa đám sậy. Biết chuyện đã vỡ lở, ông Mười Hấu chửi đổng:

– Con gái bất hiếu! Tao giết nó chỉ vì nó muốn giết tao. Tao về. Mầy ở lại rồi chết theo thằng già đó cho trọn đạo. Mất nết!

Nhưng cô Ngó không còn nghe thấy gì nữa hết. Bá Vạn nằm úp mặt trên mấy cây sậy bị dẫm nát, tóc rối nùi che khuất mặt mày. Ông đập chân thở hồng hộc như con trâu bị chọc tiết.

Quỳ bên cạnh, cô Ngó hỏi:

– Ông! Có sao không? Em đây..

Bá Vạn không trả lời. Cô Ngó sờ vào ngực ông ta, thấy còn nóng. Lập tức cô đỡ cho ông đứng dậy, nhưng ông không đi được bước nào cả. Cô đành kéo lết ông ra khỏi đám sậy, đưa xuống xuồng.

Giọng Mười Hấu quát to từ xa:

– Đưa nó về phía Hòn Đất. Hễ mầy đưa nó về Hòn Chông thì tao giết mầy. Nghe chưa Ngó?

Cô Ngó không trả lời, cố ý bơi để tìm xóm nhà đốt lửa lên hơ cho Bá Vạn, hoặc là kêu cứu với mấy ông thầy thuốc.

Tiếng chuông vang lên, ngân nga rồi dứt hẳn. Tiếng mõ tụng kinh dường như phảng phất trong sương đêm. Cô Ngó nhận ra dãy nhà trước mặt.

Cô kêu lên:

– Bà con ơi! Cứu người chết!

Dường như có người chạy lao xao trên bờ sông. Cô Ngó bơi nhanh hơn, kêu từng chập:

– Họ giết người! Ai biết thuốc thang thì cứu giùm…

Trên bờ, một bó đuốc chiếu sáng, nhờ vậy cô Ngó nhận ra bóng dáng hai, ba vị sư nữ. Và cô trố mắt, kêu rú:

– Bà.. ở đây! Ông Bá Vạn chết kìa!

Bà chánh thất nhận ra:

– Cô Ngó sao lạc tới đây? Ông Bá đâu?

Cô Ngó chỉ nhắm vào việc cần kíp là cứu Bá Vạn. Giữa cô và bà chánh thất, tuy tình cảm không được êm đẹp nhưng chưa xảy ra gây gổ hoặc hiềm khích sâu sắc. Cô nói:

– Bá Vạn bị …bọn hộ vệ đầu độc, mình còn nóng, có thể cứu được.

Bà chánh thất hốt hoảng:

– Am này là nơi thờ phượng. Vậy cô với tôi đưa ông Bá Vạn qua nhà riêng của tôi, bên nầy.

Bá Vạn vẫn nhắm mắt. Người hàng xóm hiểu rằng đây là cuộc tranh giành quyền hạn từ khi ông Chúa Hòn mất. Họ không thắc mắc cho lắm khi thấy hai người vợ của ông Chúa đang khiêng Bá Vạn.

Đèn đốt thêm ngọn, chiếu sáng.

Bá Vạn nghiêng mình qua một bên, nằm xuôi trên bộ ván. Bà chánh thất hồ nghi rằng đây là âm mưu của cậu Cẩu. Hỏi cô Ngó thì khó tìm ra sự thật. Phải cứu Bá Vạn!

Bà nói:

– Bây giờ chỉ còn ông đạo Đất là biết thuốc men điều trị, nhưng ở quá xa…

Cô Ngó cứ bóp chân Bá Vạn:

– Thưa…hay là bà đốt lửa. Xin bà thương xót giùm tôi…

Bà chánh thất sực nhớ đến phương pháp cổ truyền để cứu bệnh nhân là nấu nước nóng, cho uống vài lát gừng sống:

– Uống rượu có thuốc độc, phải không? Nấu nước thêm ở dưới bếp. Chụm thêm bếp lửa, để dưới bộ ván…

Bá Vạn bỗng nhiên mở mắt. Cô Ngó mừng quýnh:

– Ông…

Nhưng Bá Vạn bị nấc lên, máu trào ra từ khoé miệng, đôi mắt lại nhắm, hai chân co lên. Bà chánh thất hỏi:

– Nhờ hơi nóng ở dưới bộ ván xông lên đó.

Cô Ngó đến cái tủ, kiếm gừng sống trong cái thố nhỏ.

Chén nước gừng bốc hơi nồng ấm khiến Bá Vạn đổ mồ hôi. Khi mở mắt ra, ông không cản ngăn được hai hàng nước mắt. Không cảm động sao được!

Bá Vạn sống đến tuổi già không lấy vợ, không có con, lúc nguy nan hấp hối, ông được diễm phúc là được nằm giữa hai bà goá phụ của ông Chúa Hòn, cả hai đều là người yêu.

Nhưng ông khóc, có lẽ vì chua xót, cô độc và hối hận. Ông cất tiếng:

– Hai cô đừng buồn.

Bà chánh thất nắm tay ông, van nài:

– Ai đã giết ông? Tôi hứa trả thù.

Bá Vạn day qua cô Ngó. Cô Ngó để rơi hai hàng nước mắt gần như xin lỗi, nhờ ông khoan hồng đừng nói ra danh tánh ông Mười Hấu.

Bá Vạn nói phều phào:

– Thù thì phải trả. Nhưng ta lớn tuổi rồi. Trả mà làm gì? Nói ra vô ích. Ta …tha thứ cho người đã hại ta.

Rồi ông khóc rống lên:

– Ta đã tham lam. Sống thêm vài năm nữa chẳng ích lợi gì. Những người tham lam giết ta để sống…chưa ắt họ sung sướng. Ngoài biển, mấy con cá kình nổi lên, có lá cờ tam sắc. Ông đạo Đất nói đúng.

Rồi Bá Vạn ho lên, mồ hôi tươm ra ướt trán, máu thắm đỏ môi.

Bà chánh thất nói:

– Để tôi đưa ông gặp ông đạo Đất. Đường không xa lắm đâu.

Bá Vạn trợn mắt rồi cau mày lại:

– Chết…Thế nào tôi cũng chết. Ông đạo Đất đoán rằng trước khi chết, tôi qua một giai đoạn sáng sủa. Đó là…tôi dẹp loạn ở núi Mo So. Đó là…hôm nay. Cám ơn hai cô.

Bà chánh thất đoán chừng căn bịnh không quá nguy ngập nên muốn có thái độ cứng rắn:

– Ai giết ông? Tôi chở ông về Hòn Chông cho dân chúng hay rằng ông bị kẻ hèn hạ giết hại.

– Thôi…

Rồi Bá Vạn nằm im, nhắm mắt. Ông trở nên tỉnh táo lạ thường. Dạo trước, ông Chúa Hòn đã chết vì loại rượu thuốc nầy, do ông sắp đặt kế hoạch đầu độc và ám sát. Hôm đó, ông không có mặt ở Lung Tràm nhưng chắc chắn là ông Chúa Hòn đã nhào lăn, hộc máu từng chập như ông.

Mắt ông như tối lại.

Kìa! Một người ngoài cửa bước vô. Đúng là ông Chúa Hòn. Cậu Hai Điền theo sau. Hai người nầy bước chập chờn, chân không dính đất.

Họ mặc quần áo tang, thân hình gầy guộc. Họ cười không ra tiếng. Gió nổi lên ào ào. Bỗng nhiên, ông Chúa Hòn rút ngọn đoản đao, chạy tới. Bá Vạn đưa tay đỡ, té xuống.

Ông ta kêu lên:

– Nó giết tôi!

Bà chánh thất hỏi:

– Nó là ai?

Bá Vạn phều phào:

– Là…cuộc đời tội lỗi của tôi. Thôi, ông đạo Đất nói đúng. Mọi người đều trở về Đất…