← Quay lại trang sách

• Chú thích

(*) Trịnh Lữ dịch; NXB Tri thức 2/2009.

[1] Quỹ Giáo dục Arthur (Arthur’s Education Fund) là một lý thuyết về bất bình đẳng giới của Virginia Woolf, xuất phát của cụm từ này là cuốn tiểu thuyết Pendenis.

[2] Tiểu thuyết của tác giả Anh William Makepeace Thackeray. Bối cảnh là nước Anh thế kỷ 19, đặc biệt ở London. Nhân vật chính là Arthur Pendennis, một chàng quý tộc trẻ tuổi.

[3] King’s Counsel: một địa vị tư pháp của giới luật sư Anh.

[4] League of Nations, viết tắt là LON, một tổ chức liên chính phủ được thành lập như là một kết quả của Hội nghị Hòa bình Paris sau khi Thế chiến I kết thúc. Đây là tổ chức quốc tế thường trực đầu tiên có nhiệm vụ chủ yếu là duy trì hòa bình thế giới.

[5] Phần này được viết trong mùa đông 1936-7.

[6] Order of Merit: Huân chương công trạng, do triều đình ban tặng để ghi nhận công trạng cho những cá nhân có đóng góp nổi bật trong các lĩnh vực quân sự, khoa học, văn học, nghệ thuật và quảng bá văn hóa. Trình tự của các loại O.M. tùy thuộc vào từng quốc gia áp dụng.

[7] Order of Merits.

[8] Fellow of Royal Society.

[9] Women's Social and Political Union: tổ chức đấu tranh cho quyền bầu cử của nữ giới ở Anh, thành lập ở Manchester ngày 10-10-1903.

[10] Từ khi những dòng này được viết ra, ông Baldwin đã thôi làm Thủ tướng và trở thành một bá tước.

[11] Nguyên văn: ‘Here we go round the mulberry tree, the mulberry tree, the mulberry tree. Give it all to me, give it all to me, all to me. Three hundred millions spent upon war.’

[12] John Pierpont Morgan (1837 - 1913): tỷ phú, nhà tài chính, ngân hàng, nhà từ thiện và nhà sưu tầm mỹ thuật người Mỹ.

[13] John Davison Rockefeller (1839 - 1937): tỷ phú, nhà công nghiệp và nhà từ thiện người Mỹ.

[14] The Contagious Diseases Acts, được Quốc Hội Anh thông qua lần đầu năm 1864, đạo luật này cho phép cảnh sát bắt giữ gái mại dâm trong một số cảng và thị trấn quân đội, và những người phụ nữ này sau đó bị kiểm tra bắt buộc về bệnh hoa liễu. Nếu một người phụ nữ được tuyên bố bị nhiễm bệnh, cô bị nhốt vào một “bệnh viện kín” cho đến khiđã khỏi bệnh.

[15] Thi sĩ Hy Lạp cổ đại (khoảng 522-443 trước CN).

[16] Chỉ có nền văn hóa bất vụ lợi mới có thể ngăn thế giới khỏi sự đổ nát.

[17] Ben Jonson (Benjamin Jonson, khoảng 1572 - 1637) kịch tác gia, thi sĩ và nhà phê bình văn học Anh.

[18] Infantile fixation

• Tham khảo

[I] The Life of Mary Kingsley của Stephen Gwynn, trang 15.Khó mà có được các con số chính xác về những khoản tiền đã chi cho việc giáo dục các cô con gái của những người đàn ông trí thức. Có lẽ khoảng 20 tới 30 bảng để chi cho toàn bộ chi phí giáo dục của Mary Kingsley (1862-1900). Có thể xem khoản tiền 100 bảng là con số trung bình trong thế kỷ 19 và ngay cả sau này. Những người phụ nữ được giáo dục như vậy thường cảm thấy rất sâu sắc sự thiếu thốn của học vấn. “Tôi luôn cảm thấy những khiếm khuyết trong học vấn của tôi gây đau khổ nhất khi tôi ra khỏi nhà,” lời của Anne J. Clough, Nữ Hiệu trưởng đầu tiên của trường Newnham. (Life of Anne J. Clough của B.A. Clough, trang 60.) Elizabeth Haldane, như cô Clough, xuất thân từ một gia đình văn học thượng lưu, nhưng được giáo dục theo cách rất giống như thế, nói rằng khi cô trưởng thành, “Điều tin chắc đầu tiên của tôi là tôi không được giáo dục, và tôi đã nghĩ làm sao để có thể chỉnh đốn điều này. Lẽ ra tôi rất thích đi học ở trường cao đẳng, nhưng với các cô gái thời bấy giờ, trường cao đẳng là rất khác thường, và ý tưởng này không được khuyến khích. Nó cũng rất đắt tiền. Với một cô con gái độc nhất việc rời khỏi một bà mẹ góa phụ thật sự được xem là ngoài phạm vi cân nhắc, và không một người nào có thể khiến cho kế hoạch đó trở nên khả thi. Hồi thời ấy có một phong trào thực hiện những lớp học hàm thụ…” (From One Century to Another của Elizabeth Haldane, trang 73.) Nỗ lực để che đậy sự dốt nát của những người phụ nữ được giáo dục như thế thường rất quả quyết, nhưng không luôn luôn thành công. “Họ trò chuyện một cách thú vị về những đề tại hiện tại, cẩn thận né tránh các chủ đề gây tranh cãi. Điều gây ấn tượng cho tôi là sự dốt nát và thờ ơ của họ liên quan tới bất cứ điều gì ở bên ngoài tầng lớp của chính họ… một nhân vật có vai vế, mẹ của Phát ngôn viên của Hạ viện Anh tin rằng California thuộc về chúng ta, là một phần của Đế quốc của chúng ta!” (Distant Fields của H.A. Vachell, trang 109.) Việc sự dốt nát thường được khơi gợi ra trong thế kỷ mười chín la do niềm tin đương thời rằng những người đàn ông trí thức thích thú nó đã được chỉ ra bởi sức mạnh mà với nó Thomas Gisborne, trong tác phẩm có tính hướng dẫn On the Duties of Women (trang 278) đã khiển trách những kẻ cố tình khuyên những người phụ nữ “tự kềm chế không khám phá tới mức độ trọn vẹn về khả năng và những thành tựu của người đối ngẫu trong hôn nhân của họ.” “Đây không phải là sự tự do làm theo ý mình mà là nghệ thuật. Nó là sự che đậy, nó là sự áp đặt chủ tâm… Nó hầu như không thể được thực hành lâu mà không bị phát giác.”

Nhưng con gái của người đàn ông trí thức ở thế kỷ 19 thậm chí còn dốt nát về đời sống hơn là về những cuốn sách. Một nguyên nhân cho sự dốt nát đó được đề xuất bởi câu trích dẫn sau: “Người ta cho rằng hầu hết đàn ông đều không ‘có đạo đức tốt’, nghĩa là, hầu như tất cả đều có khả năng gạ chuyện tán tỉnh hay gây bực mình - hay còn tệ hơn - cho bất kỳ một phụ nữ trẻ tuổi không có người hộ tống nào mà họ gặp.” (‘Society and the Season’, của Mary, Nữ Bá tước xứ Lovelace, trong cuốn Fifty Years, 1882-1932, trang 37.) Do đó cô ta bị giam hãm trong một vòng tròn rất hẹp; và “sự dốt nát và thờ ơ” của cô ta đối với bất cứ thứ gì ở bên ngoài là có thể tha thứ. Mối liên kết giữa sự dốt nát đó và nhận thức của thế kỷ 19 về nam tính - bằng chứng là anh hùng thời đại Victoria - mà đã khiến cho “đạo đức” và nam tính trở nên không tương hợp là rất hiển nhiên. Trong một đoạn văn nổi tiếng của mình, Thackeray than phiền về những hạn chế nằm giữa đạo đức và nam tính đã áp đặt lên nghệ thuật của ông.

[II] Ý thức hệ của chúng ta vẫn còn tính chất lấy con người làm trung tâm một cách thâm căn cố đế đến nỗi cần thiết phải đặt ra thuật ngữ dài dòng này - các cô con gái của những người đàn ông trí thức - để mô tả tầng lớp có cha là người đã được giáo dục ở các trường tư thục và trường đại học. Rõ ràng, nếu từ “giai cấp tư sản” thích hợp với anh trai của cô ta, sẽ cực kỳ không chính xác nếu sử dụng nó cho một người khác biệt rất sâu xa ở hai đặc tính chủ yếu của giai cấp tư sản - tư bản và môi trường.

[III] Con số thú vật bị giết ở Anh cho thú vui thể thao trong suốt thế kỷ vừa qua vượt khỏi ước tính. 1212 đầu thú săn được xem là trung bình cho một ngày săn bắn ở Chatsworth vào năm 1909. (Men, Women and Things của Công tước xứ Portland, trang 251). Có ít lời nhắc tới việc săn bắn của phụ nữ trong những cuốn hồi ký thể thao, và sự xuất hiện của họ ở khu săn bắn là nguyên nhân của nhiều lời phê phán chua cay. “Skittles” [biệt danh của Catherine Walters, 1839 - 1920)], người nữ kỵ sĩ nổi tiếng ở thế kỷ 19, là một quý bà có đạo đức dễ dãi. Rất có khả năng rằng có một sự nối kết nào đó giữa thể thao và tính dâm dật ở phụ nữ của thế kỷ 19.

[IV] Francis and Riversdale Grenfell, của John Buchan, trang 189, 205.

[V] Antony (Viscount Knebworth), của Bá tước xứ Lytton, trang 355.

[VI] The Poems of Wilfred Owen, do Edmund Blunden biên tập, trang 25, 41.

[VII] Lord Hewart, đề xuất khi nâng cốc chúc mừng nước Anh trong bữa tiệc của Hội của Thánh George ở Cardiff.

[VIII] The Daily Telegraph, 5-3-1937.

[IX] The Daily Telegraph, 5-3-1937.

[X] Dĩ nhiên có một thứ chủ yếu mà một phụ nữ trí thức có thể cung cấp: trẻ con. Và một phương pháp mà nhờ đó cô ta có thể giúp ngăn ngừa chiến tranh là từ chối sinh con. Do vậy bà Helena Normanton có ý kiến rằng “Điều duy nhất phụ nữ ở bất kỳ quốc gia nào có thể làm để ngăn ngừa chiến tranh là ngưng cung cấp “bia đỡ đạn” (Báo cáo của Hội đồng thường niên cho Quyền bình đẳng công dân, Daily Telegraph ngày 5-3-1937) Những lá thư trên báo chí thường xuyên ủng hộ quan điểm này. “Tôi có thể nói với ông Harry Campbell vì sao phụ nữ khước từ việc sinh con vào những thời điểm này. Khi đàn ông đã học được cách điều hành những vùng đất họ cai trị khiến các cuộc chiến chỉ sẽ chạm tới những ai gây ra tranh chấp, thay vì tàn sát những kẻ không làm gì cả, khi đó phụ nữ có thể một lần nữa cảm thấy giống như có những đại gia đình. Vì sao phụ nữ phải sinh con trong một thế giới như thế giới ngày nay?” (Edith Maturin-Porch, trên tờ Daily Telegraph, 6-9-1937) Thực tế rằng sinh suất ở tầng lớp trí thức đang giảm đi dường như chỉ ra rằng những người phụ nữ trí thức đang làm theo lời khuyên của bà Normanton. Điều này đã được Lysistrata đưa ra trong những tình huống rất tương tự cách nay hai ngàn năm.

[XI] Dĩ nhiên có vô số loại ảnh hưởng ngoài những ảnh hưởng xác định trong văn bản. Nó khác biệt nhau từ loại đơn giản được mô tả ở đoạn văn sau: “Ba năm sau… chúng tôi phát hiện ra bà ta đang viết cho ông ta, là một Bộ trưởng, để khẩn nài sự quan tâm của ông ta đối với đồng Curon để sống với tư cách đại diện cho một mục sư được yêu thích…” (Henry Chaplin, a Memoir, của Phu nhân Londonderry, trang 57) cho tới loại rất tinh tế được áp dụng bởi phu nhân Macbeth đối với chồng của bà ta. Ở đâu đó giữa hai loại này là ảnh hưởng được mô tả bởi D. H. Lawrence: “Với tôi thật là vô vọng khi cố làm bất cứ điều gì nếu tôi không có một người phụ nữ ở sau lưng tôi… Tôi không dám ngồi trong thế giới nếu tôi không có một phụ nữ đằng sau tôi… Nhưng một người phụ nữ mà tôi yêu phần nào đó giữ tôi trong sự giao tiếp trực tiếp với điều chưa biết, trong đó nếu khác đi tôi sẽ mất mát chút ít.” (Letters of D. H. Lawrence, trang 93, 94), mà chúng ta có thể so sánh với, dù sự sắp đặt theo trật tự khá lạ lùng, định nghĩa nổi tiếng và rất tương tự do cựu vương Edward VIII đưa ra trong lễ thoái vị của mình. Các điều kiện chính trị hiện thời ở nước ngoài dường như ủng hộ cho một sự quay lại với việc sử dụng ảnh hưởng vụ lợi. Ví dụ: “Một câu chuyện minh họa cho mức độ ảnh hưởng hiện tại của phụ nữ ở Vienna. Trong mùa thu vừa rồi, nhà nước dự định đề ra một biện pháp để giảm bớt hơn nữa các cơ hội nghề nghiệp của phụ nữ. Những kháng nghị, những khẩn nguyện, những lá thư, tất cả đều không có chút hiệu quả nào. Cuối cùng, trong sự tuyệt vọng, một nhóm các quý bà nổi tiếng của thành phố… tập hợp lại với nhau và lên kế hoạch. Trong nửa tháng kế tiếp, trong một số giờ cụ thể hàng ngày, nhiều người trong số các quý bà này gọi điện thoại cho các ông bộ trưởng mà họ quen biết riêng, bề ngoài là mời họ tới ăn tối ở nhà mình. Với tất cả sức quyến rũ của những phụ nữ thành Vienna, họ khơi gợi cho các ông bộ trưởng nói chuyện, hỏi han chuyện này chuyện nọ, và cuối cùng nhắc tới vấn đề khiến họ quá đỗi phiền lòng. Khi các ông bộ trưởng bị gọi điện bởi nhiều quý bà, tất cả đều là những người mà họ không muốn xúc phạm, và bị ngăn trở khỏi những công vụ khẩn cấp của nhà nước bởi chiêu thức này, họ quyết định thỏa hiệp - và thế là biện pháp đó bị hoãn lại.” (Women Must Choose của Hilary Newitt, trang 129) Cách sử dụng tầm ảnh hưởng tương tự thường được chủ tâm thực hiện trong cuộc đấu tranh cho quyền bầu cử. Nhưng người ta bảo tầm ảnh hưởng của phụ nữ đã bị làm cho suy yếu bởi sự chiếm hữu một lá phiếu. Do vậy Đô đốc von Bieberstein có ý kiến rằng “Những người phụ nữ luôn dẫn dắt những người đàn ông… nhưng ông không muốn họ đi bầu cử.” (From One Century to Another của Elizabeth Haldane, trang 258.)

[XII] Phụ nữ Anh bị chỉ trích nhiều vì sử dụng vũ lực trong đấu tranh đòi quyền bầu cử. Năm 1910, khi ông Birrell bị “đập nát mũ” và bị đá vào hai ống quyển bởi những người đòi quyền bầu cử, Sir Almeric Fitzroy nhận xét, “một sự tấn công theo tính cách này đối với một ông già vô phương tự vệ bởi một băng nhóm có tổ chức của “những tên lính Thổ Nhĩ Kỳ” sẽ, người ta hy vọng, thuyết phục nhiều người mất trí và có tinh thần vô chính phủ phát động phong trào.” (Memoirs of Sir Almeric Fitzroy, tập II, trang 425.) Những nhận xét này rõ ràng không được áp dụng cho vũ lực trong cuộc chiến châu Âu. Thật ra, quyền bầu cử được trao cho phụ nữ Anh phần lớn là vì sự trợ giúp của họ đối với đàn ông Anh trong việc sử dụng vũ lực trong cuộc chiến tranh đó. “Ngày 14 tháng 8 (1916), bản thân ông Asquith đã thôi chống đối (quyền bầu cử của nữ giới). Ông nói, ‘Đúng là (phụ nữ) không thể chiến đấu theo ý nghĩa tiến ra với súng đạn vân vân, nhưng… họ đã trợ giúp bằng cách thức hiệu quả nhất trong việc theo đuổi chiến tranh.’” (The Cause of Ray Strachey, trang 354.) Điều này làm nảy sinh câu hỏi khó trả lời là những người không trợ giúp cho việc theo đuổi chiến tranh mà đã làm những gì họ có thể để ngăn cản việc theo đuổi chiến tranh có nên sử dụng quyền bầu cử mà họ đã được trao cho chủ yếu là vì những người khác “đã trợ giúp cho việc theo đuổi chiến tranh”hay không? Việc họ là những cô con ghẻ chứ không phải là con đẻ của nước Anh được chỉ ra bởi thực tế là họ thay đổi quốc tịch khi kết hôn. Một người phụ nữ, dù có giúp đánh bại nước Đức hay không, trở thành một người Đức nếu cô ta lấy một người Đức. Các quan điểm chính trị của cô ta khi đó phải hoàn toàn đảo ngược, và lòng hiếu thảo của cô ta đã chuyển biến.

[XIII] Sir Ernest Wild, K.C. của Robert J. Blackburn, trang 174, 175.

[XIV] Việc quyền bầu cử không phải là không đáng kể được chỉ ra bởi những thực tế được xuất bản rải rác theo thời gian bởi Hiệp hội Quyền bình đẳng công dân Quốc gia. “Xuất bản phẩm này (What the Vote Has Done) ban đầu chỉ là một tờ truyền đơn một trang; hiện giờ (1927) nó đã tăng trưởng một thành một cuốn sách mỏng sáu trang, và phải thường xuyên được mở rộng thêm.” (Josephine Butler của M. G. Fawcett và E. M. Turner, chú giải, trang 101)

[XV] Không có sẵn những con số để kiểm chứng lại những thực tế mà hẳn phải có một phương diện rất quan trọng đối với tiểu sử và tâm lý của hai giới tính. Có thể thực hiện một sự bắt đầu trong bước mở đầu chủ yếu nhưng lại bị bỏ qua một cách lạ lùng này bằng đánh dùng phấn đánh dấu lên một tấm bản đồ cỡ to của tài sản nước Anh do những người đàn ông làm chủ, màu đỏ; do phụ nữ, màu xanh. Khi đó số lượng cừu và gia súc lớn được tiêu thụ bởi mỗi giới tính phải được so sánh; số thùng lớn đựng rượu vang và bia; những thùng thuốc lá; sau đó chúng ta phải cẩn thận kiểm tra những áp dụng về vật chất của chúng; người lao động nội địa; các tiện nghi cho giao tiếp giới tính, vân vân. Các nhà sử học dĩ nhiên quan tâm chủ yếu tới chiến tranh và chính trị; nhưng đôi khi cũng rọi sáng lên bản chất con người. Khi Macaulay giao dịch với những quý ông miền quê nước Anh hồi thế kỷ 17 ông đã nói như vầy: “Vợ và con gái của ông ta có những thị hiếu và tài năng dưới mức của một quản gia hay một nàng hầu trong phòng dạy kỹ năng của ngày nay. Họ may và se sợi, ủ rượu lý gai, chế thuốc chữa bệnh bằng hoa cúc vạn thọ và làm vỏ cho món thịt hươu nướng bọc bột.”

Một lần nữa, “Các bà chủ nhà mà công việc của họ thông thường là nấu ăn, rút lui để nghỉ ngơi ngay sau khi bữa ăn kết thúc, bỏ mặc các ông với cuộc chè chén bia bọt và thuốc lá của họ.” (Macaulay, History of England, Chương Ba) Nhưng các ông vẫn đang nhậu nhẹt và các bà vẫn rút lui sau đó khá lâu. “Vào thời mẹ tôi còn trẻ trước khi bà kết hôn, thói quen uống đến mềm môi lâu đời của Thời kỳ Nhiếp chính và của thế kỷ 18 vẫn còn tồn tại dai dẳng. Người quản gia già được tin cậy của gia đình ở Woburn Abbey có thói quen báo cáo hàng đêm cho bà tôi trong phòng khách. ‘Đêm nay các quý ông đã uống khá nhiều; đã tới lúc các tiểu thư nên đi nghỉ,’ hoặc “Đêm nay các ông uống rất ít,’ được thông báo theo hoàn cảnh bởi người hầu cận trung thực của gia đình này. Nếu các cô gái trẻ bị tống lên gác, họ thích đứng ở một hành lang phía trên của cầu thang để ‘quan sát đám đông đang hò hét om xòm từ dưới phòng khách.’” (The Days Before Yesterday của Lord F. Hamilton, trang 322) Việc nói cho chúng ta biết hiệu quả của tài sản và việc chè chén đối với các nhiễm sắc thể là gì phải được để lại cho các nhà khoa học trong tương lai.

[XVI] Thực tế rằng cả hai giới tính đều có một tình yêu đối với y phục rất đáng chú ý dù khác biệt nhau dường như đã thoát khỏi sự chú ý của giới tính thống trị, phần lớn là vì người ta cho rằng nó là quyền lực thôi miên của phe thống trị. Do vậy ông Justice MacCardie quá cố, khi tổng kết trường hợp của bà Frankau đã nhận xét: “Người ta không thể mong đợi những người phụ nữ từ bỏ một đặc tính chủ yếu của nữ tính hay từ bỏ một trong những niềm an ủi của bản chất vì một nhược điểm thể chất thường xuyên và không thể vượt qua… Y phục, nói cho cùng, là một trong những phương pháp chủ yếu của sự tự thể hiện của phụ nữ… Về vấn đề y phục, phụ nữ thường vẫn là trẻ con cho tới phút cuối. Người ta không được bỏ qua khía cạnh tâm lý của vấn đề này. Nhưng trong khi vẫn ghi nhớ những vấn đề bên trên, pháp luật đã quy định một cách đúng đắn rằng nguyên tắc về sự thận trọng và tính cân xứng phải được tuân thủ.” Vị quan tòa đã phát ngôn như vậy đang mặc một cái áo choàng đỏ thắm, đội một cái mũ lông chồn, và một bộ tóc xoăn giả to tướng. Dù ông ta có tận hưởng “một trong những niềm an ủi của bản chất vì một nhược điểm thể chất thường xuyên và không thể vượt qua” hay không, một lần nữa, phải hoài nghi về việc bản thân ông ta có tuân thủ “nguyên tắc về sự thận trọng và tính cân xứng” hay không. Nhưng “người ta không được bỏ qua khía cạnh tâm lý của vấn đề này”; và thực tế rằng sự lập dị của ngoại hình của chính ông ta cùng với của những ngài đô đốc, tướng lĩnh, truyền lệnh sứ, kỵ binh hoàng gia, những kẻ ngang hàng, những người canh gác tháp London, vân vân, hoàn toàn vô hình đối với ông ta thế nên ông ta mới có thể lên lớp cho quý bà đó mà không có chút ý thức nào về việc chia sẻ nhược điểm của bà ta đã gợi ra hai câu hỏi: một hành vi phải được thực hiện thường xuyên đến thế nào trước khi nó trở thành truyền thống, và do đó đáng được tôn trọng; và mức độ nào của uy tín xã hội tạo nên sự mù lòa trước bản chất nổi bật của y phục của chính một người? Sự lập dị của y phục, khi không gắn liền với chức vị, hiếm khi thoát khỏi sự nhạo báng.

[XVII] Trong Danh sách vinh danh Năm mới cho năm 1937, 147 người đàn ông đã nhận được sự vinh danh so với bảy phụ nữ. Vì những nguyên do hiển nhiên, không thể xem điều này như là một thước đo của niềm khao khát tương đối của họ đối với một sự quảng cáo như thế. Nhưng việc về mặt tâm lý, việc một phụ nữ sẽ dễ dàng khước từ những danh dự hơn một người đàn ông dường như là điều không thể tranh cãi. Bởi thực tế rằng trí tuệ (nói đại khái) là tài sản chuyên môn chủ yếu của đàn ông, và rằng những ngôi sao và những dải ruy băng là những phương tiện quảng cáo trí tuệ chủ yếu của anh ta đã đề xuất rằng những ngôi sao và những dải ruy băng đồng dạng với phấn và son môi, phương pháp chủ yếu của một người phụ nữ để quảng cáo tài sản chuyên môn chủ yếu của cô ta: vẻ đẹp. Do vậy sẽ là phi lý khi yêu cầu ông ta từ chối một tước hiệu Hiệp sĩ tương đương như khi yêu cầu cô ta từ chối một chiếc váy. Số tiền phải trả cho một tước hiệu Hiệp sĩ năm 1901 có vẻ như sẽ cung cấp được một khoản trợ cấp y phục rất hậu hĩnh; “21-4 (Chủ nhật) - Đi thăm Meynell, người thường có đầy những chuyện tầm phào. Có vẻ như những khoản nợ của nhà vua đã được thanh toán theo cách riêng tư bởi những bạn bè của ông ta, người ta bảo một trong số đó đã cho mượn 100.000 bảng, và tự hài lòng một khoản trả lại 25.000 bảng cộng thêm một tước hiệu Hiệp sĩ.” (My Diaries của Wilfrid Scawen Blunt, Phầnt II, trang 8)

[XVIII] Một kẻ ngoại cuộc khó mà biết được những con số chính xác là bao nhiêu. Nhưng việc những khoản thu nhập đó là có thật có thể ước đoán từ một nhận định vui vẻ cách nay vài năm của ông J. M. Keynes trong cuốn Nation of a history of Clare College, Cambridge. Cuốn sách “mà người ta đồn là phải tốn sáu ngàn bảng để xuất bản.” Cũng có lời đồn đại rằng một nhóm học sinh đã quay về vào lúc bình minh từ một cuộc hội hè nào đó vào khoảng thời gian đó đã nhìn thấy một đám mây trên bầu trời; mà khi họ nhìn lên trông như hình dáng của một phụ nữ; người mà khi được cầu khẩn đưa ra một dấu hiệu, đã thả xuống trong một trận mưa đá sáng lòa hai từ “Giẻ rách”. Câu chuyện này được diễn dịch để định nghĩa điều mà từ một trang khác cùng số của cuốn Nation có vẻ như là sự thật; rằng những học sinh của một trong những trường nữ trung học đã chịu đựng rất nhiều đau khổ từ “những căn phòng lạnh lẽo ảm đạm dưới tầng trệt đầy nhóc chuột”. Người ta cho là sự hiện hình này có ý nghĩa đề xuất rằng nếu các quý ông của trường Clare muốn vinh danh bà ta, một tấm chi phiếu 6.00 bảng gửi tới bà Hiệu trưởng sẽ tôn vinh bà ta hơn là một cuốn sách ngay cả khi nó “được bọc trong lớp áo giấy và vải hồ cứng màu đen tốt nhất …” Tuy nhiên, không có gì huyền hoặc về thực tế được ghi nhận trong cùng số trang của cuốn Nation rằng “Trường Somerville đã nhận với lòng biết ơn vô kể số tiền 7.000 bảng được gửi tới hồi năm ngoái từ quà mừng Lễ kỷ niệm và một khoản di sản tư nhân theo thừa kế.”

[XIX] Một sử gia lớn đã mô tả thế này về nguồn gốc và đặc điểm của các trường đại học, một trong số đó là nơi ông đã theo học: “Hai trường Oxford và Cambridge được thành lập trong một kỷ nguyên đen tối của nền khoa học giả trá và man rợ; và chúng vẫn còn mang vết nhơ của những điều xấu xa của nguồn gốc của chúng… Sự sáp nhập về mặt pháp lý của các tổ chức này bởi những hiến chương của các giáo hoàng và các vị vua đã trao cho chúng một sự độc quyền hướng dẫn công chúng; và tinh thần của những kẻ độc quyền thì hẹp hòi, lười nhát và có tính chất áp đặt: hoạt động của chúng tốn kém hơn và ít năng suất hơn hoạt động của những nghệ sĩ độc lập; và những cải cách bị tóm lấy một cách nôn nóng bởi sự cạnh tranh của tự do, được thừa nhận với sự miễn cưỡng dần dà và sưng sỉa trong các tổ chức tự hào đó, bên trên nỗi e sợ một đối thủ, và bên dưới sự tự thú về một sai lầm. Chắc chắn là chúng ta không thể hy vọng rằng bất kỳ cải cách nào sẽ là một hành động tự nguyện; và chúng cắm rễ sâu vào luật pháp và thành kiến đến mức ngay cả quyền năng tuyệt đối của Quốc hội cũng sẽ co vòi trước một cuộc thẩm tra tình trạng và những sự lạm dụng của hai trường đại học này. (Edward Gibbon, Memoirs of My Life and Writings) Tuy nhiên, “quyền năng tuyệt đối của Quốc hội” cũng đã mở một cuộc điều tra vào giữa thế kỷ 10 về “tình trạng của trường đại học (Oxford), ngành học của nó, các bộ môn nghiên cứu, và tổng thu nhập. Nhưng có nhiều cưỡng kháng tiêu cực từ các trường đến độ hạng mục cuối cùng phải bị ủy ban cho qua. Tuy nhiên, chắc chắn rằng trong số 542 khoản học bổng trong tất cả các trường của Oxford chỉ có 22 khoản thật sự mở rộng cho sự cạnh tranh mà không có những điều kiện hạn chế về sự đỡ đầu, địa điểm hay dòng họ… Các ủy viên hội đồng… phát hiện ra rằng bản cáo trạng của Gibbon là có lý…” (Herbert Warren of Magdalen của Laurie Magnus, trang 47, 49) Tuy nhiên, uy tín của một nền giáo dục đại học vẫn còn cao; và các khoản học bổng được xem là rất đáng ao ước. Khi Pusey trở thành một Ủy viên Ban giám hiệu của Oriel, “những cái chuông của nhà thờ giáo xứ ở Pusey thể hiện sự mãn nguyện của cha ông và gia đình ông.” Một lần nữa, khi Newman được chọn làm một Ủy viên “tất cả những cái chuông của ba tháp chuông đều ngân vang - với chi phí của Newman.” (Oxford Apostles của Geoffrey Faber, trang 131, 69) Thế nhưng cả Pusey lẫn Newman đều là những người đàn ông có một bản chất tinh thần riêng biệt.

[XX] The Crystal Cabinet của Mary Butts, trang 138. Nguyên văn toàn câu thế này: “Vì ngay khi người ta nói với tôi rằng niềm khát khao học hỏi ở phụ nữ chống lại ý chí của Thượng đế, có rất nhiều sự tự do ngây thơ, niềm vui ngây thơ, đã bị khước từ nhân danh cùng một điều.” - một nhận xét khiến người ta phải ao ước rằng chúng ta nên có một tiểu sử từ ngòi bút của con gái của một người đàn ông trí thức của Thượng đế mà nhân danh ngài những hành động tàn bạo như thế đã được thực thi. Ảnh hưởng của tôn giáo đối với học vấn của phụ nữ, cách này hay cách khác, chắc chắn là không bị đánh giá quá cao. Nếu, ví dụ, theo lời Thomas Gisborne, “những cách sử dụng âm nhạc được giải thích, đừng để cho hiệu quả của nó trong lòng mộ đạo được gia cố bị bỏ qua. Nếu vẽ tranh là chủ đề của nhận xét, hãy để cho các sinh viên được giáo huấn thường xuyên để chiêm nghiệm trong những tác phẩm sáng tạo sức mạnh, sự minh triết và tinh chất của tác giả của chúng.” (The Duties of the Female Sex của Thomas Gisborne, trang 85) Thực tế rằng ông Gisborne và những người giống như ông - một nhóm đông đảo - đặt các lý thuyết giáo dục của họ dựa trên nền tảng việc giảng dạy của trường St Paul dường như sẽ gợi ý rằng giới tính nữ phải được “giáo huấn thường xuyên để chiêm nghiệm trong những tác phẩm sáng tạo sức mạnh, sự minh triết và tinh chất” không phải là của Thượng đế, mà của ông Gisborne. Và từ đó chúng ta được dẫn tới kết luận rằng một tiểu sử của Thượng đế sẽ tự nó chuyển thành một Quyển từ điển về Tiểu sử Tăng lữ.

[XXI] Mary Astell của Florence M. Smith. “Thật không may, sự phản đối một ý tưởng mới mẻ đến thế (một trường cao đẳng cho phụ nữ) lại lớn hơn mối quan tâm tới nó, và xuất phát không phải từ những nhà văn châm biếm của thời đó, những kẻ, giống như những người hóm hỉnh của mọi thời, tìm ra từ người phụ nữ tiến bộ này một nguồn để chế giễu và biến Mary Astell thành chủ đề của những kho chuyện cười trong các vở hài kịch về kiểu mẫu Các Nữ học giả, mà là từ những người trong Giáo hội, những kẻ nhìn thấy trong kế hoạch đó một nỗ lực để mang lại chế độ giáo hoàng La Mã. Đối thủ mạnh nhất của ý tưởng này là một giám mục nổi tiếng, người mà, như Ballard đánh giá, đã ngăn cản không để cho một phu nhân lỗi lạc đóng góp 10.000 bảng cho kế hoạch này. Elizabeth Elstob đã cho Ballard biết tên của vị giám mục nổi tiếng này để đáp lại một yêu cầu từ ông ta: “Theo Elizabeth Elstob... chính Giám mục Burnet đã ngăn cản thiết kế tốt đẹp đó bằng cách khuyên can phu nhân đó đừng cổ vũ nó.” (đã dẫn, trang 21, 22) “Phu nhân đó” có thể là Công chúa Ann, hay Phu nhân Elizabeth Hastings; nhưng dường như có lý do để nghĩ rằng đó chính là Công chúa. Việc Giáo hội đã nuốt trọn số tiền đó là một giả thiết, nhưng có lẽ là một giả thiết được phán xét bởi lịch sử Giáo hội.

[XXII] Tụng ca cho Âm nhạc (Ode for Music), biểu diễn ở Hội trường của Cambridge ngày 1-7-1769.

[XXIII] “Tôi bảo đảm với bà tôi không phải là một kẻ thù của những người phụ nữ. Tôi rất ủng hộ việc tuyển dụng họ với tư cách là những người lao động hay trong một khả năng làm người giúp việc khác. Tuy nhiên, tôi có những ngờ vực về khả năng thành công của họ trong hoạt động kinh doanh với tư cách là những nhà tư bản. Tôi chắc chắn dây thần kinh của đa số phụ nữ sẽ đứt tung dưới sự lo âu, và rằng đa số bọn họ cực kỳ thiếu hụt tính trầm lặng có kỷ luật cần thiết cho mọi loại hợp tác. Có thể sau hai ngàn năm nữa các bà có thể thay đổi tất cả những điều này, nhưng phụ nữ hiện tại chỉ ve vãn đàn ông, và gây gỗ với nhau.” Đoạn trích từ một lá thư của Walter Bagehot gửi cho Emily Davies, người đã yêu cầu ông giúp đỡ để thành lập trường Girton.

[XXIV] Recollections and Reflections của Sir J. J. Thomson, trang 86-8, 296-7.

[XXV] “Đại học Cambridge vẫn thừa nhận toàn quyền trở thành thành viên của những người phụ nữ; nó chỉ ban cho họ những bằng cấp danh nghĩa và do đó họ không có phần chia trong Ban điều hành của trường đại học.” (Memorandum on the Position of English Women in Relation to that of English Men của Philippa Strachey, 1935, trang 26) Tuy nhiên, Chính phủ đã ban một “khoản trợ cấp hào phóng” từ tiền công cộng cho Đại học Cambridge.

[XXVI] “Tổng số sinh viên ở các học viện được công nhận cho nền giáo dục cao hơn của những người phụ nữ hiện đang được hướng dẫn ở trường đại học hay đang làm việc trong các thư viện hay viện bảo tàng của trường đại học ở bất kỳ thời điểm nào sẽ không vượt quá năm trăm.” (The Student’s Handbook to Cambridge, 1934-5, trang 616.) Whitaker thông báo với chúng ta rằng con số nam sinh viên nội trú ở Cambridge hồi tháng 10- 1935 là 5.328. Có vẻ như con số đó không có bất kỳ giới hạn nào.

[XXVII] Danh sách học bổng cho nam sinh viên ở Cambridge được in trong tờ The Times ngày 20-12-1937, đo đại khái chừng 32 in-sơ; danh sách học bổng cho nữ sinh viên ở Cambridge đo đại khái chừng 5 in-sơ. Tuy nhiên. Có 17 trường cao đẳng dành cho nam và danh sách được đo ở đây chỉ bao gồm 11 trường. Do đó độ dài 31 in-sơ phải được tăng thêm. Chỉ có hai trường cao đẳng dành cho nữ sinh viên; cả hai đều được đo ở đây.

[XXVIII] Cho tới khi Phu nhân Stanley xứ Alderley qua đời, không có nhà nguyện nào ở trường Girton. “Khi có người đề nghị xây dựng một nhà nguyện, bà đã phản đối, với lập luận rằng tất cả những nguồn quỹ đang có nên chi tiêu cho giáo dục. “Chừng nào tôi còn sống, sẽ không có nhà nguyện nào ở Girton,” tôi từng nghe bà nói thế. Ngôi nhà nguyện hiện tại được xây dựng ngay sau khi bà mất.” (The Amberley Papers của Patricia và Bertrand Russell, tập I, trang 17) Giá mà vong hồn của bà cũng có cùng ảnh hưởng như thân thể của bà! Nhưng những hồn ma, như người ta nói, không có những cuốn sổ chi phiếu.

[XXIX] Tôi cũng có một cảm giác rằng những trường nữ, nói chung, đã vui lòng chọn những phạm vi chung của nền giáo dục của chúng từ những thể chế được thiết lập lâu hơn cho chính tôi, giới tính yếu hơn. Cảm giác của riêng tôi là vấn đề nên bị tấn công bởi một thiên tài độc đáo nào đó trên những phạm vi hoàn toàn khác…” (Things Ancient and Modern của C. A. Alington, trang 216-17) Hầu như không cần phải có thiên tài hay sự độc đáo để nhìn thấy “những phạm vi”, ngay từ đầu, phải rẻ tiền hơn. Nhưng sẽ thú vị khi biết ý nghĩa nào chúng tôi đã gắn cho từ “yếu hơn” trong ngữ cảnh này. Vì từ khi Tiến sĩlà Alington một cựu Hiệu trưởng của trường Eton, ông phải nhận thức rằng giới tính của ông đã không chỉ giành được mà còn giữ lại số tổng thu nhập lớn lao của ngôi trường lâu đời đó - một chứng cứ, người ta sẽ nghĩ, không phải về sự yếu kém giới tính mà của sức mạnh giới tính. Việc Eton không hề “yếu” chí ít từ quan điểm thực dụng, được chỉ ra bởi trích dẫn sau đây từ Tiến sĩ Dr Alington: “Trong lúc theo đuổi đề nghị của một trong các Ủy ban Giáo dục của Thủ tướng, Hiệu trưởng và các ủy viên ban giám hiệu vào thời của tôi đã quyết định rằng tất cả học bổng ở Eton nên có một giá trị cố định, có thể tự do tăng lên trong trường hợp cần thiết. Sự tăng thêm này đã hào phóng đến nỗi có nhiều sinh viên Cao đẳng mà bố mẹ họ không hề chi trả gì cho việc ăn ở hay giáo dục của họ.” Một trong những nhà hảo tâm là Lord Rosebery quá cố. “Ông ấy là một nhà hảo tâm rộng rãi đối với trường,” Tiến sĩ Dr Alington thông báo với chúng tôi, “và đã cung cấp một học bổng lịch sử, liên kết với nó là một hồi kịch tiêu biểu đã diễn ra. Ông ấy hỏi tôi khoản tài trợ có thích đáng không và tôi đề nghị rằng một khoản thêm 200 bảng nữa sẽ dùng để thanh toán cho người chấm thi. Ông ấy gửi một chi phiếu cho số tiền 2000 bảng: sự chú ý của ông ấy đã hướng tới sự khác biệt, và tôi còn giữ trong cuốn sổ của tôi lá thư trả lời trong đó ông ấy nói rằng ông ấy nghĩ một khoản tiền khá lớn sẽ tốt hơn là một phần nhỏ.” (đã dẫn, trang 163, 186.) Tổng chi phí ở trường Cheltenham cho các cô gái năm 1854 về các khoản lương và thăm viếng thầy cô là 1.300 bảng, “và con số kế toán trong tháng 12 chỉ ra một khoản bội chi 400 bảng.” (Dorothea Beale of Cheltenham của Elizabeth Raikes, trang 91)

[XXX] Những từ “rỗng tuếch và không hợp cách” đòi hỏi sự định phẩm. Sẽ không ai xác nhận rằng những giảng viên và tất cả những bài giảng là “rỗng tuếch và không hợp cách”; nhiều chủ đề chỉ có thể được dạy với những biểu đồ và những chứng minh mang tính cá nhân. Những từ trong văn bản chỉ nói tới các cậu con trai và các cô con gái của những người đàn ông học thức đã giảng giải cho anh chị em của họ về văn học Anh; và vì những lý do rằng có một thực hành cổ xưa từ thời Trung cổ khi những cuốn sách còn hiếm hoi; rằng nó còn sống sót là nhờ ở những động cơ thuộc về tiền bạc; hay nhờ ở sự hiếu kỳ: rằng việc xuất bản dưới hình thức sách là chứng cứ đầy đủ về hiệu quả xấu xa của một lượng thính giả đối với một giảng viên về mặt trí tuệ; và rằng sự nổi tiếng về mặt tâm lý bên trên bục giảng khuyến khích sự phù phiếm và niềm khao khát thi thố quyền lực. Thêm nữa, sự giảm thiểu văn học Anh xuống thành một đề tài thi cử phải được xem xét với sự ngờ vực bởi tất cả những ai có kiến thức trực tiếp về độ khó của nghệ thuật này, và do đó của chính cái giá trị giả tạo của một sự chấp nhận hay không chấp nhận của một người chấm thi; và với niềm tiếc nuối sâu sắc bởi tất cả những ai mong muốn giữ gìn nghệ thuật của mình, ít ra là ngoài bàn tay của những người đàn ông giai cấp trung lưu, và tự do nằm ngoài, càng lâu càng tốt, mọi mối liên kết với sự cạnh tranh và kiếm tiền. Một lần nữa, bạo lực mà với nó hiện nay một trường phái văn học chống đối một trường phái khác, tốc độ nhanh chóng mà với nó một trường phái về thị hiếu thành công so với trường phái khác có thể bị truy nguyên một cách phi lý tới sức mạnh mà với nó một trí tuệ trưởng thành đang thuyết giảng cho những trí tuệ còn non nớt phải làm cho họ tiêm nhiễm bởi những ý kiến mạnh mẽ, nếu ngẫu nhiên, và pha màu cho các ý kiến đó với xu hướng cá nhân. Cũng không thể xác nhận rằng tiêu chuẩn của văn học sáng tạo hay phê bình đã được nâng cao. Một chứng cứ thê thảm về việc giới trẻ bị giảm thiểu thành những kẻ ngoan ngoãn về mặt tâm thần bởi các giảng viên là việc yêu cầu đối với những bài giảng về văn học Anh dần dần tăng lên (như mọi nhà văn có thể chứng kiến) và từ chính tầng lớp mà lẽ ra phải học đọc ở nhà - tầng lớp học thức. Nếu, như đôi khi cần có lý do, điều mà các tổ chức văn học trong trường cao đẳng khao khát không phải là kiến thức về văn học mà là sự quen biết với những nhà văn, có những ly cốc-tai, và có rượu nâu; cả hai tốt hơn đừng bị pha với Proust. Dĩ nhiên không điều nào trong đây áp dụng cho những kẻ mà nhà họ không có đủ sách. Nếu giai cấp lao động thấy dễ tiêu hóa văn học Anh qua truyền khẩu hơn, họ hoàn toàn có quyền yêu cầu tầng lớp học thức giúp họ làm điều đó. Nhưng đối với những cậu con trai và những cô con gái của tầng lớp đó sau tuổi mười tám, việc tiếp tục nhấm nháp văn học Anh qua một cọng rơm là một thói quen dường như xứng đáng với mấy từ rỗng tuếch và không hợp cách; các từ đó có thể được áp dụng một cách chính xác với sức mạnh lớn hơn đối với những kẻ cố thỏa mãn cho họ.

[XXXI] Khó mà kiếm được những con số chính xác về các khoản đã trợ cấp cho con gái của những người đàn ông trí thức trước hôn nhân. Sophia Jex-Blake có một khoản trợ cấp từ 30 tới 40 bảng hàng năm; cha cô là một người thuộc tầng lớp trung lưu cao hơn. Phu nhân Lascelles, có cha là một bá tước, hình như được trợ cấp khoảng 100 bảng năm 1860; ông Barrett, một thương nhân giàu có, trợ cấp cho Elizabeth con gái ông “từ 40 tới 45 bảng… mỗi ba tháng, thuế thu nhập đã bị khấu trừ từ đầu.” Nhưng đây dường như là khoản lãi suất trên 8.000 bảng, “hoặc hơn hoặc kém… khó mà hỏi về nó,” mà cô ta có “trong các khoản ngân quỹ”, “số tiền được chia thành hai tỷ lệ phần trăm khác nhau” và rõ ràng, dù thuộc về Elizabeth, vẫn nằm dưới sự kiểm soát của ông Barrett. Nhưng đây là những phụ nữ chưa kết hôn.

Những phụ nữ đã kết hôn không được trợ cấp cho tài sản riêng cho tới khi thông qua Đạo luật về tài sản của phụ nữ đã kết hôn năm 1870. Phu nhân St Helier ghi lại rằng vì các điều khoản hôn nhân của bà đã được soạn thảo theo luật cũ, “Số tiền tôi có nằm trong tài sản của chồng tôi, và không phần nào của nó được giữ lại cho việc tiêu dùng riêng của tôi… Thậm chí tôi không có một cuốn sổ chi phiếu nào, tôi cũng không thể có chút tiền nào trừ phi hỏi xin chồng tôi. Ông tốt bụng và phóng khoáng nhưng ông mặc nhận với vị trí khi ấy đang tồn tại rằng tài sản của một phụ nữ thuộc về chồng của cô ta… ông trả mọi hóa đơn của tôi, ông giữ cuốn sổ ngân hàng của tôi, và cho tôi một khoản trợ cấp nhỏ để chi tiêu những việc cá nhân. (Memories of Fifty Years của Phu nhân St Helier, trang 341) Nhưng bà không nói chính xác số tiền là bao nhiêu. Những khoản tiền trợ cấp cho các cậu con trai của những người đàn ông trí thức lớn hơn một cách đáng kể. Một khoản trợ cấp 200 bảng được xem là chỉ vừa đủ cho một sinh viên chưa tốt nghiệp ở Balliol, “vốn vẫn có những truyền thống tiết kiệm”, vào khoảng năm 1880. Trên khoản trợ cấp đó “họ không thể đi săn và chơi cờ bạc… Nhưng với sự quan tâm và với một ngôi nhà để quay về vào những kỳ nghỉ lễ, họ có thể thực hiện điều đó.” (Anthony Hope and His Books của Sir C. Mallet, trang 38)Số tiền cần tới hiện nay nhiều hơn đáng kể. Gino Watkins không bao giờ tiêu hơn 400 bảng trợ cấp mỗi năm mà với nó anh trả mọi hóa đơn cao đẳng và nghỉ lễ của mình.” (Gino Watkins của J. M. Scott, trang 59) Người này học ở Cambridge, cách đây vài năm.

[XXXII] Các độc giả tiểu thuyết đều biết những người phụ nữ đã bị nhạo báng liên miên ra sao suốt thế kỷ 19 do nỗ lực tiến vào nghề nghiệp duy nhất của họ, vì những nỗ lực đó cung cấp nửa phần kho dữ liệu cho văn học hư cấu. Nhưng tiểu sử cho thấy nó tự nhiên như thế nào, thậm chí trong thế kỷ hiện tại, vì đa số những người đàn ông có học đều quan niệm về tất cả những người phụ nữ như là những bà cô quá lứa lỡ thì, tất cả đều khao khát hôn nhân. Do vậy, có lần ông (G.L. Dickinson) đã buồn bã lẩm bẩm “Ôi chao, chuyện gì xảy ra với họ vậy?” khi một dòng lũ lượt những bà cô quá lứa đầy khao khát nhưng không gây được xúc động lượn quanh trước hoàng cung của nhà vua; “Tôi không biết và họ cũng không biết.” Và rồi với một giọng trầm hơn, như thể những kệ sách của ông có thể nghe lén ông, “Ôi Trời! Cái họ muốn là một ông chồng! (Goldsworthy Lowes Dickinson của E. M. Forster, trang 106) “Cái họ muốn” có thể là quán rượu, sàn chứng khoán hay những căn phòng trong những tòa nhà của Gibbs, nếu sự lựa chọn mở ra với họ. Nhưng nó không mở ra; và do đó nhận xét của ông Dickinson là một nhận xét rất tự nhiên.

[XXXIII] “Thi thoảng, ít nhất là trong những ngôi nhà lớn, sẽ có một đám quan khách tới dự tiệc, được chọn lọc và mời trước từ lâu, và trong những bữa tiệc đó luôn có một thần tượng nổi trội - con gà lôi. Săn bắn đã được sử dụng như một sự cám dỗ. Vào thời ấy, người cha trong gia đình có xu hướng cố gắng. Nếu ngôi nhà của ông ta tràn ngập khách, rượu vang của ông ta được uống thả dàn, và ông đã cung cấp một khu vực săn bắn tốt nhất, vậy thì ông sẽ có những tay súng tốt nhất có thể có cho cuộc săn bắn. Bà mẹ của những cô con gái sẽ thất vọng biết bao nếu nghe nói rằng một người khách, kẻ mà trong tất cả những người khác bà mong mỏi mời cho được lại là một tay súng tồi và hoàn toàn không thể chấp nhận!” (‘Society and the Season,’ của Mary, Nữ bá tước xứ Lovelace, trong Fifty Years, 1882-1932, trang 29)

[XXXIV] Một ý tưởng về điều mà những người đàn ông hy vọng rằng vợ của họ có thể nói hay thực hiện, ít ra là trong thế kỷ 19, có thể thu thập từ những gợi ý sau đây trong một lá thư “gửi cho một tiểu thư, người mà anh ta đã có một quan tâm lớn không lâu trước khi cô ta kết hôn” của John Bowdler. “Trên tất cả, tránh mọi thứ có xu hướng nhỏ nhất tỏ ra khiếm nhã hay bất lịch sự. Chỉ một ít phụ nữ biết rằng những người đàn ông ghét thậm tệ tới mức nào sự tiếp cận nhẹ nhàng nhất với những điều đó ở bất kỳ người phụ nữ nào, nhất là ở một người mà họ gắn bó. Bởi việc chăm sóc phòng dành riêng cho trẻ con hay người đang nằm trên giường bệnh, những người phụ nữ quá có khuynh hướng thụ đắc một thói quen trong việc trò chuyện về những đề tài như thế bằng thứ ngôn ngữ khiến cho những người đàn ông lịch sự phải bị sốc.” (Life of John Bowdler, trang 123)

Nhưng dù sự duyên dáng có tính chất thiết yếu, nó có thể, sau hôn nhân, bị ghét cay ghét đắng. “Trong những năm bảy mươi của thế kỷ trước, cô Jex-Blake và các bạn đồng sự đã đấu tranh sôi nổi cho sự chấp nhận phụ nữ trong nghề nghiệp y khoa, và các vị bác sĩ vẫn mạnh mẽ chống đối sự lấn sân của họ, tuyên bố rằng thật không thích hợp và đồi phong bại tục khi một phụ nữ phải nghiên cứu và xử lý những vấn đề y khoa tinh tế và sâu sắc. Vào thời điểm đó, Ernest Hart, biên tập viên của Tạp chí Y khoa Anh Quốc có nói với tôi rằng đại đa số những đóng góp được gửi tới ông ta để xuất bản trong tạp chí đều dính dáng tới những vấn đề y khoa tinh tế và sâu sắc với nét chữ viết tay của vợ những ông bác sĩ, rõ ràng là họ đã đọc để các bà ấy viết lại. Vào thời đó không có máy đánh chữ hay người viết tốc ký. (The Doctor’s Second Thoughts của Sir J. Crichton- Browne, trang 73, 74)

Tuy nhiên, tính chất nước đôi của sự duyên dáng đã được quan sát từ lâu trước chuyện này. Mandeville đã nói thế này trong The Fable of the Bees (1714):“Lẽ ra trước hết tôi phải cho rằng sự khiêm tốn của phụ nữ là kết quả của tập quán và sự giáo dục, qua đó tất cả những sự lột trần không đúng mốt và những cách diễn tả bẩn thỉu là sự thể hiện đáng sợ và kinh tởm đối với họ, và rằng dù có như thế, người phụ nữ trẻ đức hạnh đang còn sống thường thường sẽ có, bất chấp bộ răng của cô ta, những ý nghĩ và ý tưởng ngượng ngùng về những sự vật nảy sinh trong trí tưởng tượng của mình, mà cô ta sẽ không tiết lộ cho một số người nào đó vì một ngàn thế giới.”

{I} Xin trích dẫn chính xác những từ của một khẩn cầu như vậy: “Lá thư này là để yêu cầu bà giữ lại cho chúng tôi những y phục mà bà không còn dùng tới nữa… vớ dài mọi kiểu, bất kể rách tới độ nào, đều có thể chấp nhận… Ủy ban nhận thấy rằng bằng cách bánnhững quần áo này ở giá cả hợp lý… chúng đang thực hiện một dịch vụ thật sự hữu ích cho những phụ nữ mà nghề chuyên môn của họ đòi hỏi họ phải có y phục ban ngày và ban đêm chỉnh tề mà có thể họ không có đủ khả năng mua.” (Trích một lá thư nhận từ tổ chức London and National Society for Women’s Service, 1938.)

{II} Testament of Joad, by C. E. M. Joad, p. 210-11. Vì số lượng các hiệp hội do phụ nữ Anh điều hành trực tiếp hoặc gián tiếp là quá dài để trích dẫn (xem The Story of the Disarmament Declaration, p. 15, để tham khảo một danh sách các hoạt động hòa bình của phụ nữ thuộc tầng lớp lao động, kinh doanh và chuyên nghiệp) không cần thiết phải nghiêm túc chấp nhận sự chỉ trích của ông Joad, dù sao cũng soi sáng về mặt tâm lý học.

{III} Experiment in Autobiography, by H. G. Wells, p. 486. “Phong trào của nam giới để “chống lại sự xóa bỏ một cách thực chất tự do của họ bởi Đức Quốc Xã hay những người theo chủ nghĩa Phát xít có thể được nhận thức rõ hơn. Nhưng việc nó thành công hơn thì còn đáng ngờ. Hiện Đức Quốc Xã đang kiểm soát toàn bộ nước Áo.” (Báo Daily, 12/3/ 1938).

{IV} “Tôi nghĩ phụ nữ không nên ngồi cùng bàn với nam giới, sự hiện diện của họ phá hỏng cuộc đàm thoại, có xu hướng biến nó thành vặt vãnh và cầu kỳ, hoặc tốt nhất chỉ đơn giản là thông minh.” (Under the Fifth Rib, by C. E. M. Joad, p. 58.) Đây là một ý kiến được nói huỵch toẹt ra một cách đáng ngưỡng mộ, và nếu tất cả những ai chia sẻ những cảm giác của ông Joad đều tự bày tỏ một cách cởi mở, tình trạng tiến thoái lưỡng nan của nữ chủ nhân - mời ai, không mời ai - sẽ được sáng tỏ và bà ta sẽ tiết kiệm được công sức. Nếu những người vốn thích hiệp hội của giới tính riêng của họ ngồi ở bàn tuyên bố sự thật, những người đàn ông, chẳng hạn, bằng cách mặc áo đỏ, phụ nữ bằng cách đeo nơ hoa hồng bạch, trong lúc những người thích pha trộn cả hai giới cài hoa trắng và đỏ pha trộn trên khuyết áo, thì không chỉ nhiều bất tiện và hiểu lầm được ngăn chặn, mà còn có khả năng là sự trung thực của cái khuyết áo sẽ giết chết một hình thức cụ thể của sự đạo đức giả trong giao tiếp xã hội hiện đang quá thịnh hành. Đồng thời, sự bộc trực của ông Joad xứng đáng lời ca tụng cao nhất, và những mong ước của ông ta đáng được tuân thủ tuyệt đối.

{V} Theo bà H. M. Swanwick, W.S.P.U. có “một thu nhập từ những quà tặng trong năm 1912 trị giá £42,000.” (I Have Been Young, by H. M. Swanwick, p. 189.) Tổng thu của tổ chức Women’s Freedom League trong năm 1912 là £26,772 12s. 9d. (The Cause, by Ray Strachey, p. 311.) Như vậy tổng thu của hai tổ chức này là £68,772 12s. 9d. Nhưng, tất nhiên hai hiệp hội này phản đối.

{VI} “Nhưng, trừ những ngoại lệ, tổng thu nhập nói chung của phụ nữ là thấp, và 250 bảng một năm hoàn toàn là một thành tựu, ngay cả đối với một phụ nữ có khả năng cao với nhiều năm kinh nghiệm.” (Careers and Openings for Women, by Ray Strachey, p. 70.) Tuy nhiên, “Con số phụ nữ đang làm các công việc chuyên môn đã tăng rất nhanh trong hai mươi năm qua, và vào khoảng 400.000 trong năm 1931, cộng thêm những người làm nghề thư ký hay làm việc trong ngành công chức.” (op. cit, p. 44.)

{VII} Thu nhập của Đảng Lao động năm 1936 là £50,153. (Daily Telegraph, 9/1937.)

{VII} The British Civil Service. The Public Service, by William A. Robson, p. 16.

Giáo sư Ernest Barker đề xuất rằng nên có một cuộc thi tùy chọn cho “nam giới và phụ nữ ở lứa tuổi cao hơn”, những người đã làm công việc xã hội và dịch vụ xã hội trong một số năm. “Nói riêng, ứng viên nữ có thể có lợi. Đây chỉ là một phần rất nhỏ của các nữ sinh viên thành công trong cuộc thi mở rộng hiện nay: thật sự có rất ít người ứng thí. Ở hệ thống tùy chọn đề nghị ở đây, có thể, và thật sự có khả năng là một tỷ lệ phụ nữ lớn hơn nhiều sẽ là những ứng viên. Phụ nữ có khả năng và tài năng bẩm sinh đối với công việc và dịch vụ xã hội. Hình thức thi tuyển chọn lựa sẽ cho họ một cơ hội để biểu lộ khả năng và tài năng bẩm sinh đó. Nó có thể cho họ một sự khích lệ mới để thi tuyển vào dịch vụ quản lý của quốc gia, trong đó tài năng và sự hiện diện của họ là cần thiết.”(The British Civil Servant. ‘The Home Civil Service,’ by Professor Ernest Barker, p. 41.) Nhưng trong khi sự phục vụ gia đình vẫn tồn tại chính xác như nó đang hiện hữu trong hiện tại, khó mà thấy một sự khích lệ có thể làm cho phụ nữ tự do để trao tặng “khả năng và tài năng bẩm sinh của họ” cho dịch vụ nhà nước, trừ phi quốc gia thực hiện việc chăm nom các bố mẹ lớn tuổi; hay quy định rằng những người già dù thuộc giới tính nào đòi hỏi sự phục vụ của các con gái ở nhà là vi phạm luật hình.

{IX} Ông Baldwin, phát biểu ở Downing Street, trong một cuộc mít tinh với tư cách đại diện cho Quỹ Newnham College Building, 31/3/1936.

{X} Ảnh hưởng của một phụ nữ trong giới tăng lữ được xác định như sau trong cuốn Women and the Ministry, Some Considerations on the Report of the Archbishops’ Commission on the Ministry of Women (1936), p. 24. “Nhưng chúng tôi bảo lưu rằng sự chăm sóc của phụ nữ… sẽ có xu hướng tạo nên một sự hạ thấp tinh thần tín ngưỡng Công giáo, điều đó không nảy sinh bởi sự chăm sóc của nam giới trước khi những giáo đoàn mở rộng hay ưu tiên cho phụ nữ. Đó là một sự bày tỏ lòng tôn kính đối với phẩm chất của nữ tín đồ Công giáo nếu có thể đưa ra phát biểu này; nhưng nó sẽ có vẻ như một thực tế đơn giản rằng trong những ý nghĩ và mong muốn của giới tính đó tính tự nhiên dễ trở nên thấp kém hơn tính siêu nhiên, xác thịt thấp hơn tinh thần là trường hợp với nam giới; và rằng sự chăm sóc của một nam tu sĩ thông thường không khơi dậy khía cạnh đó của bản chất nữ giới vốn sẽ im lìm trong những thời gian của tình yêu mến Chúa. Mặt khác, chúng ta tin rằng các thành viên nam giới của giáo đoàn thuộc Giáo phái Anh không thể hiện diện ở một dịch vụ mà ở đó một phụ nữ được chăm sóc mà không trở nên ý thức một cách quá mức tới giới tính của mình.”

Do đó, theo ý của các Ủy viên Hội đồng Tổng Giám mục, nữ tín đồ Công giáo có đầu óc nghiêng về tinh thần hơn nam tín đồ - một nguyên do đáng chú ý, nhưng chắc chắn là thích đáng, để loại trừ họ khỏi giáo giới.

{XI} Daily Telegraph, 20/1/1936.

{XII} Daily Telegraph, 1936.

{XIII} Daily Telegraph, 22/1/1936.

{XIV} “Theo tôi biết, đến nay không có quy luật phổ quát nào về chủ đề này [chẳng hạn các quan hệ tính dục giữa những công chức]; nhưng những công chức và các quan chức đô thị ở cả hai giới hẳn nhiên được mong đợi được tuân thủ những quy định theo truyền thống và tránh thứ tư cách đạo đức có thể tự nó tìm đường đến những tờ nhật báo và bị mô tả là “đáng hổ thẹn” ở đó. Cho tới gần đây, các quan hệ giới tính giữa nam và nữ quan chức của Bưu điện có thể bị trừng phạt bằng cách sa thải ngay lập tức cả hai bên… Việc tránh sự công khai trên báo chí là một vấn đề khá dễ giải quyết miễn là có liên quan tới các vụ kiện tại tòa án: nhưng sự hạn chế ở giới văn phòng cần mở rộng hơn để ngăn các nữ công chức (thường là những người phải từ chức khi kết hôn) khỏi một quan hệ công khai ăn ở như vợ chồng với đàn ông nếu họ muốn làm như thế. Do đó, vấn đề này khoác một màu sắc mới.” (The British Civil Servant. The Public Service, by William A. Robson, pp. 14, 15.)

{XV} Phần lớn các câu lạc bộ của nam giới