← Quay lại trang sách

Chương 11 Sáu ngày

Có một ngọn nến trong tim bạn, sẵn sàng được thắp lên.

Có một khoảng trống trong linh hồn bạn, sẵn sàng được lấp đầy.

Bạn có cảm nhận được nó hay không?

- Rumi

Ở khoa Bỏng thuộc Trung tâm Y tế Alta Bates, chùm đèn LED đỏ và lục nhấp nháy trên một dàn màn hình. Mặc dù lúc đó là 4 giờ sáng và đã ngồi sụp xuống sau chỗ nghỉ của y tá, cố mà không tìm được một tư thế thoải mái trong chiếc ghế nhựa được thiết kế cho một người nhỏ con hơn nhiều, Mortenson cảm thấy thiếu thốn một thứ gì đó kể từ buổi sáng anh buông rơi chai rượu Baileys vào thùng rác ở nhà nghỉ Beach - hạnh phúc.

Trước đó, Mortenson đã thoa kem kháng sinh vào hai bàn tay của một bé trai mười hai tuổi bị phỏng vì đưa tay vào bếp lò, rồi thay băng cho nó. Về thể xác, ít nhất thì đứa bé cũng đang lành lặn tốt. Ngoài ra, đó là một đêm yên tĩnh.

Mình không cần phải đi đến phía bên kia của thế giới để là người có ích, Mortenson nghĩ. Anh đang có ích ở đây. Nhưng mỗi ca trực và những đồng đôla tích tụ trong tài khoản ở ngân hàng Bank of America, đưa Mortenson đến gần cái ngày mà anh có thể bắt đầu lại việc xây dựng trường học Korphe.

Anh lại sống trong căn phòng thuê ở nhà Witold Dudzinski, và ở đây, trong phòng cấp cứu trống một nửa, anh vui với một đêm thanh bình xa khỏi khói thuốc và hơi rượu vodka. Chiếc áo choàng phẫu thuật màu việt quất của Mortenson thực tế là bộ pyjama, và ánh sáng dịu đủ để cho anh ngủ thiếp đi. Chỉ nếu như chiếc ghế cho phép.

Mortenson loạng choạng đi về nhà sau ca trực. Bầu trời đen đang xanh dần phía sau Berkeley Hills khi anh nhấp ngụm cà phê đậm với những miếng bánh từ tiệm bánh rán của người Campuchia. Một chiếc Saab màu đen đậu trước đầu chiếc xe tải không mui của Dudzinski ngay trước nhà Mortenson. Và ngồi sụp trong ghế của người lái là bác sĩ Marina Villard, toàn bộ, chỉ trừ đôi môi, bị che khuất bởi suối tóc đen. Mortenson liếm đường trên các ngón tay, rồi mở cửa xe.

Marina ngồi dậy, duỗi người và bừng tỉnh. “Anh không trả lời điện thoại.” cô nói.

“Anh đang làm việc.”

“Em đã để lại nhiều tin nhắn.” cô nói. “Anh hãy xóa chúng đi.”

“Em đang làm gì ở đây?” Mortenson nói.

“Anh có vui khi gặp em không?”

Mortenson quyết định sẽ nói là không. “Dĩ nhiên.” anh nói. “Em khỏe không?”

“Nói thật thì em không khỏe lắm.” Cô kéo tấm che nắng xuống và tự ngắm nhìn mình trong gương trước khi tô lại đôi môi bằng son đỏ.

“Điều gì xảy ra với Mario?”

“Một sai lầm.” cô nói.

Mortenson không biết phải làm gì với hai bàn tay của mình. Anh đặt tách cà phê xuống trên mui chiếc Saab của nàng, rồi giữ chặt tay hai bên hông.

“Em nhớ anh.” Marina nói, cô kéo cần gạt bên hông ghế để nâng lưng ghế, và nệm tựa đầu đập vào sau đầu cô. “Ôi! Anh có nhớ em không?”

Mortenson cảm thấy một thứ gì đó hiệu nghiệm hơn cả chất cafein ở tiệm bánh rán chạy khắp người mình. Chỉ xuất hiện, sau tất cả thời gian vừa qua. Tất cả những đêm trằn trọc trong túi ngủ trên sàn nhà bụi bặm của Dudzinski, cố xua đuổi cô và cảm giác về gia đình đã được tìm thấy rồi mất đi, để giấc ngủ có thể đến. “Mọi việc đã chấm dứt.” Mortensơn nói, đóng cửa xe của Marina Villard và leo lên căn nhà nồng nặc mùi thuốc ôi thiu và mùi vodka đổ tràn để nằm bẹp xuống ngủ.

Giờ đây, cây cầu đã bắc qua Thượng Braldu, và các vật tư mà anh đã buộc Changazi làm biên nhận sắp biến thành một ngôi trường. Lúc này, anh không thấy thích ở mãi trong nhà Dudzinski, nhưng để tiết kiệm cho đến khi quay trở lại và hoàn thành công việc của mình ở Pakistan, anh thích nói chuyện với bất cứ ai có liên quan với Karakoram.

Anh đến thăm Jean Hoerni, người đã gửi cho anh một vé máy bay đến Seattle và yêu cầu anh mang theo những tấm hình về cây cầu. Trong căn hộ penthouse của Hoerni, với tầm nhìn bao quát hồWashington và dãy núi Cascades đằng xa, Mortenson gặp người đàn ông mà anh thấy rất đáng sợ qua điện thoại. Nhà khoa học nhỏ con, với bộ ria rủ xuống và đôi mắt đen huyền, đang đánh giá Mortenson qua cặp mắt kính quá khổ của mình. Ngay cả ở tuổi bảy mươi, ông vẫn có sự cường tráng dẻo dai của một nhà leo núi trọn đời. “Lúc đầu, tôi sợ Jean.” Mortenson nói. “Ông ấy nổi tiếng là một gã khó chịu, nhưng ông đối với tôi không thể nào tốt hơn.”

Mortenson mở chiếc túi vải của mình ra và không lâu sau, anh cùng Hoerni cúi người bên bàn cà phê để nghiên cứu những tấm ảnh, những bản vẽ và bản đồ trải tràn trên tấm thảm màu kem sậm. Hoerni, người đã hai lần lên trại căn cứ K2, đã bàn với Mortenson về tất cả những ngôi làng, giống như Korphe, không xuất hiện trên các bản đồ. Và ông rất thích thú thực hiện một bổ sung vào tấm bản đồ, bằng bút lông đen. Cây cầu mới bắc qua Thượng Braldu.

“Jean thực sự hưởng ứng Greg ngay.” người vợ góa của Hoerni, Jennifer Wilson, về sau trở thành thành viên của ban giám đốc Viện Trung Á nói. “Ông ấy đánh giá cao việc Greg là người khờ khạo và vô tư lợi như thế nào. Ông ấy thích thú với thực tế rằng Greg là người tự do. Anh biết đó, Jean là doanh nhân và ông ấy quý trọng một cá nhân dám làm một chuyện gì đó khó khăn. Lần đầu tiên đọc về Greg trong bản tin AHF, ông ấy đã nói với tôi, ‘Người Mỹ quan tâm đến Phật giáo, không phải Hồi giáo. Chàng trai này sẽ không nhận được sự giúp đỡ nào cả. Tôi sẽ làm cho điều đó xảy ra.’ ”

“Jean đã đạt được nhiều điều trong cuộc đời mình.” Wilsonnói. “Nhưng thách thức của việc xây dựng trường Korphe đã kích thích ông ấy cũng nhiều như công trình khoa học của ông ấy. Ông ấy thực sự cảm thấy có một mối liên hệ với vùng đất đó. Sau khi Greg ra đi, ông ấy đã nói với tôi, ‘Anh nghĩ chàng trai trẻ này có năm mươi trên năm mươi cơ hội để hoàn tất công việc. Và nếu anh ta làm xong, anh ta có thêm sức mạnh.’ ”

Trở lại Bay Area, Mortenson gọi điện cho George McCown, và cả hai hồi tưởng lại nút xoắn của số phận đã đưa họ đến với nhau ở phía bên kia trái đất, trên con đường mòn đến Thượng Braldu. McCown mời anh đến dự một sự kiện của Quỹ Tài trợ Himalaya Mỹ vào đầu tháng chín, và Sir Edmund Hillary sẽ có một bài phát biểu trong sự kiện đó. Mortenson nói sẽ gặp ông ở đó.

Vào thứ tư ngày 13 tháng 9 năm 1995, Mortenson, trong chiếc áo thể thao bằng len màu nâu vốn là áo kaki của cha mình và đôi giày da không vớ, đến khách sạn Fairmont. Trên đồi Nob, khách sạn Fairmont sang trọng tọa lạc ở giao lộ duy nhất nơi hội tụ của tất cả các tuyến xe điện của thành phố, một địa điểm thích hợp cho buổi tối sẽ kết dính nhiều phần trong cuộc đời Mortenson.

Năm 1945, các nhà ngoại giao từ bốn mươi quốc gia đã gặp nhau ở Fairmont để thảo ra hiến chương Liên Hiệp Quốc. Năm mươi năm sau, đám đông tụ tập ở phòng khiêu vũ kiểu Venice sang trọng cho bữa tiệc gây quỹ thường niên của Quỹ Tài trợ Himalaya Mỹ cũng đặc trưng cho sự đa dạng về văn hóa. Các nhà đầu tư mạo hiểm và các nhà quản lí quỹ ăn mặc tinh tế đứng đầy ở quầy rượu, chen vai với những nhà leo núi, sột soạt trong những chiếc áo khoác và cà vạt không đặc biệt. Các quý bà San Francisco mặc áo nhung đen cười khúc khích trước những câu chuyện đùa của các nhà sư Tây Tạng mặc áo cà sa màu nâu vàng.

Mortenson khom người khi đi vào phòng, nhận kata, dải lụa cầu nguyện chào đón được quàng vào cổ mọi khách mời. Anh đứng thẳng người lên, sờ vào dải lụa và để cho đợt triều của gần một nghìn giọng nói sinh động tràn qua khi nhận huy hiệu của mình. Căn phòng này toàn là những người quen biết nhau từ trước, một nơi mà anh không bao giờ tìm thấy chính mình, và anh thấy mình đứng ngoài lề. Rồi George McCown vẫy tay với anh từ quầy rượu, nơi ông đang cúi người để nghe một điều gì đó từ người đàn ông thấp hơn, và Mortenson nhận ra đó chính là Jean Hoerni. Anh bước đến và ôm cả hai.

“Tôi vừa mới nói với George rằng ông ấy cần cho anh một khoản tiền.” Hoerni nói.

“À, tôi có đủ tiền để hoàn thành ngôi trường nếu có thể giữ được các chi phí ở mức thấp.” Mortenson nói.

“Không phải cho ngôi trường.” Hoerni nói. “Cho anh, anh định sống bằng gì cho đến khi hoàn thành việc xây dựng?”

“Hai mươi nghìn đôla được không?” McCown nói.

Mortenson không thể nghĩ ra cách nào để trả lời. Anh cảm thấy máu đang

dồn lên gò má mình.

“Tôi có thể coi đây là sự đồng ý?” McCown nói.

“Hãy đem đến cho anh ấy một ly cocktai.” Hoerni nói, cười rạng rỡ. “Tôi nghĩ Greg sắp ngất xỉu.”

Trong bữa tiệc, một phóng viên báo ảnh bảnh bao, ngồi ở bàn Mortenson quá kinh hãi khi nhìn thấy mắt cá chân của anh để trần trong một buổi tiệc trang trọng, đã đi mua cho anh một đôi vớ ở cửa hàng trong khách sạn. Ngoài điều đó ra, Mortenson không nhớ gì nhiều về bữa tiệc đêm hôm đó, ngoài việc ngồi ăn trong sững sờ ngạc nhiên vì những vấn đề tài chính của mình dường như đã được quét sạch bằng một cái phẩy tay.

Nhưng được nghe một trong những người anh hùng của mình nói chuyện sau bữa ăn là một trải nghiệm không thể nào quên đối với anh. Sir Edmund Hillary lóng ngóng bước lên sân khấu, trông giống như một người nuôi ong như ông đã từng làm hơn là một người nổi tiếng đã được Nữ hoàng Anh phong tước hiệp sĩ. “Ed từ Đỉnh núi” như ông thường tự giới thiệu mình, có hai hàng lông mày bờm xờm, bên dưới mái tóc bồng bềnh và hàm răng khủng khiếp. Ở tuổi bảy mươi lăm, người công dân New Zealand nổi tiếng nhất đã hơi có bụng và không còn trông giống một người có thể sải bước lên một đỉnh núi tám nghìn mét. Nhưng đối với buổi họp mặt của những người hâm mộ Himalaya này, ông vẫn là một kho tàng sống.

Hillary bắt đầu trình chiếu những phim slide về chuyến thám hiểm Everest tiên phong của mình vào năm 1953. Những hình ảnh có màu sáng với những tông màu không thực của phim Kodachrome thuở ban đầu và ở đó ông được giữ lại trong tuổi trẻ vĩnh cửu, rám nắng và đang nheo mắt. Hillary cho chiếu lại chuyến leo núi đầu tiên của mình, nói rằng nhiều người khác có thể vượt trước ông và Tenzing Norgay để đến đỉnh Everest. “Tôi chỉ là một người leo núi nhiệt tình có khả năng khiêm tốn, là người sẵn lòng làm việc vất vả và có sự tưởng tượng cùng quyết tâm cần thiết.” ông nói với đám đông im lặng. “Tôi chỉ là một gã nhà quê tầm thường. Chính giới truyền thông đã cố biến tôi thành một nhân vật anh hùng. Nhưng qua năm tháng, tôi đã học được rằng chừng nào bạn không tin tất cả những chuyện rác rưởi đó về mình thì chúng cũng không làm hại bạn gì nhiều.”

Duyệt qua những hình ảnh bắt buộc về Everest, Hillary lướt qua những khung hình được chụp vào khoảng giữa những năm 1960 và 1970, về những người đàn ông phương Tây vạm vỡ và những người Sherpa nhỏ nhắn, cùng nhau làm việc để xây dựng trường học và bệnh xá ở Nepal. Một tấm hình được chụp trong thời gian xây dựng dự án nhân đạo đầu tiên của ông, một trường học ba phòng được hoàn tất vào năm 1961, một Hillary mình trần sải bước nhẹ nhàng qua một dầm mái, tay cầm búa. Trong bốn thập niên sau khi lên đến nóc nhà của thế giới, thay vì yên nghỉ trong danh tiếng của mình, Hillary thường xuyên quay trở lại vùng Everest, và cùng người em trai Rex của mình, ông đã xây dựng hai mươi bảy ngôi trường, mười hai bệnh xá và hai sân bay dã chiến để hàng tiếp liệu có thể đến vùng Khumbu dễ dàng hơn.

Mortenson thấy rất phấn khích nên không thể ngồi yên. Tự cho phép mình rời khỏi bàn, anh đi nhanh đến cuối phòng và rảo bước tới lui trong khi lắng nghe bài trình bày của Hillary, nóng lòng muốn hấp thu từng lời và đáp chuyến bay kế tiếp có thể đưa mình đến Korphe để làm việc ngay.

“Tôi không biết liệu tôi có muốn nhớ một điều đặc biệt nào hay không.” Anh nghe Hillary nói. “Tôi đã tự hài lòng với chuyến leo Everest của mình. Nhưng những thứ có giá trị nhất của tôi là việc xây dựng những ngôi trường và trạm y tế. Chúng đã đem lại cho tôi sự mãn nguyện nhiều hơn việc đặt chân lên một ngọn núi.”

Mortenson nhận thấy có ai vỗ trên vai mình và anh quay lại. Một phụ nữ xinh đẹp mặc trang phục màu đen đang cười với anh. Cô có mái tóc đỏ cắt ngắn và dường như quen thuộc theo một cách mà Mortenson không thể nhớ ra.

“Tôi biết Greg là ai.” Tara Bishop nói. “Tôi được nghe về những gì mà anh ấy đang cố làm và tôi nghĩ anh ấy có một nụ cười rạng rỡ, do đó tôi đã quyết định đi rón rén đến bên anh ấy.” Cùng nhau, cả hai bắt đầu một cuộc trò chuyện liên tục không dừng lại được; mỗi chi tiết lại đưa đến một vấn đề cả hai cùng quan tâm, một cuộc trò chuyện còn tiếp diễn cho đến tận hôm nay.

Thì thầm bên tai, để không làm phiền những người khác đang lắng nghe Hillary, họ kề đầu vào nhau. “Greg đoan chắc rằng tôi thực sự đã tựa đầu mình vào vai anh ấy.” Tara nói. “Tôi không nhớ điều đó, nhưng có thể là như vậy. Tôi bị cuốn hút bởi anh ấy. Tôi nhớ mình đã nhìn vào đôi bàn tay của anh ấy. Chúng mới to lớn và mạnh mẽ làm sao, và ước muốn được nắm lấy đôi bàn tay ấy.”

Cha của Tara, Barry Bishop, một phóng viên ảnh cho National Geographic, đã lên đến đỉnh Everest vào ngày 22 tháng 5 năm 1963, là thành viên trong đoàn thám hiểm người Mỹ đầu tiên lên đến đỉnh. Ông đã chọn con đường lên đỉnh núi bằng cách nghiên cứu những hình ảnh chụp lộ trình do bạn ông là Sir Edmund Hillary cung cấp. Bishop đã ghi chép lại cuộc leo núi gian khổ choNational Geographic. “Chúng tôi làm gì khi cuối cùng lên đến đỉnh và ngồi phịch xuống?” Bishop viết. “Chúng tôi đã khóc. Tất cả mọi trở ngại đều đã được vượt qua, và chúng tôi khóc như những đứa trẻ. Với niềm vui đã leo lên những ngọn núi hùng vĩ nhất với sự nhẹ nhõm rằng chuyến leo núi cực hình đã kết thúc.”

Sự nhẹ nhõm của ông là quá sớm. Trên chuyến xuống núi, Bishop suýt bị trượt khỏi một rìa đá trên con đường hướng về Tây Tạng. Nguồn oxy gần cạn, ngã vào một khe núi và mắc phải chứng cóng giá trầm trọng đến mức ông phải được đưa xuống làng Namche Bazaar bởi những đội cờ hiệu người Sherpa trước khi được di tản bằng trực thăng đến bệnh viện Katmandu. Vào cuối chuyến thám hiểm, Bishop đã mất các đầu ngón tay, các ngón chân, và sự tôn trọng đối với những nhà tiên phong như Hillary đã lên đỉnh Everest trước ông không mất đi chút nào. “Trong sự tĩnh lặng của bệnh viện, tôi suy ngẫm về những bài học mà chúng tôi đã được học.” ông viết. “Everest là sự mênh mông khắc nghiệt và thù địch. Bất cứ ai thách thức nó là tuyên chiến với nó. Người đó phải thực hiện cuộc tấn công của mình với kĩ năng và tính liên tục của một chiến dịch quân sự. Và khi trận chiến kết thúc, ngọn núi vẫn không bị khuất phục. Không có những người chiến thắng thực sự, chỉ có những người sống sót.”

Barry Bishop đã sống sót trở về nhà ở Washington, nơi mà Tổng thống Kennedy đã chào đón ông cùng đồng đội của ông như những người hùng tại Vườn Hồng trong Nhà Trắng. Năm 1968, với chiếc Airstream Camper ông đã đưa vợ mình là Lila, con trai Brent và con gái Tara đi từ Amsterdam đến Katmandu. Họ chuyển đến Jumla, miền tây Nepal trong hai năm, trong khi Bishop hoàn thành luận án tiến sĩ của mình về những lộ trình mậu dịch xưa kia. George Schaller đã đến thăm gia đình họ trên đường đến và trở về từ những chuyến leo núi để khảo sát động vật hoang dã đang biến mất ở Nepal.

Bishop sống sót để đưa gia đình mình trở về Washington D.C, nơi ông trở thành Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu và Thám hiểm của National Geographic. Ở Washington, Tara nhớ lại, bạn của cha mình là Ed Hillary ghé thăm và hai nhà leo núi không mệt mỏi trải qua những tối uể oải nằm trước máy thu hình, uống thứ bia rẻ tiền, hồi tưởng lại Everest, và xem những bộ phim miền Viễn Tây xa xưa mà cả hai đều ưa thích. Ông còn sống để cùng vợ đi đến Bozeman, Montana, và xây dựng một trong những thư viện tư nhân tốt nhất thế giới về Himalaya trong tầng hầm nhà mình vào năm 1994.

Nhưng Bishop không sống sót sau chuyến lái xe đến San Francisco. Một năm trước đó, cùng với vợ, Lila, trên đường đến dự buổi nói chuyện tại cùng sự kiện này, bữa tiệc gây quỹ thường nhiên của Quỹ Tài trợ Himalaya Mỹ, chiếc Ford Explorer của Bishop, chạy với vận tốc tám mươi lăm dặm một giờ đã chệch khỏi đường ở Pocatello, Idaho và lộn bốn vòng trước khi dừng lại trong một hào cát. Mẹ của Tara có thắt dây an toàn đã sống sót với những vết thương nhẹ. Nhưng cha của Tara không thắt dây an toàn. Ông bị ném khỏi xe và đã chết vì những vết thương ở đầu.

Tara Bishop nhận ra mình đã kể toàn bộ câu chuyện cho một người đàn ông hoàn toàn xa lạ đang đứng bên mình trong phòng khiêu vũ tối: Chiếc Explorer đầy những hình ảnh thời thơ ấu của Tara và những tập san mà cha cô đang mang đến cho cô như thế nào. Những người lạ ở địa điểm lật xe đã gom tất cả những vật lưu niệm quý báu của cô, vương vãi trên xa lộ, và đã trả lại chúng như thế nào. Cô cùng em trai Brent đã đến viếng địa điểm đó, treo những lá cờ cầu nguyện trên những bụi cây bên lề đường và đổ chai rượu gin Bombay mà cha cô ưa thích trên vết máu vẫn còn trong cát như thế nào. “Điều kì lạ nhất là tôi không hề thấy xa lạ với anh ấy.” Tara nói. “Việc tâm sự với Greg có ý nghĩa hơn bất cứ chuyện gì mà tôi đã làm kể từ ngày cha tôi qua đời.”

Khi đèn trong căn phòng kiểu Venice bật sáng, nơi mà Tony Bennett từng trình diễn lần đầu ca khúc đặc trưng của mình I Left My Heart in San Francisco, Mortenson thấy con tim mình đang hướng về phía người phụ nữ mà anh vừa mới gặp. “Tara đi giày cao gót, là thứ mà tôi chưa bao giờ thực sự thấy thích.” Mortenson nhớ lại. “Cuối buổi tối đó, chân cô ấy đau và cô ấy đã thay bằng đôi giày ống cổ cao. Tôi không biết vì sao điều đó làm tôi chết mê chết mệt, nhưng nó đã làm thế. Tôi cảm thấy mình như một anh chàng mới lớn. Nhìn cô ấy trong bộ váy đen và đôi ủng to, tôi biết chắc cô ấy là người phụ nữ của đời mình.”

Họ cùng kính trọng Hillary; ông đã nói với Tara rằng ông rất buồn khi nghe tin về cái chết của cha cô. “Thật không thể tin được,” Mortenson nói. “Tôi thấy mình bị kích động bởi việc gặp Tara còn hơn là được nói chuyện với người đàn ông là thần tượng của mình từ nhiều năm.” Mortenson giới thiệu Tara với Jean Hoerni và George McCown, rồi hòa cùng đám đông đi vào tiền sảnh. “Đến lúc đó, Tara mới biết tôi không có xe hơi và đề nghị lái xe đưa tôi về nhà.” Mortenson nói. “Tôi đã sắp xếp để đi xe cùng với các bạn của mình, nhưng tôi giả vờ là chưa có xe và gạt bạn bè sang một bên để đi cùng cô ấy.” Mortenson đã đến khách sạn Fairmont trong tình trạng thường lệ của mình, túng quẫn và cô đơn. Anh rời khách sạn với ước hẹn sẽ có được tiền lương một năm và người vợ tương lai.

Luồn lách qua khu tài chính của San Francisco trong chiếc Volvo xám của Tara, qua luồng giao thông tắc nghẽn trên xa lộ 101, và qua cầu Bay, Mortenson đã kể cho Tara nghe những câu chuyện của mình. Về thời thơ ấu ở Moshi. Về cây hồ tiêu, bệnh viện của cha anh và trường học của mẹ. Về cái chết của Christa. Và rồi về Dempsey. Cao bên trên mặt nước đen của vịnh San Francisco, hướng về những ngọn đèn của Oakland Hills đang vẫy gọi như một chòm sao chưa được phát hiện, Mortenson đang xây dựng một cây cầu khác nữa, bắc qua những biến cố để kết nối hai cuộc sống lại với nhau.

Họ đỗ xe trước căn hộ của Dudzinski. “Anh mời em vào.” Mortenson nói. “Nhưng nơi đó là một ác mộng.” Họ ngồi trong chiếc ghế dài bọc nệm và nói chuyện hơn hai tiếng về Baltistan và những trở ngại mà anh đối diện trong việc xây dựng ngôi trường ở Korphe. Về người em trai của Tara, Brent, đang lên kế hoạch cho chuyến thám hiểm Everest của chính mình. “Ngồi trong xe hơi bên cạnh anh tôi nhớ rằng mình có một ý nghĩ rất cân nhắc.” Tara Bishop nói. “Chúng tôi thậm chí còn chưa chạm vào nhau, nhưng tôi nhớ mình đã nghĩ, ‘Mình sẽ ở cùng con người này trong suốt phần đời còn lại của mình’. Đó là một cảm giác rất bình yên và thú vị.”

“Anh có phiền không nếu em bắt cóc anh?” cô nói. Trong căn hộ nhỏ của cô, một nhà để xe được chuyển đổi ở vùng ngoại ô xinh đẹp Rockridge, Oakland, Tara Bishop rót hai ly ruợu và trao cho Mortenson nụ hôn đầu tiên, kéo dài. Tashi, chú chó săn Tây Tạng của cô, chạy giữa chân hai người sủa dữ dội với người lạ.

“Chào đón anh đến với cuộc đời em.” Tara nói, lùi lại nhìn vào mặt Mortenson.

“Chào đón em đến với trái tim anh.” anh nói và ôm cô trong vòng tay.

Sáng hôm sau, thứ năm, họ lái xe trở lại cầu Bay, đến sân bay quốc tế San Francisco. Mortenson đã đăng kí chuyến bay của Bristish Airways đến Pakistan, khởi hành vào chủ nhật. Nhưng họ đã cùng kể lại câu chuyện của mình cho một nhân viên ở quầy vé, thuyết phục người này cho đăng kí lại chuyến bay vào chủ nhật kế tiếp và không phải đóng thêm tiền.

Tara lúc đó là sinh viên cao học, đang hoàn thành luận văn tiến sĩ tại trường Tâm lí California, trước khi theo đuổi nghề nghiệp mà cô dự định là nhà tâm lí lâm sàng. Với những lớp học đã hoàn tất, cô hoàn toàn tự do về giờ giấc. Và Mortenson không còn có thể đổi chuyến bay được nữa, do đó họ đã trải qua mọi giây phút của từng ngày bên nhau, chếnh choáng trong vận may của mình. Trong chiếc Volvo cũ của Tara, họ lái xe ba giờ về phía nam đến Santa Cruz và ở lại cùng những người thân của Mortenson bên bãi biển. “Greg thật thú vị.” ara nói. “Anh ấy thoải mái chia sẻ cuộc đời và gia đình của mình cùng tôi. Trước đây tôi đã có một vài mối quan hệ khá tồi tệ và tôi biết rằng ‘Ồ, đây là những gì sẽ xảy ra khi được chung sống với một nửa của đời mình.’”

Vào chủ nhật, chuyến bay ban đầu của Mortenson cất cánh đi Pakistan mà không có anh; họ đang lái xe trở về Bay Area, qua những ngọn đồi nâu vàng có những lùm cây sồi đan xen nhau trên đỉnh đồi. “Vậy khi nào chúng ta thành hôn?” Tara Bishop hỏi và quay lại nhìn người hành khách bên cạnh mình, người đàn ông mà cô chỉ vừa gặp bốn ngày trước đó.

“Thứ ba thế nào?” Mortenson nói.

Vào thứ ba, ngày 19 tháng 9, Greg Mortenson mặc quần kaki, áo sơmi lụa và chiếc áo khoác thêu Tây Tạng, bước đi tay trong tay lên những bậc thang của Tòa Thị chính Thành phố Oakland cùng vị hôn thê của mình, Tara Bishop. Cô dâu mặc áo len ngắn tay và chiếc váy hoa ngắn. Và chiều theo ý người đàn ông sắp trở thành chồng mình, cô để đôi giày khiêu vũ ở nhà và mang đôi sandal gót thấp đến lễ cưới của mình.

“Chúng tôi chỉ nghĩ là sẽ kí một số giấy tờ, lấy giấy đăng kí và có một buổi tiệc nhỏ với gia đình chúng tôi khi Greg trở về từPakistan.” Tara nói. Nhưng Tòa Thị chính Thành phố Oakland cung cấp đầy đủ dịch vụ hôn lễ. Với giá 83 đôla, đôi vợ chồng được một vị thẩm phán thành phố hộ tống đến phòng hội nghị và được hướng dẫn để đứng tựa vào bức tường, dưới một cổng vòm hoa nhựa trắng đã được ghim vào một bảng thông báo. Một phụ nữ trung niên gốc Tây Ban Nha tên là Margarita, làm việc trong nhóm thư kí của thẩm phán, tình nguyện làm nhân chứng và đã khóc trong suốt nghi lễ.

Sáu ngày sau khi thì thầm với nhau trong phòng khiêu vũ tối ở khách sạn Fairmont, Greg Mortenson và Tara Bishop đã đọc lời thề nguyện thành hôn. “Khi vị thẩm phán nói đến đoạn khi giàu hơn hay nghèo hơn, Greg và tôi cùng cười lớn.” Tara nói. “Sau đó tôi được thấy chỗ anh ấy sống ở nhà Witold và cách anh rút tấm nệm khỏi chiếc ghế dài hằng đêm để có một chỗ êm ái mà đặt chiếc túi ngủ của mình lên như thế nào. Tôi nhớ mình đã suy nghĩ về hai thứ cùng một lúc: Tôi lấy một người đàn ông không có giường. Và Chúa ơi, tôi yêu anh ấy.”

Đôi vợ chồng mới cưới điện thoại thông báo cho bạn bè và mời họ đến ăn mừng ở một nhà hàng Ý tại San Francisco. Một trong số những người bạn của Mortenson, James Bullock, là người điều khiển xe điện cáp. Anh ta nài ép họ gặp mình ở bờ biển San Francisco, ngay chỗ quay vòng của xe điện cáp Embarcadero. Vào giờ cao điểm, Bullock đã đưa họ vào chiếc xe điện cáp màu vàng và đỏ thẫm chật cứng người, rồi rung chuông báo hiệu đám cưới của họ với các hành khách. Khi xe điện kêu leng keng đi qua khu tài chính, người dân San Francisco dồn dập tặng xì gà, tiền và những lời chúc mừng.

Sau trạm dừng cuối, Bullock khóa cửa và đưa đôi vợ chồng son đi một chuyến tham quan vùng San Francisco; anh ta rung chuông trong suốt đường đi. Chiếc xe đi lên cao một cách kì diệu trên đường cáp không nhìn thấy, và lên đến đỉnh đồi Nob, vượt qua khách sạn Fairmont, đến những đường phố sang trọng và nhộn nhịp, nơi mà những quang cảnh quyến rũ nhất của San Francisco mờ xa về phía bắc. Tay trong tay với vợ mình, Greg Mortenson ngắm nhìn mặt trời lặn đang hôn Thái Bình Dương bên dưới cầu Cổng Vàng, và quét lên đảo Angel một màu hồng mà từ đó về sau anh mãi mãi xem là sắc màu đích thực của hạnh phúc. Có cảm giác mỏi bất thường ở gò má, và Mortenson nhận ra mình đã cười không ngừng trong sáu ngày.

“Mọi người luôn bị sốc khi nghe kể về việc tôi và Tara đã kết hôn như thế nào.” Mortenson nói. “Nhưng cưới cô ấy sau sáu ngày đối với tôi không có gì lạ. Đó cũng là cách mà cha mẹ tôi đã làm và cũng đã có kết quả đối với họ. Điều làm tôi ngạc nhiên là tôi đã gặp Tara. Tôi đã tìm được một người có ý nghĩa với mình trong thế giới này.”

Chủ nhật tiếp theo, Mortenson sắp xếp hành lí, nhét chiếc túi nhỏ chứa những tờ 100 đôla vào túi áo khoác và lái xe đến sân bay. Sau khi đỗ xe ở lối vào ga khởi hành, anh đã không thể rời khỏi xe. Anh quay về phía vợ, cô đang cười toe với cùng một ý nghĩ. “Anh sẽ đề nghị.” Mortenson nói. “Nhưng không biết họ có để cho mình làm điều đó một lần nữa hay không.”

Mortenson đã trì hoãn chuyến bay hai lần nữa, mỗi lần anh đều mang theo hành lí đến sân bay để đề phòng trường hợp họ không cho phép anh làm thế nữa. Nhưng anh không cần phải lo lắng. Câu chuyện của Greg và Tara đã trở thành chuyện tình lãng mạn ở quầy vé Bristish Airways, và nhân viên quầy vé đã liên tiếp điều chỉnh các quy định để Mortenson có thêm thời gian tìm hiểu cô vợ mới của mình. “Hai tuần đó thật đặc biệt, một khoảng thời gian bí mật.” Mortenson nói. “Không ai biết tôi vẫn còn ở thành phố và chúng tôi chỉ tự phong tỏa mình trong căn hộ của Tara, cố bù lại những năm tháng mà chúng tôi chưa biết nhau.”

“Sau cùng, tôi xuất hiện và gọi điện cho mẹ tôi.” Tara nói. “Bà đang ở Nepal và sắp khởi hành cho một chuyến leo núi.”

“Sau khi Tara gọi được cho tôi ở Katmandu, nó nói tôi ngồi xuống. Bạn sẽ không quên được một cuộc gọi như vậy.” Lila Bishop nói. “Con gái tôi cứ lặp đi lặp lại từ ‘tuyệt vời’, nhưng tất cả những gì tôi có thể nghe là ‘sáu ngày’.”

“Tôi nói với bà, ‘Mẹ, con vừa kết hôn với một người đàn ông tuyệt vời’. Mẹ tôi dường như bị sốc. Và tôi có thể nói rằng bà hoài nghi, nhưng bà đã gượng lại và cố gắng hết sức để tỏ ra vui với tôi. Bà nói, ừ, con đã ba mươi mốt và đã hôn thật nhiều các chú cóc. Nếu con nghĩ đây là hoàng tử của mình, thì mẹ tin đúng là như vậy.”

Lần thứ tư chiếc Volvo xám đậu trước British Airways, Mortenson hôn từ biệt người phụ nữ mà anh cảm thấy như đã quen biết suốt cả cuộc đời và kéo lê chiếc túi xách vào quầy vé. Lần này anh đã thực sự muốn đi chưa?” Cô nhân viên quầy vé trêu chọc. “Anh có chắc rằng mình đang làm đúng không đấy?”

“Ồ, tôi đang làm đúng.” Mortenson trả lời, và quay lại vẫy tay lần cuối qua cửa kính với người vợ đang vẫy tay. “Tôi chưa bao giờ có được sự chắc chắn như vậy về bất cứ điều gì.”