← Quay lại trang sách

Chương 13 “Một nụ cười phải hơn một kí ức”

Người Waziri là bộ tộc lớn nhất ở vùng biên giới, nhưng còn rất kém văn minh. Họ là một chủng tộc của những kẻ trộm cắp và giết người, và cái tên Waziri bị nguyền rủa ngay cả bởi những bộ tộc Mahommedan láng giềng. Họ đã được mô tả như là những người tự do và tàn bạo, nóng nảy và nhẹ dạ, tự trọng nhưng kiêu ngạo. Người Mohammedan ở khu vực có cuộc sống ổn định xem họ như những người man rợ.

- Trích từ cuốn Bách khoa Toàn thư Anh, ấn bản năm 1911

Từ căn phòng trong khách sạn hai tầng ở haveli(16) đổ nát, Mortenson nhìn theo bước đi của một cậu bé cụt chân, tự kéo lê mình qua khu chợ Khyber hỗn loạn trên miếng gỗ trượt. Trông nó không quá mười tuổi, và mô sẹo trên cẳng chân còn lại khiến Mortenson tin rằng nó là nạn nhân của mìn. Cậu bé thực hiện hành trình khó nhọc của mình vượt qua những khách hàng ở một chiếc xe kéo, nơi một người đàn ông lớn tuổi đội khăn xếp đang khuấy chảo trà bạch đậu khấu, đầu ông ta ngang tầm với ống xả khói của những chiếc taxi đi qua. Ở tầm nhìn bên trên cậu bé, Mortenson thấy một người tài xế leo vào chiếc Datsun thùng hở chất đầy tay chân giả và khởi động động cơ.

16. Khu nhà khép kín ở Ấn Độ và Pakistan

Mortenson đang suy nghĩ việc cậu bé cần một trong những đôi chân giả đang chất đống như củi trên chiếc xe thùng kia như thế nào, và khả năng mà nó nhận được ít ra sao, vì dường như chúng đã được tuồn ra từ một cơ sở từ thiện bởi một Changazi địa phương nào đó, thì anh nhận thấy chiếc xe lùi lại về phía thằng bé. Mortenson không biết nói tiếng Pashto, thứ ngôn ngữ địa phương phổ biến nhất. “Cẩn thận!” anh la lên bằng tiếng Urdu, hi vọng cậu bé sẽ hiểu. Nhưng anh không cần lo lắng. Với ý thức tự sinh tồn phát triển cao để sống còn trên những đường phố Peshawar, cậu bé cảm nhận được nguy hiểm và lủi nhanh như cua lên lề đường.

Peshawar là thủ phủ của miền tây hoang dã Pakistan. Và với ngôi trường Korphe đã hoàn tất, Mortenson đã đến thị trấn biên giới này, rong ruổi trên con đường Grand Trunk cổ xưa trong vai trò mới của mình - Giám đốc Viện Trung Á. Ít nhất đó cũng là điều anh tự nói với mình.

Peshawar là cửa ngõ đi vào đèo Khyber. Qua tuyến đường vận chuyển này giữa Pakistan và Afghanistan, nhiều đạo quân trong lịch sử đã đi qua. Những học viên của các madrassas, hoặc trường thần học Hồi giáo ở Peshawar, đã đổi sách của họ lấy những khẩu tiểu liên Kalashnikov cùng những dây đạn và hành quân về phía đèo để gia nhập vào một phong trào đang đe dọa quét các nhà cai trị bị xem thường của Afghanistan ra khỏi quyền lực.

Tháng 8 năm 1996, đạo quân chủ yếu là thanh niên này, tự gọi mình là Taliban, hay “sinh viên Hồi giáo”, đã phát động cuộc tấn công bất ngờ và tràn qua Jalalabad, thành phố lớn của Afghanistan bên đèo Khyber. Những đạo quân phòng vệ biên giới đã đứng sang một bên trong khi hàng nghìn chàng trai râu ria, đầu đội khăn xếp và viền mắt bằng surma sẫm màu đổ tràn ra đèo trên hàng trăm chiếc xe mui trần thùng đôi, mang theo súng Kalashnikov và kinh Koran.

Những người tị nạn kiệt sức, chạy trốn trận chiến, tràn sang phía đông với số lượng tương đương, và gây căng thẳng cho sức chứa của các trại tị nạn bùn lầy ở biên giới Peshawar. Mortenson đã dự định rời khỏi đây từ hai ngày trước, trong một chuyến đi khảo sát các địa điểm khả dĩ cho những ngôi trường mới, nhưng không khí căng thẳng đã giữ anh ở lại Peshawar. Các quán trà rì rầm chuyện kể về những chiến thắng như sấm sét của Taliban. Và tin đồn lan đi nhanh hơn những viên đạn từ những người đàn ông mang vũ khí tự động ngẫu hứng bắn lên trời bất cứ lúc nào để ăn mừng: Những tiểu đoàn Taliban đang tập trung ở ngoại ô thủ đô Kabul, hay đã tràn vào. Tổng thống Najibullah, lãnh đạo chế độ tham nhũng hậu Xô Viết của Afghanistan, đã chạy sang Pháp hay đã bị hành hình ở một sân bóng đá.

Trong trận bão, đứa con trai thứ mười bảy của một gia đình Ả Rập Saudi giàu có đã bay trên chiếc máy bay phản lực riêng, thuê của hãng hàng không Arinana. Khi hắn hạ cánh ở một sân bay bỏ hoang ở ngoại ô Jalalabad, với những chiếc hòm nhét đầy tiền giấy một trăm đôla không bị đánh dấu và một đoàn tùy tùng những chiến binh, cũng như hắn, đã dày dạn kinh nghiệm từ những chiến dịch ở Afghanistan chiến đấu chống lại người Xô Viết, Osama Bin Laden được đưa tin là một người thô lỗ. Sức ép từ Mỹ và Ai Cập đã dẫn đến việc trục xuất hắn khỏi một khu nhà liên hợp tiện nghi ở Sudan. Tiếp theo là việc tước quốc tịch Ả Rập Saudi của hắn, hắn đã chọn Afghanistan: Sự hỗn loạn ở đây hoàn toàn phù hợp với hắn. Nhưng việc thiếu những tiện nghi sinh hoạt thì không. Sau khi than phiền với những chủ nhân Taliban về tiêu chuẩn của những nơi trú đóng mà họ đã tìm cho hắn, hắn nhắm đến việc tập trung sự giận dữ vào những người mà hắn cho là chịu trách nhiệm cho sự lưu vong của mình - người Mỹ.

Trong tuần lễ mà Mortenson lưu lại gần Peshawar, Bin Laden công bố lời kêu gọi đầu tiên về đấu tranh vũ trang chống lại người Mỹ. Trong “Tuyên bố thánh chiến chống lại sự chiếm đóng của người Mỹ trên lãnh thổ của hai Thánh địa” tức Ả Rập Saudi, nơi năm nghìn quân Mỹ đóng căn cứ, hắn hô hào những môn đồ của mình tấn công người Mỹ ở bất cứ nơi đâu tìm thấy họ, “và gây ra cho chúng thiệt hại nhiều nhất có thể được.”

Như hầu hết người Mỹ, Mortenson chưa hề nghe nói tới Bin Laden. Anh cảm thấy mình có một chỗ ngồi trong đấu trường của lịch sử và miễn cưỡng để rời khỏi thị trấn. Cũng có vấn đề về việc tìm một người hộ vệ thích hợp. Trước khi rời khỏi Korphe, Mortenson đã thảo luận các kế hoạch của mình với Haji Ali. “Hãy hứa với tôi một chuyện,” vị nurmadhar già nói. “Đừng đi đến bất cứ nơi nào một mình, hãy tìm một vị chủ nhà mà anh tin cậy, tốt nhất là một ông trưởng làng, và chờ cho đến khi ông ta mời anh đến nhà để uống trà. Chỉ có theo cách đó, anh mới được an toàn.”

Việc tìm ra một ai đó đáng tin cậy ở Peshawar tỏ ra khó khăn hơn Mortenson nghĩ. Là một trục của nền kinh tế chợ đen Pakistan, thành phố này đầy những nhân vật ghê gớm. Thuốc phiện, vũ khí và những tấm thảm là huyết mạch của thành phố, và những người đàn ông mà anh gặp kể từ khi đến đây dường như cũng đê tiện và tai tiếng như cái khách sạn rẻ tiền anh đang ở. Haveli đổ nát nơi anh đã ngủ trong năm đêm vừa qua là nhà của một thương gia giàu có trước đây. Phòng của Mortenson đã được sử dụng như một trạm quan sát cho phụ nữ trong gia đình. Vì phòng này mở ra đường phố qua một lưới mắt cáo bằng sa thạch chạm trổ nên phụ nữ có thể thấy hoạt động của khu phố bên dưới mà không cần xuất hiện trước công chúng và vi phạm purdah(17).

17. Việc tách biệt phụ nữ khỏi ánh mắt của đàn ông hoặc người lạ, được áp dụng ở các nước Hồi giáo và các nước theo đạo Hindu

Mortenson đánh giá cao lợi thế của mình sau bức bình phong. Sáng hôm đó, người bảo vệ khách sạn đã cảnh báo với anh rằng tốt nhất người nước ngoài không nên để cho người ta thấy. Hôm nay là ngày Juma, hay thứ sáu, ngày mà các giáo sĩ thốt ra những lời thề nảy lửa nhất tại các giáo đường chật cứng những thanh niên khích động. Sự hăng say của ngày Juma kết hợp với những tin tức như các vụ nổ từ Afghanistan có thể là một hỗn hợp làm bốc hơi bất cứ người nước ngoài nào kẹt trong làn đạn.

Từ trong phòng mình, Mortenson nghe một tiếng gõ cửa và anh ra mở cửa. Badam Gul lướt qua mặt anh với điếu thuốc lá đong đưa trên môi, một cái gói kẹp dưới cánh tay, và một ấm trà trên cái khay. Mortenson đã gặp người đàn ông này, một người bạn của ông chủ khách sạn, vào đêm hôm trước, khi nghe radio trong tiền sảnh; cả hai cùng nghe một bản tin của BBC về những cuộc nổi dậy của Taliban đang làm rung chuyển Kabul.

Gul nói anh ta là một người Waziristan và có một nghề sinh lợi khác là thu thập những con bướm hiếm khắp Trung Á và cung cấp cho các bảo tàng châu Âu. Mortenson đoán rằng những con bướm không phải là tất cả những gì mà anh ta vận chuyển qua lại những tuyến đường biên giới khu vực, nhưng anh không cố hỏi chi tiết. Khi biết Mortenson muốn viếng thăm khu vực bộ lạc của mình ở phía nam Peshawar, Gul tình nguyện hướng dẫn anh đến Ladha, làng quê của mình. Haji Ali sẽ không ưng thuận nhưng Tara sắp đến ngày sinh trong vòng một tháng nữa, anh chàng Gul mày râu nhẵn nhụi có vẻ bề ngoài đáng kính, và Mortenson không có thời gian để kén chọn.

Gul rót trà trước khi mở cái gói mà anh ta quấn trong mấy tờ báo đầy hình ảnh những chàng trai râu ria trong tư thế trên đường ra trận. Mortenson lấy ra một bộ shalwar kamiz rộng, màu trắng, không có cổ và được trang trí bằng những hình thêu óng ánh đẹp mắt nơi ngực, cùng một chiếc áo khoác xám xịt.

“Giống như y phục của một người đàn ông Wazir.” Gul nói, đốt điếu thuốc thứ hai bằng mẩu thuốc của điếu thứ nhất. “Tôi chọn bộ lớn nhất trong cả khu chợ, ông có thể trả tiền cho tôi ngay bây giờ chứ?”

Gul đếm những đồng rupi một cách cẩn thận trước khi nhét vào túi. Họ nhất trí rời thành phố lúc mờ sáng. Mortenson đã đăng kí một cuộc điện thoại ba phút với người trực tổng đài khách sạn và báo với Tara rằng anh sắp đi đến một nơi không có điện thoại trong vài ngày. Anh hứa sẽ trở về đúng thời điểm đón mừng đứa con của họ chào đời.

Chiếc Toyota mui kín màu xám đang đợi khi Mortenson thận trọng bước xuống cầu thang để ra xe lúc rạng sáng, lo sợ làm tét các đường khâu trên bộ áo của mình. Phần trên của chiếc áoshalwar căng chật trên đôi vai anh, và chiếc quần chỉ dài đến giữa bắp chân. Gul cười trấn an, nói rằng anh ta đột xuất bị gọi về Afghanistan vì công việc kinh doanh. Tuy nhiên tin tốt lành là người tài xế, ông Khan, quê ở một làng nhỏ gần Ladha đã đồng ý đưa anh đến đó. Mortenson thoáng nghĩ đến việc thoái lui, nhưng rồi lại rón rén lên xe.

Lăn bánh về phía nam lúc mặt trời mọc, Mortenson kéo tấm rèm ren trắng che kín phía sau tránh những đôi mắt tọc mạch. Những thành lũy vòng cung của pháo đài Bala Hisar, hiện ra mờ mờ trên thành phố đang lùi xa dần, rực rỡ trong ánh sáng đang cháy lên như ngọn núi lửa ngủ yên lâu ngày đang thức giấc.

Cách thành phố một trăm kilômét về phía nam, họ đi vào Waziristan, tỉnh biên giới phía bắc Pakistan, một nơi bất trị, nơi mà lãnh thổ của các bộ tộc hung dữ đã hình thành một vùng đệm giữa Pakistan và Afghanistan. Wazir là một dân tộc riêng, và vì vậy, họ thu hút sự chú ý của Mortenson. “Tôi cho rằng, một phần trong sự thu hút tôi đến với Balti, rõ ràng vì họ là những người bị thua thiệt.” Mortenson nói. “Những nguồn tài nguyên và những tài năng của họ bị chính quyền Pakistan cướp bóc, chỉ đáp trả lại cho họ rất ít và thậm chí còn không cho họ quyền được bầu cử.”

Wazir cũng là những người chịu thua thiệt, Mortenson nghĩ. Kể từ khi được Jean Hoerni chỉ định làm giám đốc của tổ chức mới, Mortenson đã nguyện trở thành một chuyên gia giống như cái danh hiệu xa lạ đối với anh - giám đốc Viện Trung Á. Qua mùa đông, giữa những chuyến đi đến miền trung hoang dã cùng Tara, và những ngày dán giấy tường, sửa sang phòng ngủ trên gác là nơi đứa con của họ sẽ chào đời, anh đã đọc mọi quyển sách mà mình có thể tìm được về Trung Á. Anh sắp tận mắt nhìn thấy vùng đất này - những nhóm bộ tộc nắm quyền lực, được phân chia thành những nhà nước do người châu Âu tùy tiện đặt ra, nhưng nhà nước không quan tâm gì nhiều đến sự liên minh giữa bộ tộc nguyên thủy với quyền lợi của nhân dân họ.

Không có bộ lạc nào thu hút sự tưởng tượng của anh như Wazir. Không trung thành với Pakistan lẫn Afghanistan, họ là người Pashtun, và liên minh với bộ lạc lớn hơn bất cứ bộ tộc nào khác. Từ thời Alexander, người nước ngoài đã gặp sự kháng cự kiên cường mỗi khi phái quân đội vào vùng này. Với mỗi thất bại của một lực lượng lớn hơn, được trang bị tốt hơn đã đến Waziristan, sự mất quyền công dân của họ dần tăng. Sau khi mất hàng trăm người vì một lực lượng du kích nhỏ, Alexander đã hạ lệnh cho quân lính từ nay về sau đi men theo những vùng đất “quỷ dữ của sa mạc” này. Người Anh cũng không thu được kết quả tốt hơn, đã thua trong hai cuộc chiến với Wazir và bộ tộc Pashtun lớn hơn.

Năm 1893, những lực lượng Anh vấy máu rút khỏi Waziristan đến giới tuyến Durand, đường biên giới mà họ tạo ra giữa Ấn-Anh và Afghanistan. Giới tuyến Durand được vẽ ra qua trung tâm của bộ lạc Pashtun, một nỗ lực để chia nhỏ và chinh phục của người Anh. Nhưng không một ai chinh phục được Wazir. Mặc dù trên danh nghĩa, Waziristan là một phần của Pakistan kể từ năm 1947, nhưng ảnh hưởng nhỏ bé mà Islamabad từng có ở Wazir là vật phẩm phân bổ cho các lãnh tụ bộ tộc và các đơn vị đóng quân ít nắm quyền kiểm soát bất cứ thứ gì nằm ngoài tầm bắn từ những lỗ châu mai của họ.

Mortenson ngưỡng mộ những người dân này, họ đã kháng cự kiên cường chống lại những cường quốc lớn của thế giới. Anh cũng đọc những bài viết tiêu cực nhiều như vậy về Balti trước khi leo núi K2 và tự hỏi liệu Wazir có bị hiểu lầm giống như vậy hay không.

Chiếc Toyota đi qua sáu trạm kiểm soát trước khi vào Waziristan. Mortenson thấy chắc chắn mình sẽ bị chặn và phải quay trở lại. Ở mỗi trạm, lính canh kéo rèm xe sang bên và quan sát kĩ người nước ngoài to con, nhễ nhại mồ hôi trong bộ cánh không vừa vặn một cách lố bịch. Và cứ mỗi lần như thế, Khan lại lục trong túi chiếc áo khoác da phi công đang mặc bất chấp cái nóng và đếm đủ số rupi để cho xe tiếp tục đi về phía nam.

Ấn tượng đầu tiên của Mortenson về Waziristan là sự ngưỡng mộ những người đã thu xếp để sống còn trong một môi trường như vậy. Họ lái xe vào con đường đá sỏi, qua một thung lũng bằng phẳng, không cây cỏ được trải bằng đá cuội đen. Những viên đá thu ánh nắng sa mạc và rung rinh cùng nắng, tạo cho phong cảnh cái cảm giác của một giấc mơ đầy xao xuyến.

Một nửa những ngọn núi màu nâu trông như không có sự sống, cách họ mười dặm về phía tây, trên giấy tờ thuộc về Pakistan, nửa còn lại là của Afghanistan. Người Anh hẳn có óc hài hước khi vẽ ra một đường biên giới đi qua vùng đất hoang vu không thể phòng thủ được, Mortenson nghĩ. Năm năm sau, các đội quân của Mỹ sẽ học được sự vô ích của việc săn đuổi quân du kích quen thuộc với những quả đồi này. Hang động nhiều không kém gì những ngọn núi, dân buôn lậu nối nhau trên những con đèo này. Mê cung Tora Bora, nằm ngay bên kia biên giới, sẽ cản trở sự tiến công của lực lượng đặc nhiệm Mỹ, dùng để ngăn chặn Osama Bin Laden và lực lượng Al Qaeda lẻn vào Waziristan.

Qua lớp vỏ bọc đá cuội đen, Mortenson cảm thấy mình đang đi vào một xã hội trung cổ của những nhà nước đô thị có chiến tranh với nhau. Những pháo đài Anh trước đây, nay do các binh sĩ Pakistan đồn trú, phục vụ nhiệm vụ gay go theo thời hạn luân phiên một năm, được đóng cửa cài then kín. Những khu nhà của bộ tộc Wazir dựng trên cao nguyên đá ở cả hai bên đường. Tất cả đều không thể nhìn thấy, được bao quanh bởi những bức tường thành bằng đất nện cao sáu mét, và bên trên là những pháo đài súng. Mortenson lầm tưởng những khuôn mặt đơn độc bên trên những pháo đài là người bù nhìn, cho đến khi họ đi qua đủ gần để thấy một người có súng dõi theo đường đi của họ dọc đáy thung lũng qua tầm ngắm của hắn.

Người Wazir áp dụng purdah, không chỉ đối với phụ nữ mà với cả người ngoài. Ít nhất là kể từ năm 600, Wazir đã chống lại ảnh hưởng của thế giới bên ngoài các tường thành của họ, thay vào đó họ ưa thích giữ cho toàn bộ Waziristan tinh khiết và được che mạng như những phụ nữ ở đó.

Họ đi qua những xưởng làm súng thấp lè tè, nơi các nghệ nhân Waziristan thực hiện những bản sao khéo léo nhiều loại vũ khí tự động của thế giới, và dừng lại ăn trưa ở Bannu, khu định cư lớn nhất Waziristan, ở đó họ phải luồn lách qua luồng giao thông dày đặc những chiếc xe lừa và xe mui trần thùng đôi. Ở một tiệm trà, Mortenson duỗi người hết cỡ trong bộ áo shalwar, và thử bắt chuyện với những người đàn ông, người lớn tuổi mà Haji Ali đã khuyên anh tìm, trong khi người tài xế đi tìm một cửa hàng có bán thứ thuốc lá của mình. Tiếng Urdu của Mortenson gây ra những ánh nhìn chăm chú không biểu lộ cảm xúc, và anh tự hứa khi trở về Bozeman sẽ dành một phần thời gian để nghiên cứu tiếng Pashto.

Bên kia con đường bụi bặm, sau những bức tường cao, là Madrassa-I-Arabia do Saudi xây dựng, nơi mà hai năm sau, John Walker Lindh, người “Taliban Mỹ” sẽ đến học một nhánh chính thống của đạo Hồi gọi là “Wahhabism”. Người ta tường thuật rằng Lindh, tươi mát từ vùng khí hậu khô lạnh của quận Marin, sẽ khô héo trong ánh nắng Waziristan và sẽ vượt qua những con đèo vào Afghanistan, để tiếp tục việc học của mình ở một madrassa trong vùng núi với khí hậu ôn hòa hơn, một madrassa được tài trợ bởi một người Saudi khác: Osama Bin Laden.

Suốt cả buổi chiều, họ lái xe đi sâu hơn vào Waziristan, trong khi Mortenson thực hành một vài câu chào lịch sự bằng tiếng Pashto mà người tài xế dạy cho anh. “Đó là vùng khắc nghiệt nhất mà bạn có thể tưởng tượng ra, nhưng cũng đẹp một cách tĩnh lặng.” Mortenson nói. “Chúng tôi thực sự đến khu trung tâm của những khu vực bộ tộc và tôi thấy phấn khởi vì đã đi được khá xa.” Ngay ở phía nam Ladha, khi mặt trời lặn xuống Afghanistan, họ đến Kot Langarkhel, quê tổ của Khan. Ngôi làng chỉ là hai cửa hiệu tạp hóa kề một nhà thờ Hồi giáo bằng sa thạch và có cảm giác xấu về việc xem đây như là nơi cuối cùng của cả thế giới. Một con dê đốm bụi bặm đi thong thả giữa đường, bốn chân nó xiên xẹo bẹt ra như bị xe cán. Khan lớn tiếng chào những người đàn ông ở trong nhà kho sau hai cửa hàng lớn hơn trong hai cửa hàng, và họ nói chuyện với nhau. Người tài xế cho xe vào trong nhà, nơi nó được an toàn qua đêm.

Cảnh bên trong nhà kho làm Mortenson ngay lập tức thấy ghê người. Sáu người đàn ông Wazir với những dây đạn quấn quanh ngực ngồi xổm trên những thùng hàng hút thuốc hasit từ một tẩu thuốc nhiều vòi. Xếp chồng dựa tường, Mortenson thấy súng bazooka, súng phóng lựu và những thùng AK-47 mới còn nguyên dầu mỡ. Anh trông thấy mấy chiếc ăngten roi của những máy vô tuyến quân sự dã chiến nhô lên sau những hộp phấn có mùi trái cây của Gatorade và Oil of Olay, và nhận ra rằng mình đã lọt vào trong pháo đài của một nhóm buôn lậu lớn, có tổ chức.

Người Wazir, cũng như Pashtun, sống theo luật Pashtunwali. Badal, báo thù những mối thù đẫm máu và bảo vệ zan, zar vàZameen, có nghĩa là gia đình, kho báu và đất đai, là những trụ cột của Pashtunwali.

Cũng như nenawatay, lòng hiếu khách và nơi trú ẩn an toàn cho những vị khách đến tìm sự giúp đỡ. Vấn đề là đến như một người khách chứ không phải như một kẻ xâm lược. Mortenson leo ra khỏi xe trong bộ trang phục quái đản của mình và bắt đầu cố gắng để trở thành một vị khách, vì sẽ quá nguy hiểm để tìm kiếm một chỗ khác để ở lại sau khi trời tối.

“Tôi đã sử dụng mọi điều học được ở Baltistan và chào từng người một cách kính trọng nhất mà tôi được biết.” Mortenson nói. “Với một ít tiếng Pashto mà Khan dạy cho tôi trong chuyến đi, tôi hỏi thăm gia đình và sức khỏe của họ.” Nhiều đàn ông Wazir đã chiến đấu cùng với các lực lượng đặc nhiệm Mỹ trong cuộc thập tự chinh để đánh đuổi người Xô Viết ra khỏi đất Pashtun ở Afghanistan. Năm năm trước khi những chiếc B52 bắt đầu ném bom rải thảm những ngọn đồi này, họ vẫn chào đón nồng nhiệt một số người Mỹ.

Người có vẻ bẩn thỉu nhất trong đám buôn lậu, bốc mùi cứ như là dầu hasit túa ra từ các lỗ chân lông, mời Mortenson thử hookah, anh từ chối một cách lịch sự nhất. “Lẽ ra tôi phải hút để kết bạn, nhưng tôi không muốn bị hoang tưởng thêm chút nào nữa.” Mortenson nói.

Khan và người lớn tuổi nhất trong nhóm, một người đàn ông cao đeo kính phi công màu hồng và có bộ ria đen dày nằm cao như một con dơi đậu ở môi trên, nóng nảy nói bằng tiếng Pashto về điều cần làm với người ngoài trong đêm nay. Sau khi họ nói xong, người tài xế hút một hơi dài từ cái tẩu và quay sang Mortenson. “Haji Mirza hân hạnh mời ông đến nhà ông ta.” anh ta nói, khói thuốc tỏa ra qua răng. Sự căng thẳng bó chặt đôi vai Mortenson trong chiếc áo shalwar chật tan biến đi. Lúc này anh đã ổn. Anh là một vị khách.

Họ leo lên đồi nửa giờ trong bóng tối, qua những cây sung quả chín tỏa mùi dịu ngọt như khói hasit bốc ra từ áo quần của người Wazir. Nhóm người đi trong im lặng, trừ tiếng lách cách nhịp nhàng của những khẩu súng chạm vào dây đạn. Một vệt đỏ như máu dọc theo chân trời là ánh sáng cuối cùng đang mờ đi ở phíaAfghanistan. Tại khu nhà trên đỉnh đồi, Haji Mirza gọi lớn và những cánh cửa gỗ đồ sộ đặt trong bức tường đất sáu mét được mở chết bên trong từ từ mở ra. Một tay lính canh mắt to xem xét kĩ Mortenson trong ánh sáng của cây đèn dầu và có vẻ như hắn thích xả hết đạn trong khẩu AK-47 của mình vào người khách nước ngoài, chỉ để cho an toàn. Sau một tiếng làu bàu khó nghe từ Haji Mirza, hắn bước sang một bên và để cho cả đoàn người đi qua.

“Chỉ một ngày đi xe từ thế giới hiện đại, tôi thật sự cảm thấy như mình đã đến thời Trung cổ.” Mortenson nói. “Không vượt qua hào, nhưng tôi có cảm giác giống như vậy khi bước vào bên trong.” Những bức tường đồ sộ và những gian phòng như trong hang động được chiếu sáng lờ mờ bởi những ngọn đèn lung linh. Một tháp súng nhô cao mười lăm mét trong sân để cho những tay bắn tỉa có thể bắn hạ bất cứ ai đến gần mà không được mời.

Mortenson và người tài xế được dẫn vào một phòng chất đầy thảm ở giữa khu nhà. Vào giờ shin chai truyền thống, trà xanh ướp hương bạch đậu khấu được đưa tới, người tài xế đã sụp xuống tấm đệm, quăng chiếc áo khoác lên đầu và khiến cho mọi sợi dây thần kinh của Mortenson sôi sục bằng cách bắt đầu một giọng gáy đầy đờm dãi. Haji Mirza rời phòng kiểm tra việc chuẩn bị bữa ăn, và Mortenson nhấp trà của mình trong sự yên lặng khó chịu suốt hai giờ, cùng bốn người hầu cận của Mirza cho đến khi bữa ăn được dọn ra.

Mahnam do die, Mirza thông báo bắt đầu “ăn tối”. Mùi thơm ngon của thịt cừu kéo Khan ra khỏi chiếc áo khoác. Dù bề ngoài đã tỏ ra là người thành thị nhưng khi nhìn thấy món thịt cừu nướng, Khan vẫn rút con dao găm, cùng với hàng chục người Wazir khác nhập tiệc. Người hầu của Haji Mirza đặt một Kabuli pilau bốc khói, gạo nấu với cà rốt, đinh hương và nho khô, trên sàn kế bên thịt cừu, nhưng những người đàn ông chỉ nhìn vào con vật. Họ tấn công nó bằng những con dao găm dài, lóc từng miếng thịt mềm ra khỏi xương và tọng vào miệng bằng lưỡi dao của họ. “Tôi đã nghĩ người Balti ăn thịt với sự khoái trá.” Mortenson nói. “Nhưng đây là bữa ăn nguyên sơ, man rợ nhất mà tôi từng tham dự. Sau mười phút cắn xé và càu nhàu, con cừu chỉ còn trơ những khúc xương, còn đám đàn ông thì ợ lên và chùi mỡ khỏi bộ râu của họ.”

Những người Wazir tựa người vào gối nằm rên rỉ và đốt những tẩu thuốc hash, thuốc lá. Mortenson nhận điếu thuốc thơm mùi thịt cừu từ tay của một trong những người Wazir và hút cho đến hết, như cách một vị khách danh dự cần làm. Đến nửa đêm, mí mắt của Mortenson nặng như chì, và một trong những người đàn ông đã trải một tấm thảm cho anh ngủ. Anh nghĩ mình không ngủ quá say, vì hoạt cảnh những người đàn ông đội khăn xếp đi vào và đi ra lờ mờ. Anh đã tiếp xúc với ít nhất là một bô lão trong bộ tộc, dù đã bị đờ đẫn vì thuốc hash, và ngày mai anh sẽ thúc giục ông ta giới thiệu thêm với nhiều người khác nữa và bắt đầu khám phá xem làng này nghĩ như thế nào về một ngôi trường.

Tiếng la hét đi vào giấc mơ của Mortenson. Ngay trước khi chìm vào giấc ngủ, anh quay trở lại Khane, lắng nghe Janjungpa quát Akhmalu về việc vì sao làng của họ cần một trường leo núi thay vì một ngôi trường cho trẻ em. Sau đó anh ngồi dậy và không hiểu mình nhìn thấy gì. Một ngọn đèn áp suất đong đưa trước mặt anh tạo ra những cái bóng lắc lư kệch cỡm trên tường. Phía sau ngọn đèn, Mortenson thấy một nòng súng AK-47 chĩa vào ngực mình, anh thấy mình tỉnh táo hơn một chút với thông tin này.

Phía sau khẩu súng, một người đàn ông hung hãn quấn khăn xếp màu xám có bộ râu rối la hét bằng thứ ngôn ngữ mà anh không hiểu. Lúc đó là 2 giờ sáng, Mortenson chỉ mới ngủ được hai giờ, và trong khi anh cố gắng để hiểu điều gì đang xảy ra với mình, thì việc bị thiếu ngủ đang rất cần được bù đắp làm phiền anh nhiều hơn là tám người đàn ông đang chĩa vũ khí vào anh và kéo anh dậy.

Họ xốc mạnh anh đứng dậy và lôi anh về phía cửa. Mortenson cố tìm Khan hoặc những người của Haji Mirza trong căn phòng tối mờ, nhưng anh chỉ có một mình cùng với những người lạ mặt có vũ trang. Những bàn tay chai sạn nắm lấy hai bên bắp tay anh và dẫn anh ra khỏi cánh cửa đã mở then của khu nhà.

Có ai đó cởi chiếc khăn xếp trên đầu Mortenson từ phía sau và buộc chặt lại. “Tôi nhớ mình nghĩ rằng Bên ngoài tối đến vậy thì tôi có thể nhìn thấy gì?” Mortenson nói. Họ dẫn anh đi xuống đường mòn trong cảnh tối tăm gấp hai lần, thúc anh đi nhanh và đỡ anh lên khi đôi giày sandal không gót của anh vấp phải những hòn đá. Ở đầu lối mòn, một đội hình những cánh tay hướng dẫn anh vào thùng xe của một chiếc xe tải không mui và dồn đống lên sau anh.

“Chúng tôi đi khoảng bốn mươi lăm phút.” Mortenson nói. “Sau cùng tôi hoàn toàn tỉnh ngủ và run lẩy bẩy, phần vì cái lạnh trong chiếc xe không mui nơi hoang mạc, phần vì giờ đây tôi thực sự thấy sợ.” Những người đàn ông ép sát anh tranh cãi dữ dội bằng tiếng Pashto, và anh nhanh chóng đoán được rằng họ cãi nhau về việc cần phải làm gì với anh. Nhưng vì sao họ không bắt anh ngay từ đầu? Và những người lính canh có vũ trang của Haji Mirza ở đâu khi lashkar này, tức toán vũ trang, đột nhập vào không một tiếng súng? Ý nghĩ cho rằng những người đàn ông này là đồng bọn của Mirza giống như một cái tát vào mặt Mortenson. Ép sát người anh, những kẻ bắt cóc bốc mùi khói và mùi không tắm rửa, và đối với anh, cứ mỗi phút chiếc xe đi sâu hơn vào bóng đêm cũng giống như một dặm đường cách xa hơn việc nhìn thấy vợ mình một lần nữa.

Chiếc xe tải lao trên xa lộ, rồi xóc nảy leo dốc trên con đường mòn nhiều vết lún. Mortenson cảm thấy người lái xe đạp thắng và chiếc xe tải đột ngột xoay vòng trước khi dừng lại. Những bàn tay thô bạo kéo anh xuống đất. Anh nghe có người nào đó dò dẫm ổ khóa, rồi một cánh cửa kim loại bật mở ra. Mortenson vấp chân vào khung cửa, những bàn tay bóp bầm tím bắp tay anh, kéo anh xuống một hành lang vang vọng tiếng bước chân của họ, và vào một căn phòng tối. Anh nghe cánh cửa bên ngoài nặng nề đóng sầm lại. Rồi tấm bịt mặt của anh được lấy đi.

Anh ở trong căn phòng dành cho khách có trần cao, rộng ba mét và dài sáu mét. Một ngọn đèn dầu cháy sáng trên ngạch cửa của cái cửa sổ nhỏ duy nhất, đóng lá chớp phía bên ngoài. Anh quay về phía những người đàn ông đã đưa mình đến, tự nhủ không được hoảng loạn, cố vận dụng đầu óc để đưa ra vài lời nhận xét hài hước, bất kì điều gì để chiếm được sự đồng cảm của họ, và quan sát cánh cửa nặng nề kêu lách cách đóng lại phía sau họ. Qua lớp gỗ dày, anh có thể nghe được tiếng động gây nản lòng của cái móc khóa bập khóa lại.

Trong vùng tối ở cuối phòng, Mortenson thấy một cái chăn và một tấm đệm trên sàn nhà bụi bẩn. Có điều gì thuộc về bản năng báo cho anh rằng ngủ là chọn lựa tốt hơn việc bước đi bước lại trong phòng, lo lắng về điều gì đó sắp xảy đến. Vì vậy anh nằm xuống tấm đệm mỏng, hai chân thòi ra khỏi mép nệm cả hai ba tấc, kéo tấm chăn len có mùi mốc lên ngực và chìm vào giấc ngủ sâu, không mộng mị.

Khi mở mắt ra, anh thấy hai trong số những tên bắt cóc đang ngồi xổm bên cạnh mình và ánh nắng lọt vào qua cửa sổ lá chớp gỗ. “Chai,” người ngồi gần anh nhất nói, rót cho anh tách trà xanh nhạt nhẽo. Anh nhấp trà trong cái ca nhựa, tỏ ra nhiệt tình, cười với những người đàn ông trong khi quan sát họ. Họ có cái vẻ nghiêm khắc, nhọc nhằn của những người đàn ông đã trải qua phần lớn cuộc đời ở bên ngoài, chịu thiếu thốn khổ đau. Cả hai đều đã ngoài ngũ tuần, anh đoán, với những bộ râu mờ xỉn và rậm rạp như bộ lông chó sói mùa đông. Một lằn sâu màu đỏ chạy ngang trán của một trong hai người đưa trà cho anh. Và Mortenson cho rằng đó là vết thương do đạn pháo, hoặc nếp nhăn là dấu vết của một viên đạn suýt gây chết người. Họ là những mujahadeen, anh đoán chắc, cựu chiến binh của du kích Afghan chống người Xô Viết. Nhưng giờ đây họ đang làm gì? Họ có dự định gì với anh?