Chương 17 Cây anh đào trong cát
Nơi nguy hiểm nhất trên thế giới ngày nay, tôi nghĩ bạn có thể nêu ra, đó là Tiểu Lục Địa Ấn Độ và Đường Phân Giới ở Kashmir.
- Tổng thống Bill Clinton, trước khi rời Washington trong chuyến viếng thăm ngoại giao và thực hiện sứ mệnh hòa giải giữa Ấn Độ và Pakistan
Fatima Batool nhớ lại tiếng “ùm” nghe rất rõ từ phía pháo binh Ấn Độ, chỉ cách mười hai kilômét bên kia núi. Cô nhớ lại trái đạn pháo đầu tiên rít lên một cách thanh nhã khi rơi xuống từ bầu trời không một gợn mây, và cách mà cô và chị Aamina, đang cùng gieo kiều mạch, nhìn nhau ngay trước khi trái đạn đầu tiên phát nổ.
Ở Brolmo, ngôi làng của họ trong thung lũng Gultori, một địa điểm được ghi trong những tấm bản đồ mà quân đội Ấn Độ ở bên kia đường biên giới gần đó mang theo là “Kashmir bị Pakistan chiếm đóng”, chưa bao giờ có chuyện gì mới xảy ra. Ít nhất là theo cách nhìn của Fatima, ở tuổi lên mười. Cô nhớ mình đã nhìn vào mắt chị, khi bầu trời bắt đầu hát lên bài ca xa lạ, và thấy chính vẻ sửng sốt của mình phản chiếu trong đôi mắt đang mở to của Aamina, một cái nhìn như muốn nói, “Có chuyện gì mới ở đây.”
Nhưng sau trận bão lửa kim loại bay từ quả đạn pháo l55 milimet, Fatima muốn nhớ lại càng ít càng tốt. Những hình ảnh, cứ như những hòn đá vùi chung với than để nướng những lát bánh kurba quá nóng để có thể chạm vào. Có những thân thể, cùng những phần thân thể trong cánh đồng lúa mì, khi những tiếng ùm, tiếng rít và những tiếng nổ đến nhanh, rất gần nhau, khiến cho chúng trở thành một tiếng thét duy nhất.
Aamina nắm tay Fatima, và cùng nhau nhập vào đoàn dân làng hoảng hốt, tán loạn, chạy nhanh hết sức mình, nhưng tất cả đều quá chậm như nhau, về phía những hang đá nơi họ có thể trốn thoát khỏi bầu trời.
Từ nơi trú ẩn trong bóng tối của lo âu, Fatima không thể hoặc không muốn nhớ là Aamina đã quay trở lại trong cơn bão âm thanh đó như thế nào. Cô nghĩ, có lẽ chị mình đang dẫn dắt những đứa trẻ nhỏ hơn vào. Đó là tính cách của Aamina, Fatima nói. Về viên đạn pháo rơi ngay miệng hang sau đó, Fatima không nhớ gì cả. Cô chỉ có thể nói là sau khi nó nổ, hayaat, có nghĩa là linh hồn của chị cô đã tan vỡ và cuộc sống của họ không còn có thể trở lại như xưa.
Vào ngày 27 tháng 5 năm 1999, trong văn phòng dưới tầng hầm ở Montana lúc nửa đêm, Mortenson lướt tìm trên mạng những chi tiết của vụ giao tranh vừa đột ngột bùng nổ ở Kashmir. Anh chưa bao giờ nghe điều gì tương tự.
Kể từ khi vụ chia cắt bạo lực tách rời Ấn Độ và Pakistan,Kashmir đã trở nên dễ bùng cháy. Ấn Độ, với binh lực vượt trội có thể chiếm phần lớn công quốc ngày xưa này. Và mặc dù Ấn Độ hứa tổ chức bầu cử và để cho người Kashmir tự quyết định tương lai của họ, nhưng đại đa số dân Hồi giáo ở Kashmir chưa bao giờ được sử dụng cơ hội đó.
Đối với người dân Pakistan, Kashmir đã trở thành biểu tượng của mọi sự đàn áp mà họ cho là người Hồi giáo phải chịu khi vùng thuộc địa Ấn-Anh tách ra. Và đối với người Ấn, Kashmir tượng trưng cho một đường được vẽ ra, nếu không phải là trên cát, thì đi qua một dãy các đỉnh núi cao năm nghìn năm trăm mét. Nó đã trở thành lãnh thổ quý báu của các chiến binh Mặt trận Giải phóng Jammu-Kashmir (JKLF) mà người Ấn Độ xem là những kẻ khủng bố không được phép tranh giành từ lãnh thổ Ấn Độ. Và ở cả hai phía, vùng đất được vẽ ra trên những sông băng hoang vu theo lệnh của Lord Mounbatten, người Anh, vẫn còn là một vết thương gợi nhớ những ô nhục thời thuộc địa.
Năm 1971, sau nhiều thập niên giao tranh lẻ tẻ, cả hai nước nhất trí một Đường Phân Giới (LOC) được vẽ ngang qua một vùng đất quá hiểm trở và hoang vu, vốn đã tạo thành rào cản hữu hiệu đối với việc tấn công quân sự. “Các báo cáo về số thương vong nặng nề làm tôi bị sốc.” Mortenson nhớ lại. “Phần lớn thời gian trong sáu năm đầu tôi ở Pakistan, giao tranh dọc theo LOC được tiến hành giống như một thỏa thuận của quý ông thuở xưa.”
“Quân đội Ấn Độ và Pakistan đều xây dựng những chốt quan sát và những khẩu đội pháo trên những dòng sông băng. Ngay sau tuần trà buổi sáng, người Ấn Độ sẽ câu một hay hai trái pháo về phía các chốt của Pakistan bằng những khẩu pháo cao xạ Bofors được sản xuất tại Thụy Điển. Và quân đội Pakistan sẽ đáp trả bằng cách bắn vài phát sau khi hoàn tất việc cầu nguyện buổi sáng. Chỉ có một ít thương vong, và cứ đến tháng chín, khi thời tiết lạnh bắt đầu hoành hành như một ám hiệu, hai bên sẽ rời bỏ các chốt của mình cho đến mùa xuân.”
Nhưng vào tháng 4 năm 1999, trong một mùa băng tan chảy sớm bất thường, thủ tướng Pakistan, Nawaz Sharif, quyết định kiểm tra ý chí chiến đấu của Ấn Độ. Một năm trước đó, Pakistan đã làm cả thế giới sửng sốt bằng cách tiến hành liên tiếp năm vụ thử vũ khí hạt nhân thành công. Việc đạt được thành tích hủy diệt ngang bằng với người láng giềng Hindu đã kích động đợt bùng phát mạnh mẽ lòng tự hào dân tộc - và với sự tán thành chính phủ Pakistan - đến mức Sharif cho xây dựng một mô hình dựng đứng quy mô ở đồi Chagai, nơi “Quả bom Hồi giáo” phát nổ, kế bên đường cao tốc đi qua Điểm Số Không, địa điểm mà Pindi và Islamabad giao cắt nhau.
Trong tháng đó, khoảng tám trăm chiến binh Hồi giáo được trang bị vũ khí hạng nặng vượt LOC qua Gultori và chiếm những vị trí dọc theo các sườn núi bên trong Kashmir thuộc Ấn Độ. Theo người Ấn Độ thì các thành viên của Lữ đoàn Bộ binh Nhẹ phương Bắc, lực lượng tinh nhuệ được phân công để bảo vệ phần lớn lãnh thổ phía bắc Pakistan, đã mặc quần áo dân sự và xoay xở để xâm nhập sát cánh với quân mujahadeen không chính quy. Những toán quân hỗn hợp do di chuyển vào vị trí quá bí mật nên đã không bị phát hiện cho đến gần một tháng sau, khi các trinh sát viên của quân đội Ấn Độ biết được những sườn núi cao khống chế các vị trí của họ trong và xung quanh thị trấn Kargil đều đã bị Pakistan và các đồng minh chiếm giữ.
Thủ tướng Ấn Độ, Atal Bihari Vajpayee, lên án Sharif về việc xâm chiếm Ấn Độ. Sharif đáp lại rằng kẻ xâm nhập là “những chiến binh tự do” hoạt động độc lập với quân đội Pakistan, những người đã tự phát quyết định tham gia cuộc chiến giải phóng người Hồi giáo Kashmir khỏi những kẻ áp bức Hindu. Những phiếu lương và thẻ căn cước của Lữ đoàn Bộ binh Nhẹ phương Bắc mà sau đó người Ấn khẳng định là đã tìm thấy trên các binh sĩ bị giết chết lại cho thấy một câu chuyện khác.
Ngày 26 tháng 5 năm 1999, Vajpayee ra lệnh cho không quân Ấn Độ tiến hành đánh trả lại Pakistan lần đầu tiên sau hơn hai mươi năm. Những chiếc máy bay phản lực chiến đấu MiG và Mirage của Ấn Độ đánh bom các vị trí chiến hào từ đợt này sang đợt khác. Và các chiến binh chiếm giữ các đỉnh đồi, được vũ trang bằng tên lửa Stinger mà người Mỹ đã cung cấp cho các chỉ huy mujahadeen ở Afghanistan để bắn hạ máy bay Liên Xô, đã loại một chiếc MiG và một trực thăng vũ trang MI-17 ra khỏi bầu trời trong ngày đầu tiên của cái mà thế giới sẽ gọi là “Xung đột Kargil”.
Những cuộc chiến tranh không tuyên bố, kiểu “hoạt động cảnh sát” của người Mỹ ở Việt Nam, như nó chính thức được gọi trong những năm đầu, rất thường được giảm nhẹ bằng tên gọi chính thức. “Xung đột” không mô tả được khối lượng lớn chất nổ mà các lực lượng Pakistan và Ấn Độ đã bắn vào nhau trong năm 1999. Các lực lượng Pakistan đã giết chết hàng trăm binh lính Ấn Độ, và theo phía Ấn Độ, rất nhiều thường dân đã bị kẹt trong hỏa lực. Quân đội Ấn Độ hùng mạnh hơn nhiều đã bắn năm nghìn quả đạn pháo, đạn cối và tên lửa mỗi ngày.
Theo trang GlobalSecurity.org, suốt mùa xuân và mùa hè năm 1999, hơn 250.000 đạn pháo, bom và tên lửa của Ấn Độ đã bắn xuống Pakistan. Chưa có nơi nào chịu mức độ hỏa lực cao như vậy kể từ cuộc Chiến tranh Thế giới lần II. Và mặc dù quân đội Ấn Độ vẫn tiếp tục phủ nhận, nhưng theo những nguồn tin dân sự thì nhiều trong số đạn pháo đó đã được bắn không phân biệt vào những ngôi làng kém may mắn nằm dọc theo đường phân giới, những ngôi làng như làng của Fatima Batool.
Mortenson cảm thấy bất lực, đi tới đi lui trong tầng hầm giữa những cuộc điện thoại gọi cho các mối liên lạc của mình trong quân đội Pakistan. Và những báo cáo anh nghe được đã lấy đi của anh thêm vài giờ mà anh thường sắp xếp để ngủ. Những dòng người tị nạn từ chiến sự đang vượt qua những đèo cao bằng đôi chân và đang đến gần Skardu, kiệt sức, bị thương tích và hết sức cần những dịch vụ mà không một ai ở Baltistan đã được trang bị để cung ứng. Các giải pháp không nằm trong những chồng sách xếp cao dựa tường, tràn ra trên các ngăn kệ rơi xuống sàn nhà. Các giải pháp nằm ở Pakistan.
Mortenson đăng kí chuyến bay của mình.
Cao nguyên Deosai vào giữa tháng sáu là một trong những khu vực hoang dã đẹp nhất trên hành tinh, Mortenson nghĩ như vậy khi chiếc Land Cruiser của anh leo về hướng Baltistan. Những mảng màu đỏ tía của đậu lupin được quét lên trên những đồng cỏ cao giữa những ngọn núi bằng những nét cọ lớn. Từng đàn bharal(19)sừng lớn, sống xa nơi con người cư trú, dõi theo chiếc xe đang chạy không chút sợ hãi. Và ở phía tây, Rupal Face của Nanga Parbat, dốc đá nguyên không đứt gãy lớn nhất trên trái đất mê hoặc cái nhìn của Mortenson từ góc nhìn xa lạ này.
19. Cừu xanh
Hussein, Apo và Faisal đã đến Islamabad để đón Mortenson, và Apo đã thuyết phục anh cố gắng lái xe ba mươi sáu giờ đến Skardu trên những con đường thường không thể vượt qua của Deosai, vì xa lộ Karakoram đã kẹt cứng với những đoàn xe quân sự vận chuyển tiếp liệu cho vùng chiến sự và vận chuyển binh lính chết trận trở về nhà an táng.
Mortenson cho là mình sẽ đơn độc ở Deosai, vì những đèo cao của cao nguyên bốn nghìn ba trăm mét tiếp giáp Ấn Độ này vẫn còn bị phủ tuyết. Nhưng từ cả hai chiều: hướng về vùng xung đột Kargil hay rút lui từ đó, những đoàn xe Toyota mui trần thùng đôi, những rơmooc quân sự của Taliban nêm đầy những chiến binh để râu quấn khăn xếp đen. Những chiến binh trong những chiếc xe thùng trên đường tiến về đông bắc vẫy những khẩu tiểu liên Kalasnikov và ống phóng tên lửa khi xe họ đi qua. Những người bị thương hướng về phía tây nam khua bông băng của họ một cách tự hào.
“Apo!” Mortenson la lên qua tiếng động cơ, sau khi bốn tiếng còi của đoàn xe quân sự buộc chiếc Land Cruiser phải tấp vào lề đường trong nhiều phút, “Anh có bao giờ thấy nhiều Taliban như vậy chưa?”
“Bọn Kabul cứ đến mãi.” Apo nói, sử dụng một từ địa phương để chỉ những người ngoài cuộc mà mình khinh ghét vì đã đem bạo lực đến Baltistan. “Nhưng chưa bao giờ với số lượng nhiều như thế này.” Apo lắc đầu buồn bã. “Chúng phải rất vội vàng,” anh nói, nhổ qua cửa xe một vệt dài thuốc lá nhai Copenhagen mà Mortenson đã đem từ Montanna sang cho anh, “để trở thành liệt sĩ.”
Khi họ đến nơi, Skardu đã bị kẹt trong cơn sốt chiến tranh. Những chiếc Bedford gầm rú trở về từ chiến tuyến, chở đầy những quan tài phủ cờ Pakistan trang trọng. Những chiếc trực thăng màu lục xỉn bay ù ù trên đầu với số lượng mà Mortenson chưa từng thấy. Và những người chăn cừu Gojar du mục, những người gypsy của Pakistan, đang dỗ dành những bầy dê bất kham đi qua luồng xe quân sự đang lưu thông dày đặc, lùa chúng dọc theo đường hành quân về phía Ấn Độ, nơi mà chúng cung cấp thực phẩm cho quân đội Pakistan.
Bên ngoài khách sạn Indus, hai chiếc Toyota thùng đôi màu đen với biển số xe màu xanh nhạt dễ nhận biết của Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập và dòng chữ SURF được in một cách khó hiểu trên cửa quay nghiêng ngay lối vào, đuôi xe thò ra và chặn dòng tiến của các tài xế xe jeep không dám bóp còi. Và trong sảnh khách sạn, khi Mortenson ôm chào Ghulam - người quản lí, và em trai ông là Nazir, qua đôi vai Ghulam anh thấy hai người đàn ông râu ria to lớn đang uống trà ở một chiếc bàn gỗ. Áo quần của họ cũng đầy bụi như Mortenson.
“Người đàn ông to con ngước nhìn lên từ tách trà và nói, ‘Chai!’ ngoắc tôi lại.” Mortenson nói. “Tôi đoán ông ta ở độ tuổi năm mươi và phải cao đến hai mét, tôi nhớ rõ vì tôi thường là người to con nhất ở Baltistan. Ông ta có,... gọi là gì nhỉ? Cằm xị. Và một cái bụng to. Tôi biết không phải ngẫu nhiên mà ông ta lên đến đây qua những con đèo năm nghìn năm trăm mét, do đó tôi hình dung ông ta phải là một người chỉ huy.”
Quay lưng về phía những người đàn ông, Ghulam, nhướng đôi lông mày với Mortenson, cảnh báo anh.
“Tôi biết.” Mortenson nói, bước lại để gặp họ.
Anh bắt tay với cả người đàn ông to con và người đi cùng ông ta, người này có bộ râu thưa dài gần đến thắt lưng và hai cánh tay nổi sọc như củi phơi mưa nắng. Khi Mortenson ngồi với hai người đàn ông, anh thấy một cặp AK-47 được tra dầu cẩn thận trên sàn giữa chân họ.
“Pe khayr raghie.” người đàn ông nói bằng tiếng Pashto, “Xin chào.”
“Khayr ose.” Mortenson đáp, bày tỏ sự kính trọng bằng tiếng Pashto mà mình đã học sau tám ngày bị giam giữ ở Waziristan.
“Kenastel!” người chỉ huy ra lệnh, “Ngồi xuống đi.”
Mortenson ngồi xuống, rồi chuyển sang tiếng Urdu, để có thể cẩn thận không nói sai. Anh quấn chiếc khăn kaffiyeh carô đen trắng quanh đầu, kiểu khăn giống với chiếc khăn của Yasir Arafat. Anh đội khăn để tránh bụi bay vào miệng, nhưng hai người đàn ông này xem đó là một sự thể hiện quan điểm chính trị và mời anh dùng trà.
“Người đàn ông to con tự giới thiệu mình là Gul Mohammed. Rồi ông ta hỏi tôi có phải là người Mỹ hay không. Tôi nghĩ nếu không nói thì họ cũng biết, nên tôi nói tôi là người Mỹ.” Mortenson bí mật gật đầu với Faisal Baig, đứng cách bàn vài tấc, hoàn toàn cảnh giác và người cận vệ lùi ra, ngồi cùng Apo và Parvi.
“Bill Clinton, tốt!” Gul Mohammed nói bằng tiếng Anh, đưa ngón cái lên một cách nhiệt tình, rốt cuộc Clinton có thể thất bại trong việc củng cố hòa bình giữa Israel và Palestin, nhưng dẫu muộn màng, ông ta đã đưa quân đến Bosnia vào năm 1994 để dừng cuộc thảm sát người Hồi giáo của người Serbia Thiên Chúa giáo, một thực tế mà mujahadeen như Gul sẽ không bao giờ quên.
Người đàn ông to con đặt tay mình lên vai anh chàng người Mỹ một cách tán thành. Mortenson ngửi thấy mùi cơ thể và mùi thịt cừu nướng. “Anh là một người lính.” ông ta nói thay vì hỏi.
“Tôi từng là một người lính.” Mortenson trả lời. “Cách đây nhiều năm. Nhưng giờ tôi xây trường học cho trẻ em.”
“Anh có biết trung tá Samuel Smith, từ Fort Wort, Texaskhông?” người đàn ông gầy hơn hỏi. “ông ta cũng là lính Mỹ. Chúng tôi đã cùng nhau đè bẹp bọn Xô Viết như những con bọ ở Spin Boldak.” ông ta nói và miết gót đôi ủng trận xuống sàn.
“Tôi lấy làm tiếc.” Mortenson nói. “Nước Mỹ rất rộng lớn.”
“Rộng lớn và hùng mạnh. Ở Afghanistan chúng tôi có Thánh Allah ở phe mình.” Gul cười tươi nói. “Lại có cả tên lửa Stinger của Mỹ nữa.”
Mortenson hỏi hai người đàn ông có phải họ vừa trở về từ mặt trận không, và Gul Mohammed có vẻ gần như nhẹ nhõm khi mô tả mình đã thấy gì ở đó. Ông ta nói mujahadeen đã chiến đấu anh dũng, nhưng không quân Ấn Độ tàn sát khủng khiếp những người đang cố giữ các vị trí đỉnh đồi kể từ khi họ biết cách thả bom từ trên cao, ngoài tầm tên lửa của mujahadeen. Gul giải thích, “Pháo cao xạ Bofors của chúng cũng rất mạnh. Thụy Điển nói mình là một quốc gia hòa bình nhưng lại bán những khẩu pháo chết tiệt.”
Hai người đàn ông hỏi kĩ Mortenson về công việc của anh và gật đầu tán đồng khi biết anh đang giáo dục bốn nghìn người Sunni Afghanistan tị nạn ở Peshawar, cũng như trẻ em Shia ở Baltistan. Gul bảo mình sống ở thung lũng Daryle, không xa cây cầu mà mujahadeen đã phong tỏa năm năm trước khi Mortenson đang chở ngôi trường Korphe trên xa lộ Karakoram trên mui chiếcBedford thuê. “Chúng tôi rất cần những ngôi trường trong thung lũng của mình.” Gul nói. “Sao anh không về với chúng tôi và xây dựng mười hay hai mươi ngôi trường ở đó? Ngay cả cho con gái, không có vấn đề gì.”
Mortenson giải thích rằng CAI hoạt động với ngân sách nhỏ và mọi dự án trường học đều phải được ban giám đốc chấp thuận. Anh nén cười khi nghĩ đến việc ông ta đưa ra một yêu cầu đặc biệt như vậy, rồi hứa sẽ đưa vấn đề này ra trong buổi họp ban giám đốc lần tới.
Đến 9 giờ tối, mặc cho không khí trong sảnh Indus ngột ngạt, Mortenson thấy mí mắt mình sụp xuống. Anh đã ngủ quá ít trong hành trình bụi bặm qua Deosai. Với sự hiếu khách của người Pashtunwali, hai người chỉ huy hỏi Mortenson có muốn chia sẻ chung chỗ ở của họ đêm đó hay không. Ghulam và Nazir đã đặt riêng một phòng nhỏ yên tĩnh ở phía sau khách sạn, bao giờ cũng thế, dành cho Mortenson. Anh cảm ơn hai người đàn ông, và cúi người, đặt bàn tay lên tim mình, cáo từ.
Nửa đường trong hành lang đến phòng mình, một anh chàng gầy còm tóc đỏ với đôi mắt lồi màu xanh ló ra từ cánh cửa lò xo phòng bếp và kéo tay áo Mortenson. Agha Ahmed, anh chàng phụ bếp và khuân vác hành lí không bình thường của khách sạn Indus đã chăm chú theo dõi sảnh khách sạn từ khe cửa.
“Bác sĩ Greg!” anh ta la lên cảnh báo, đủ lớn để cả khách sạn nghe thấy, một bọt nước bọt hình thành ở khóe miệng anh ta như mọi khi. “Taliban!”
“Tôi biết.” Mortenson cười nói và lê bước dọc theo hành lang về phòng.
Syed Abbas tự gọi điện thoại cho Mortenson vào buổi sáng. Mortenson chưa bao giờ thấy ông ta lo lắng như vậy. Thông thường, vị giáo sĩ giữ phong cách trang nghiêm và nhả ra từng chữ đều đều như nhịp ngón tay lần trên tasbih(20). Nhưng sáng hôm đó, lời của Syed Abbas tuôn ra như một dòng thác. Cuộc chiến là một tai họa đối với thường dân Gultori, Abbas nói. Không một ai biết có bao nhiêu dân làng đã chết và bị thương tật bởi bom đạn Ấn Độ, nhưng đã có hai nghìn người tị nạn đến Skardu, và hàng nghìn người khác đang chờ đợi điều tồi tệ nhất của cuộc chiến trong các hang đá, trước khi gia nhập vào dòng người tị nạn.
20. Chuỗi hạt cầu nguyện
Syed Abbas nói rằng ông đã liên hệ với chính quyền các vùng phía bắc và Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc, và cả hai đã từ chối lời yêu cầu giúp đỡ của ông. Chính quyền địa phương nói họ không có nguồn lực để đối phó với khủng hoảng. Và Liên Hiệp Quốc cho biết không thể giúp các gia đình Gultori chạy tránh giao tranh vì họ là những người tị nạn trong nước, không được chạy qua các đường biên giới quốc tế.
“Người dân cần gì?” Mortenson hỏi.
“Mọi thứ.” Abbas nói. “Nhưng trên hết là nước.”
Ở phía tây Skardu, Syed Abbas lái xe đưa Mortenson, Apo và Parvi đến xem thành phố lều bạt mới với những tấm nhựa bạc màu được căng trên những đụn cát bao quanh sân bay. Họ rời khỏi đường, cởi giày và trong lúc những chiếc máy bay chiến đấu Mirage sản xuất tại Pháp của không quân Pakistan gầm rú phía trên đầu trên đường tuần tra, họ đi bộ qua hàng chục đụn cát về phía những người tị nạn. Quanh sân bay, những tay súng cao xạ ngồi trong ụ súng bằng bao cát, cảnh giác cao độ, vạch nòng súng theo những đường cong uốn lượn trên bầu trời phía Ấn Độ.
Những người tị nạn đã được chuyển đến mảnh đất duy nhất ở Skardu mà không ai cần đến. Nơi cắm trại của họ giữa những đụn cát không có nguồn nước tự nhiên, và họ ở cách sông Indus hơn một giờ đi bộ. Đầu Mortenson nhói lên, không chỉ vì cái nóng phản chiếu từ những đụn cát, anh suy ngẫm nhiệm vụ lớn lao của họ. “Làm sao chúng ta có thể đem nước đến đây?” anh hỏi. “Chúng ta ở trên đồi cách xa sông.”
“Tôi có biết về một số dự án ở Iran.” Syed Abbas nói. “Họ gọi là chương trình đưa nước lên cao. Chúng ta sẽ phải đào rất sâu đến lớp nước ngầm và đặt những cái bơm, nhưng có Thánh Allah giúp, ta có thể làm được.”
Syed Abbas, vạt áo đen nhấp nhô, chạy lên trước trong cát chói sáng, chỉ ra những chỗ mà ông nghĩ có thể thăm dò nước ngầm. “Tôi ước gì những người phương Tây đang hiểu lầm về Hồi giáo có thể thấy Syed Abbas hoạt động trong ngày hôm đó.” Mortenson nói. “Họ sẽ thấy rằng đa số người dân thực hành đúng những lời dạy của đạo Hồi, ngay cả những giáo sĩ bảo thủ như Syed Abbas, tin tưởng vào hòa bình và công lí, chứ không phải khủng bố. Cũng như kinh Tora và kinh Thánh dạy rằng phải quan tâm đến những người cùng cực, kinh Koran dạy tất cả những người Hồi giáo phải ưu tiên chăm lo cho những góa phụ, trẻ mồ côi và người tị nạn.”
Lúc đầu, thành phố lều có vẻ hoang vắng vì cư dân đang rúc vào dưới những tấm vải bạt để tránh nắng. Apo, vốn là một người tị nạn quê ở Dras, giáp với Gultori, bên đường biên giới phía Ấn Độ, đi từ lều này sang lều khác ghi nhận những yêu cầu về những nhu yếu phẩm cần kíp nhất.
Mortenson, Parvi và Syed Abbas đứng ở một khoảng trống giữa các căn lều, bàn về công việc hậu cần và chương trình đưa nước lên cao. Parvi cam đoan mình có thể thuyết phục người hàng xóm, là giám đốc Sở Công trình Công cộng Skardu (PWD), cho mượn thiết bị đào đất hạng nặng nếu như CAI đồng ý mua ống và máy bơm nước.
“Có bao nhiêu người sống ở đây?” Mortenson hỏi.
“Bây giờ là trên một nghìn năm trăm người.” Syed Abbas nói. “Chủ yếu là đàn ông. Họ phải đến để tìm việc làm và dựng chỗ ở trước khi phụ nữ và trẻ em đến. Trong vòng vài tháng, chúng ta có thể phải lo cho bốn hoặc năm nghìn người tị nạn.”
Nhô ra từ vạt cửa của một căn lều, Apo Razak lách qua những người đàn ông đang nói chuyện. Nếu có điều gì không thay đổi ở Baltistan, thì đó là cái nhìn như đùa cợt trên khuôn mặt người đầu bếp già của các đoàn thám hiểm, người đã bỏ ra cả cuộc đời để cung cấp thực phẩm và tiện nghi cho những nhóm đông người ở những nơi khó khăn. Nhưng gương mặt của ông, khi đến gần, có vẻ nghiêm trọng một cách khác thường, và khuôn miệng méo xệch như một đường vân trong đá hoa cương. Như chú hề Lear, ông không ngần ngại nêu ra sự thật không thể chối cãi cho những người được gọi là cấp trên của mình.
“Bác sĩ Greg.” ông nói, nắm tay Mortenson và dẫn anh về phía những căn lều, “Nói chuyện đủ rồi. Anh làm sao có thể biết người dân cần gì nếu không hỏi họ?”
Giáo sĩ Gulzar ngồi dưới tấm vải bạt màu xanh, đầu đội chiếc nón chỏm đen và cố đứng lên khi Apo dẫn Mortenson vào. Vị giáo sĩ già của làng Brolmo vỗ vào tay Mortenson và xin lỗi vì không có khả năng để mời trà. Khi tất cả đều ngồi xếp bằng trên tấm trải bàn nhựa dẻo trải trên cát nóng, Apo thúc giục vị giáo sĩ kể lại câu chuyện của mình.
Ánh sáng chói chang lọt qua tấm bạt xanh phản chiếu trên cặp mắt kính quá khổ của vị giáo sĩ và che khuất đôi mắt khi ông nói, tạo cho Mortenson ấn tượng bối rối như đang lắng nghe một người mù mang tròng kính màu xanh đục.
“Chúng tôi không muốn đến đây.” giáo sĩ Gulzar nói, vuốt chòm râu dài của mình. “Brolmo là một chỗ tốt hoặc đã từng là như vậy. Chúng tôi cố nán lại chừng nào còn ở được, ẩn nấp trong những hang đá vào ban ngày và làm việc trên cánh đồng vào ban đêm. Nếu làm việc ban ngày, sẽ không một ai sống sót được, vì có quá nhiều đạn pháo rơi xuống. Sau cùng, tất cả các kênh tưới đều vỡ, những cánh đồng bị hủy hoại và những căn nhà tan tát. Chúng tôi biết nếu không làm một điều gì đó thì phụ nữ và trẻ em sẽ chết, do đó chúng tôi đã đi qua những ngọn núi để đến Skardu. Tôi không còn trẻ và điều đó thật khó khăn.”
“Khi chúng tôi đến Skardu, quân đội bảo chúng tôi làm nhà ở đây.” giáo sĩ Gulzar nói. “Và khi thấy nơi này, bãi cát này, chúng tôi quyết định trở về nhà. Nhưng quân đội không cho phép. Họ nói ‘Các anh không còn nhà để về. Nhà đã đổ nát.’ Tuy vậy nếu có thể, chúng tôi vẫn cứ trở về, vì ở đây không phải là cuộc sống. Và rồi phụ nữ và trẻ em của chúng tôi sẽ sớm đến chỗ đất bỏ đi này và chúng tôi có thể nói gì với họ?”
Mortenson nắm tay vị giáo sĩ già bằng cả hai tay mình. “Chúng tôi sẽ giúp ông đem nước đến đây cho các gia đình.” anh hứa.
“Cảm ơn Thánh Allah toàn năng về điều đó.” vị giáo sĩ nói. “Nhưng nước chỉ là chuyện đầu tiên. Chúng tôi cần thực phẩm, thuốc men và giáo dục cho con em chúng tôi. Giờ đây nơi này là nhà của chúng tôi. Tôi xấu hổ vì phải hỏi xin quá nhiều, nhưng không có ai khác đặt chân đến đây.”
Vị giáo sĩ già nghiêng đầu về phía bầu trời mà tấm bạt xanh che không kín hết, như muốn gửi lời than vãn trực tiếp đến tai Thánh Allah. Từ góc nhìn mới này, ánh chói biến mất khỏi cặp kính của ông, và Mortenson thấy đôi mắt của giáo sĩ ươn ướt.
“Chúng tôi không có gì cả. Với mal-la khwong của anh, với lòng tốt của anh trong việc hoàn thành những lời cầu nguyện của chúng tôi, tôi không thể mời anh gì cả,” giáo sĩ Gulzar nói. “Ngay cả trà cũng không.”
Chương trình đưa nước lên cao lần đầu tiên trong lịch sử miền bắc Pakistan được xây dựng trong tám tuần. Đúng như đã nói, Ghulam Parvi đã thuyết phục người hàng xóm cho sử dụng thiết bị đào đất. Vị giám đốc PWD của Skardu cũng tặng toàn bộ ống nước mà dự án cần, và mười hai máy kéo mượn của quân đội để di chuyển đá. Mortenson kiên nhẫn quay đi quay lại trạm điện thoại công cộng, cho đến khi liên lạc được với San Francisco. Anh yêu cầu và được chấp thuận cho phép sử dụng sáu nghìn đôla từ ngân sách của CAI cho dự án.
Mortenson đặt mua máy bơm và máy phát điện hiệu Honda từ Gilgit. Với tất cả đàn ông làng Brolmo lao động suốt ngày, họ đã xây dựng một bể chứa nước lớn bằng bêtông, có thể trữ đủ nước để cung cấp cho một khu định cư năm nghìn dân. Và sau khi khoan sâu đến gần bốn mươi mét, họ tìm thấy nước ngầm và hút nước lên, bơm đầy bể chứa. Giờ đây đàn ông Brolmo có thể bắt đầu xây dựng những căn nhà bằng gạch bùn và biến sa mạc hoang thành một quê hương mới, xanh tươi cho gia đình họ. Nhưng những phụ nữ và trẻ em đầu tiên phải sống sót qua hành trình đến Skardu.
Trong thời gian ở trong hang, Fatima Batool không thể ngừng khóc. Và Aamina, người luôn luôn an ủi đứa em út của mình, đã không thể chăm sóc ngay cả cho chính bản thân mình. Những vết thương thể xác từ mảnh pháo của Aamina thì nhẹ, nhưng tổn thương đã ăn sâu qua da thịt. Kể từ ngày viên đạn pháo nổ gần bên cô ở miệng hang, sau khi cô đã hoảng sợ thét lên và đổ sụp, cô không nói gì cả, không một lời nào. Một vài buổi sáng, chen chúc trong hang cùng những người khác, khi đạn pháo rơi đều một cách đặc biệt hung hãn, cô run người và phát ra tiếng van xin thút thít. Nhưng đó là tiếng kêu của một con vật, không hề là tiếng nói của một con người, và không tạo cho Fatima niềm an ủi.
“Cuộc sống trong hang thật khắc nghiệt.” bạn của Fatima, Nargiz Ali, nói. “Làng Brolmo của chúng em là một nơi rất đẹp, với những cây mơ và cây anh đào, trên một bờ dốc bên sông Indus. Nhưng chúng em chỉ có thể nhìn thoáng ra ngoài và trông thấy làng đang bị hủy diệt. Chúng em không thể đi ra đó. Lúc đó, em là một bé gái nhỏ nhắn và mọi người đã phải nhanh chóng mang em vào trong hang bất cứ khi nào đạn pháo bắt đầu rơi xuống. Em không thể ra ngoài chơi đùa hoặc trông coi súc vật, thậm chí là hái trái cây đang chín và thối rữa đi.
“Trong những ngày mưa, hoặc khi tuyết rơi, việc nấu ăn hay ngủ trong hang rất khó khăn. Nhưng chúng em vẫn ở đó một thời gian dài, vì chỉ bên kia nullah là Ấn Độ, và thật quá nguy hiểm để ra ngoài.”
Một ngày kia, Nargiz nói, khi trở về hang sau khi lục tìm đồ dự trữ trong đống đổ nát ở nhà mình, chú Hawalda Abrahim của em đã trúng một trái pháo lẻ. “Chú ấy là người đàn ông rất đáng yêu và bọn em muốn đến với chú ngay, nhưng phải đợi đến tối, khi đã chắc chắn đạn pháo sẽ không rơi xuống nữa, để mang chú em vào hang.” Nargiz nói. “Thông thường, người ta sẽ tắm rửa xác sau khi chết. Nhưng chú ấy quá tả tơi, bọn em không thể tắm rửa cho chú, chỉ có thể gom xác chú vào tấm vải.”
Vài người đàn ông còn lại ở Brolmo triệu tập một jirga và sau đó thông báo cho tất cả trẻ em như Fatima và Nargiz rằng đã đến lúc phải can đảm. Họ phải liều bước ra ngoài và đi một quãng đường dài mà không có thức ăn, vì việc ở lại trong hang không thể được coi là một cuộc sống.
Họ gói ghém chút ít gì có thể thu vét được từ những căn nhà của mình và rời nhà lúc nửa đêm, đi về ngôi làng lân cận mà họ cho là đủ cách xa khỏi pháo binh Ấn Độ để được an toàn. Sáng hôm đó, lần đầu tiên sau nhiều tháng, họ vui sướng nhìn mặt trời mọc ngoài trời thoáng đãng. Nhưng trong lúc họ đang nướng bánh kurba cho chuyến đi thì đạn pháo bắt đầu rơi xuống, hướng dần về phía họ từ đáy thung lũng. Một trinh sát viên trên sườn núi phía nam đã nhìn thấy họ, Fatima tin như vậy, và đã hướng dẫn hỏa lực bắn trên đường đi.
“Mỗi khi một quả đạn nổ, Aamina run rẩy, kêu khóc và ngã xuống đất.” Fatima nói. “Nơi đó không có hang, do đó tất cả bọn em phải chạy. Em xấu hổ vì đã quá sợ nên không kéo chị theo và bỏ chạy để tự cứu mình. Em sợ chị ấy bị giết chết, nhưng đối với chị, ở lại một mình còn đáng sợ hơn đạn pháo, và chị đã chạy đến với những người còn lại trong làng.”
Sau ba tuần, những người sống sót của làng Brolmo đã đi về phía tây bắc. “Bọn em thường đi trên những lối đi mà muông thú đã tạo ra, những lối đi không hề dành cho người. Bọn em phải bỏ lại tất cả kurba trong lửa khi đạn pháo bắt đầu rơi, do đó bọn em rất đói. Mọi người chặt cây dại làm thức ăn và ăn những loại quả nhỏ để duy trì sự sống, ngay cả khi những thứ đó gây đau bụng.”
Sau khi sống sót qua hành trình gian khổ, những người dân cuối cùng của làng Brolmo đã đến được Skardu, kiệt sức và đói khát, quân đội hướng dẫn họ đến nhà mới. Ở đó, trong những đụn cát gần sân bay, Fatima và những người sống sót khác sẽ bắt đầu quá trình lâu dài để học cách quên đi những gì họ đã phải chịu đựng và để bắt đầu trở lại. Mọi người, trừ Aamina Batool. “Khi chúng em đến làng mới, Aamina nằm xuống và không bao giờ dậy nữa. Không ai có thể làm cho chị ấy sống lại, và ngay cả việc cuối cùng là được an toàn cùng với cha và các cậu dường như cũng không làm chị ấy vui nữa. Chị chết sau vài ngày.”
Năm năm sau, nói về cái chết của chị mình, nỗi đau khổ trên nét mặt Fatima trông tươi nguyên như trong ngày hôm đó, khi cô để cho kí ức vụt trở về trên bề mặt trước khi nén nó xuống trở lại.
Ngồi tại bàn của mình, trong lớp năm của trường nữ dành cho người tị nạn Gulgori mà CAI đã xây trên những đụn cát gần sân bay Skardu vào mùa hè năm 1999, lúc cao điểm của vụ xung đột Kargil, Fatima Batool, mười lăm tuổi, để tấm khăn choàng rũ xuống che khuôn mặt ẩn nấp phía sau trước quá nhiều câu hỏi.
Bạn cùng lớp của em, Nargiz Ali, lúc đó mười bốn tuổi tiếp nối câu chuyện và giải thích vì sao mình ngồi ở chiếc bàn này, dưới tấm bản đồ thế giới nhiều màu, vuốt ve quyển tập mới, cây bút chì và cái gọt bút, được chu cấp bởi một tổ chức từ thiện có trụ sở chính tại một nơi mà em không thể tìm ra trên bản đồ dù đã cố - Bozeman, Montanna.
Nargiz nói, “Khi đến nơi sau chuyến đi dài, dĩ nhiên chúng em rất hạnh phúc được gặp gia đình mình. Nhưng sau đó, nhìn vào nơi mà chúng em cho là để sống, em cảm thấy sợ hãi và bất an. Không nhà cửa. Không cây cối. Không nhà thờ. Không có bất cứ tiện ích nào. Rồi Syed Abbas đưa một Angrezi to lớn đến; ông ấy nói nếu chúng em sẵn lòng làm việc siêng năng, ông ấy sẽ giúp chúng em xây dựng một ngôi trường, và như ông biết, ông ấy đã giữ lời hứa của mình.”
Các học sinh lớp năm ở trường nữ dành cho người tị nạn Gultori, như Fatima và Nargiz, học trễ hơn phần lớn bạn bè cùng lứa. Vì việc giáo dục chính thức chỉ bắt đầu sau khi các em chạy đến từ làng quê của mình, độ tuổi bình quân của học sinh lớp năm ở đây là mười lăm. Anh em trai của các em đi bộ một giờ để đến những trường học của chính phủ ở các làng xung quanh, những trường này nhận hầu hết các học sinh nam là người tị nạn. Nhưng đối với 129 em gái Gultori chưa từng đi học, ngôi trường này là một trong những điểm sáng đơn độc ở cuối một đường hầm dài của sợ hãi và trốn chạy.
Đó là lí do, bất chấp cuộc nói chuyện kéo dài về thử thách mà mình đã gánh chịu, Fatima Batool vén khăn choàng sang một bên và ngồi thẳng lưng ở bàn mình, để kể cho những vị khách thêm một điều nữa. “Em nghe một số người nói người Mỹ không tốt.” cô nói nhỏ nhẹ. “Nhưng chúng em yêu người Mỹ. Họ là những người tốt nhất đối với chúng em. Họ là những người duy nhất đã quan tâm giúp đỡ chúng em.”
Trong những năm gần đây, một số người tị nạn đã trở về Gultori, đến học tại hai ngôi trường mà Viện Trung Á đã thành lập, được đục vào trong hang đá để đảm bào an toàn cho học sinh, tránh những quả đạn pháo vẫn còn rơi xuống từ Ấn Độ bất cứ khi nào quan hệ giữa hai nước bị nguội lạnh. Nhưng Nargiz và Fatima ở lại làng mới bên ngoài Skardu. Cả hai đều cho rằng, giờ đây đó là quê hương của mình.
Bên ngoài khoảnh sân cát của ngôi trường năm phòng màu vàng đất, những dãy nhà gạch đất ngăn nắp chạy dài về phía chân trời, một số thậm chí còn được trang bị với biểu tượng cao nhất của sự xa hoa và định cư vĩnh viễn: chiếc ăngten đĩa. Và phủ bóng những căn nhà đó, nơi từng là những đụn cát tàn nhẫn, những cây anh đào được nuôi dưỡng bởi chương trình đưa nước lên cao, mọc lên sum suê và xanh tốt, trổ hoa trên cát như những học sinh về nhà sau buổi học dưới những tán cây, những bé gái của Gultori.