Chương 21 Đôi giày của Rumsfeld
Hôm nay ở Kabul, những người đàn ông cạo sạch râu xoa xoa mặt họ. Một ông lão với bộ râu bạc mới cắt tỉa nhảy múa trên đường phố, cầm trong tay chiếc máy thu băng phát ra điệu nhạc ầm ầm bên tai.Taliban, kẻ cấm âm nhạc và ra lệnh cho đàn ông phải để râu, đã ra đi.
- Kathy Gannon, ngày 13 tháng 11 năm 2001, tường thuật cho hãng tin AP
Các phi công chơi trò chơi giành ghế ở độ cao mười nghìn sáu trăm mét. Cứ mỗi mười phút một người trong số họ nhường buồng lái của chiếc 727 cũ kĩ và một phi công khác thế chỗ. Tám cơ trưởng nôn nóng tụm lại ở phía trước cabin trống khách một nửa, nhẫn nại nhâm nhi trà và hút thuốc trong khi chờ đến phiên mình cầm lái. Với bảy trong số tám chiếc Boeing của hàng không Afghanistan không hoạt động được sau khi bị trúng bom và đạn cối, chuyến bay hai giờ bốn mươi phút từ Dubai đến Kabul này là một cơ hội để mỗi phi công ghi được thêm một ít giờ bay quý báu trên chiếc máy bay duy nhất còn cất cánh được của đất nước này.
Mortenson ngồi ở giữa các phi công và mười lăm nữ tiếp viên đang tụm lại quanh tủ thức ăn của họ ở cuối cabin. Cứ mỗi hai phút từ khi rời khỏi Dubai, một lực lượng đặc nhiệm luân phiên của những phụ nữ Afghanistan bẽn lẽn chạy nhanh tới trước để rót đầy Coca vào chiếc cốc nhựa của Mortenson. Giữa những lần đó, Mortenson càng lúc càng ngấm cafein ép mũi vào ô kính cửa sổ, nghiên cứu đất nước đã lẻn vào trong những giấc mơ của anh kể từ khi anh bắt đầu làm việc ở Pakistan.
Họ tiến đến gần Kabul từ phía nam, và khi người cơ trưởng luân phiên thông báo rằng họ đang bay qua trên Kandahar, Mortenson căng người vừa để giữ thẳng chiếc ghế gãy vừa để nhìn ra những chi tiết thành trì trước đây của Taliban. Nhưng từ chín nghìn mét, anh chỉ có thể thấy một xa lộ cắt ngang một đồng bằng rộng giữa những ngọn đồi màu nâu và một vài bóng râm có thể là của những tòa nhà. Mortenson nghĩ, có lẽ đó là điều mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Rumsfeld nói khi than phiền là không còn có những mục tiêu tốt ở Afghanistan và thay vào đó, gợi ý tấn công Iraq.
Nhưng những quả bom Mỹ, cả bom thông minh lẫn không thông minh, đã sớm rơi như mưa xuống cảnh quan khô cằn này. Trên màn hình máy tính ở tầng hầm nhà mình, Mortenson đã nghiên cứu ảnh chụp của những người lính Mỹ, trong căn nhà bị chiếm của nhà lãnh đạo tối cao của Taliban là Mullah Omar ở Kandahar, ngồi trên chiếc giường lớn, theo phong cách Bavarian sơn màu lòe loẹt của ông ta, phô bày chiếc két khóa mà họ đã tìm thấy dưới gầm giường, đầy những tờ một trăm đôla mới cứng.
Và lúc đầu, Mortenson đã ủng hộ cuộc chiến ở Afghanistan, nhưng khi anh đọc các báo cáo về thương vong của dân thường tăng lên, nghe chi tiết trong những cuộc gọi điện thoại cho nhân viên của mình trong các trại tị nạn Afghanistan về số trẻ em bị giết chết khi chúng nhặt lầm những vỏ bọc màu vàng của những trái bom chùm chưa nổ, rất giống với những gói thức ăn màu vàng mà máy bay Mỹ cũng rải xuống như một cử chỉ nhân đạo, thì thái độ của anh đã bắt đầu thay đổi.
“Vì sao các nhân viên Lầu Năm góc công bố những con số về người của Al Qaeda và Taliban bị giết chết bởi những đợt ném bom, nhưng lại đưa tay lên trời khi được hỏi về thương vong của dân thường?” Mortenson đã viết trong một bức thư gửi ban biên tập được đăng trên tờ Washington Post ngày 8 tháng 12 năm 2001. “Còn đáng sợ hơn là sự miễn cưỡng của giới truyền thông để đặt câu hỏi với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Rumsfeld về chuyện đó trong những buổi thông tin báo chí.”
Mỗi đêm, khoảng 2 giờ sáng, Mortenson thức dậy và nằm yên bên Tara, cố để gạt những con số thương vong của dân thường ra khỏi đầu và ngủ trở lại. Nhưng anh biết rằng nhiều dân thường dưới tầm bom của Mỹ là những trẻ em đã theo học tại các lớp học do CAI tài trợ trong trại tị nạn Shamshatoo gần Peshawar, trước khi các gia đình thấy mệt mỏi vì cuộc sống tị nạn khắc nghiệt và quay trở lại Afghanistan. Khi nằm trên giường, bất chấp bóng tối, những khuôn mặt của bọn trẻ tụ lại một cách rõ nét, và Mortenson lại lẻn xuống tầng hầm và bắt đầu gọi điện thoại cho Pakistan, cố để biết những tin tức mới nhất. Từ những mối quan hệ của mình trong quân đội, anh biết rằng đại sứ Taliban, Abdul Salaam Zaeef, người mà anh đã cùng uống trà ở Marriot, đã bị bắt, trùm mặt, còng tay và gửi sang cơ sở giam giữ ngoài pháp luật ở Guantanamo, Cuba.
“Trong mùa đông, việc kiểm tra thư từ của tôi giống như chơi trò rulet.” Mortenson nói. “Mỗi lần như thế, tôi sẽ nhận được một vài lá thư động viên và những khoản hiến tặng. Rồi lá thư tiếp theo mà tôi mở ra nói rằng Chúa chắc chắn sẽ bắt tôi chết một cách đau đớn vì đã giúp đỡ bọn Hồi giáo.” Mortenson thực hiện những bước mà mình có thể làm để bảo vệ gia đình và đăng kí một số điện thoại không được liệt kê trong danh bạ. Sau khi người đưa thư biết được những mối đe dọa chết người, với nỗi lo sợ bệnh than vẫn còn trong tâm trí mọi người, cô ta bắt đầu cho kiểm dịch những lá thư gửi cho anh mà không ghi địa chỉ người gửi và chuyển những lá thư này cho FBI.
Một trong những lá thư động viên nhiều nhất là từ một bà cụ nhân từ ở Seattle tên là Patsy Collins, là người đã quyên tặng đều đặn cho CAI. “Tôi đã đủ già để nhận thức sự phi nghĩa của cuộc Chiến tranh Thế giới lần II, khi chúng ta chống lại tất cả những người Nhật và giam giữ họ mà không có lí do chính đáng.” bà viết. “Những bức thư căm ghét khó chịu đó là một ủy thác cho anh để đi ra và nói với người Mỹ về điều mà anh biết về những người Hồi giáo. Anh đại diện cho lòng tốt và lòng can đảm mà nước Mỹ cần có. Hãy đi ra ngoài, đừng sợ, và quảng bá thông điệp vì hòa bình của mình, hãy làm cho việc này thành một khoảng thời gian tốt đẹp nhất của anh.”
Mặc dù tâm trí anh ở cách xa nửa vòng trái đất, Mortenson nhận lời khuyên của Collins và bắt đầu lên kế hoạch cho những buổi nói chuyện, bắt đầu một chiến dịch hiệu quả nhất mà anh có thể làm được. Suốt tháng mười hai và tháng giêng, anh đã đánh bại sự sợ hãi và xuất hiện trước những đám đông lớn ở cửa hàng flagship(21) của REI, một thương hiệu bán đồ dùng cho việc dã ngoại nổi tiếng ở Seattle, trong một buổi nói chuyện do AARP tài trợ tại Minneapolis, tại hội nghị các quản thủ thư viện bang Montana (với Julia Bergman) và tại câu lạc bộ các nhà thám hiểm ở Manhattan.
21. Cửa hàng chính của nhà bán lẻ được thiết kế để phục vụ đối tượng khách hàng riêng. Flagship được đặt trong các khu mua sắm nổi tiếng, là điểm đến của những người mua sắm có thu nhập cao.
Một số buổi nói chuyện không có đông người đến tham dự. Ở buổi nói chuyện dành riêng cho câu lạc bộ Yellow-stone ở Big Sky Ski Area, Nam Bozeman, Mortenson được dẫn xuống một phòng nhỏ ở tầng hầm chỉ có sáu người ngồi trên những chiếc ghế bọc nệm căng cứng, quanh một lò sưởi bằng gas, chờ để nghe anh nói. Nhớ lại buổi nói chuyện ở Minnesota, với một hai trăm ghế trống hóa ra cũng đã trở nên tốt đẹp như thế nào, anh tắt lò sưởi, phủ một tấm vải trắng nhăn nheo lên trên đó, và trình chiếu những thước phim slide trong khi nói một cách say sưa về những lỗi lầm mà anh tin là nước Mỹ đã phạm phải trong việc tiến hành chiến tranh.
Mortenson chú ý đến một phụ nữ quyến rũ khoảng độ ba mươi tuổi cuộn người trong ghế dựa, mặc một chiếc áo len tay dài, quần jean, đội nón bóng chày và lắng nghe anh với vẻ chăm chú đặc biệt. Khi anh thu xếp màn chiếu, người phụ nữ đó tiến đến và tự giới thiệu về mình. “Tôi là Mary Bono. Đúng hơn là Hạ nghị sĩ Mary Bono. Tôi là người thuộc đảng Cộng hòa ở Palm Springs và tôi phải nói rằng tôi đã học được nhiều từ anh trong một giờ vừa rồi hơn từ tất cả những buổi thông tin báo chí mà tôi đã dự ở Đồi Capitol kể từ 11/9. Chúng tôi phải đưa anh đến đó.” Hạ nghị sĩ Bono đưa danh thiếp cho Mortenson và đề nghị anh gọi điện thoại cho bà khi Quốc hội nhóm họp trở lại để xếp lịch cho một buổi nói chuyện ở Washington.
Trong tay một cơ trưởng khác nữa, chiếc Ariana 727 bắt đầu hạ cao độ hướng về Kabul, chúi xuống trong một lòng chảo bao quanh bởi những ngọn núi lởm chởm. Các nữ tiếp viên bồn chồn thực hiện dua, cầu Thánh Allah cho họ hạ cánh an toàn. Họ nghiêng cánh gần những ngọn đồi Logar, nơi đó Mortenson có thể phân biệt được những xác xe tăng thời Xô Viết của Taliban cháy đen được giấu trong những miệng, hang và những trụ đá, nhưng cũng đã là những mục tiêu dễ dàng cho những vũ khí hiện đại có laser hướng dẫn.
Trong nhiều tháng anh đã quan tâm trao đổi thư từ bằng email với Kathy Gannon về nơi này. Gannon đã tìm cách trở lại thủ đô Afghanistan từ sau khi anh gặp cô lần cuối ở Marriot. Từ Gannon, anh được biết những lực lượng Taliban bất kham đã tháo chạy khỏi thành phố khi xe tăng của Liên minh Phương Bắc càn quét phía nam, được hỗ trợ bởi máy bay chiến đấu Mỹ tập trung hỏa lực vào “Đường phố của những vị khách mời”, khu phụ cận sang trọng nhất của rìa thành phố Kabul, nơi sinh sống của các chiến binh Ả Rập liên minh với Taliban. Và từ Gannon, Mortenson được biết người dân đã nhảy múa như thế nào trên đường phố với những chiếc máy thu thanh và máy cassette cất giấu đã lâu trỗi nhạc khắp Kabul trong ngày 11 tháng 11 năm 2001, ngày mà Taliban, vốn cấm mọi thứ nhạc, sau cùng đã tháo chạy.
Giờ đây, giữa tháng giêng năm 2002, vẫn còn tiếng súng dữ đội ở Núi Trắng xa xôi, nơi những lực lượng mặt đất Mỹ đang cố quét sạch những ổ kháng cự trong giao thông hào. Nhưng Mortenson tin rằng Kabul, trong tay Liên minh Phương Bắc và những đồng minh Mỹ của họ, có được sự an toàn lâu dài đủ cho anh đến viếng thăm.
Quãng đường đi bộ từ máy bay đến ga đến, ngang qua những toán tháo mìn ngồi trong xe ủi bọc thép đang ủi dọn hai mép đường xe, khiến anh tự hỏi bản thân về sự khôn ngoan trong chuyến đi của mình. Mảnh vụn những chiếc máy bay khác của hàng không Ariana còn nguyên ngay nơi chúng bị ném bom. Phần cánh và đuôi với màu sơn bị cháy đen và phồng rộp, lù lù trong quang cảnh như những lá cờ cảnh báo. Và những thân máy bay nằm đó như những bộ xương cá voi đang phân hủy dọc theo đường băng đầy các miệng hố.
Bên cửa ga đến, đong đưa nhẹ trong gió là một khung sườn không thể nhầm lẫn của một chiếc Volkswagen con bọ cháy đen lật úp nằm thăng bằng. Động cơ xe và nội thất xe đã bị tháo sạch.
Nhân viên hải quan đơn độc của Kabul ngồi sụp tại bàn làm việc trong ga đến không có điện và kiểm tra sổ thông hành của Mortenson dưới một luồng ánh sáng rọi xuống qua một trong nhiều lỗ đạn pháo đã xuyên thủng mái. Hài lòng, ông ta đóng dấu sổ thông hành một cách uể oải và ngoắc tay cho Mortenson đi qua bức tượng nhà lãnh đạo Liên minh Phương Bắc quá cố Shah Ahmed Massoud được các chiến binh của ông đắp lên tường khi họ chiếm sân bay.
Mortenson đã quen với việc được chào đón ở các sân bayPakistan. Khi đến Islamabad, khuôn mặt cười toe của Suleman là điều đầu tiên mà anh nhìn thấy sau khi làm thủ tục hải quan. Ở Skardu, Faisal Baig sẽ hù dọa nhân viên an ninh để được vào tận máy bay trên đường băng, để có thể thực hiện nhiệm vụ cận vệ ngay khi Mortenson xuống mặt đất.
Nhưng bên ngoài ga đến của sân bay Kabul, Mortenson thấy mình đơn độc với một đám tài xế taxi hung hăng. Anh dựa vào mẹo cũ của mình để chọn một tài xế có vẻ như ít quan tâm nhất, ném chiếc túi xách vào sau xe và leo vào ngồi bên cạnh tài xế.
Abdullah Rahman, như phần lớn người Kabul, đã bị biến dạng bởi chiến tranh. Anh ta không có mí mắt. Và phần bên phải khuôn mặt căng và bóng, vốn đã bị trầy xước bởi một trái mìn nổ bên vệ đường khi anh lái xe qua. Hai bàn tay anh ta đã bị bỏng nặng đến mức không thể nắm chặt tay lại trên vô lăng. Tuy nhiên anh ta tỏ ra là một hoa tiêu khéo léo giữa dòng giao thông hỗn loạn của Kabul.
Abdullah, như phần lớn dân cư Kabul, làm nhiều công việc khác nhau để nuôi gia đình. Với 1,2 đôla một tháng, anh làm việc ở thư viện của Bệnh viện Quân đội thành phố, canh giữ ba thùng có khóa chứa những quyển sách bìa cứng ẩm mốc mà không rõ bằng cách nào đã còn sót lại từ thời Taliban, vốn có thói quen đốt bất cứ quyển sách nào ngoại trừ kinh Koran. Anh ta lái xe chở Mortenson đến nơi ở của mình trong tuần tới, nhà khách Hòa Bình Kabul lỗ chỗ vết đạn, không thực như cái tên có vẻ còn quá sớm của nó đối với những gót giày chiến tranh.
Trong căn phòng nhỏ không điện không nước của mình, từ những chấn song cửa sổ, Mortenson nhìn vào những tòa nhà thương tích dọc theo con đường Bagh-e-Bala náo nhiệt, và những công dân thương tích đi khập khiễng giữa các tòa nhà, cố hình dung ra hoạt động sắp tới của mình. Nhưng anh có sẵn một kế hoạch hành động cũng khó khăn như việc phân biệt ra những đặc điểm của những phụ nữ lượn lờ qua cửa sổ, trùm kín trong những chiếc áo burkha màu xanh như mực.
Trước khi đến, anh đã có một ý định mơ hồ về việc thuê một chiếc xe và đi về phía bắc, cố liên lạc với những kị sĩ Kirghiz, những người đã yêu cầu anh giúp đỡ ở Zuudkhan. Nhưng Kabul rõ ràng là còn quá kém an ninh khiến cho việc đi về vùng quê một cách mù quáng giống như một hành động tự sát. Ban đêm, rét run trong căn phòng không lò sưởi, Mortenson lắng nghe tiếng súng tự động vọng về từ Kabul và những rung động do tên lửa của Taliban bắn vào thành phố từ những ngọn đồi xung quanh.
Abdullah giới thiệu Mortenson với người bạn Pathan của mình là Hashmatullah, một người dàn xếp trẻ đẹp từng là chiến binh Taliban, cho đến khi các vết thương khiến cho anh ta trở thành một của nợ trên chiến trường. “Như nhiều người của Taliban, Hash, như cách anh ta đề nghị anh gọi, chỉ là một jihadi trên lí thuyết.” Mortenson giải thích. “Anh ta là một chàng trai thông minh làm một kĩ thuật viên vô tuyến viễn thông thì sẽ tốt hơn nhiều so với một chiến binh Taliban, nếu như có một công việc như vậy. Nhưng Taliban đã trả cho anh ta ba trăm đôla khi anh ta tốt nghiệp từ madrassa để gia nhập với bọn chúng. Vì vậy, anh ta đã đưa cho mẹ mình số tiền đó và đến trình diện để được huấn luyện về vũ khí.”
Hash đã bị thương khi một quả tên lửa của Liên minh Phương Bắc nổ vào bức tường mà anh ta đang nấp. Bốn tháng sau, những vết thương trên lưng anh ta chảy mủ vì nhiễm khuẩn và hai lá phổi thủng rít lên khi gắng sức. Nhưng Hash hết sức vui mừng khi không còn những giới hạn khắt khe của Taliban và đã cạo nhẵn bộ râu mà anh ta bị buộc phải để, và sau khi Mortenson băng các vết thương và điều trị bằng một đợt kháng sinh, anh ta đã sẵn sàng thề trung thành với người Mỹ duy nhất mà anh ta từng gặp.
Như hầu hết mọi thứ khác ở Kabul, các trường học của thành phố đã bị hư hại trầm trọng trong giao tranh. Những trường này được chính thức công bố sẽ mở cửa trở lại vào cuối mùa xuân năm đó. Mortenson nói với Hash và Abdullah rằng anh muốn xem các trường học ở Kabul như thế nào, do đó cả ba đã khởi hành cùng nhau trong chiếc Toyota màu vàng, cố tìm ra những ngôi trường. Mortenson được biết là chỉ có 20% trong số 159 trường học ở Kabul còn đủ tốt để bắt đầu tổ chức các lớp học. Những trường này phải phấn đấu để có chỗ cho ba trăm nghìn học sinh học theo ca, tổ chức những lớp học ngoài trời, hay trong những tòa nhà đã quá tàn tạ, không thực sự cung cấp chỗ che mưa nắng cho học sinh.
Trường Trung học Durkhani là một ví dụ tiêu biểu về những nhu cầu không được đáp ứng của các học sinh Afghanistan. Hiệu trưởng Uzra Faizad nói với Mortenson qua bộ áo burkha màu xanh lơ rằng khi trường của bà mở cửa lại, bà cố sắp xếp cho năm nghìn năm trăm học sinh học bên trong và xung quanh tòa nhà thời Xô Viết nơi mà đội ngũ giáo viên chín mươi người của bà đã dự định dạy ba ca một ngày. Danh sách đăng kí học dự kiến của trường Durkhani tăng lên từng ngày, Uzra nói, khi các em gái ra khỏi nơi ẩn nấp sau khi tin chắc rằng Taliban, vốn cấm đoán việc giáo dục dành cho các bé gái và phụ nữ, đã ra đi.
“Tôi thực sự thấy choáng khi nghe câu chuyện của Uzra.” Mortenson nói. “Ở đây, người phụ nữ mạnh mẽ kiêu hãnh này cố gắng thực hiện điều không thể thực hiện được. Bức tường bao quanh ngôi trường của bà đã đổ nát thành gạch vụn. Mái trường đã sập, dẫu vậy bà vẫn đến làm việc hằng ngày, sắp xếp mọi chuyện lại với nhau vì bà tha thiết cho rằng giáo dục là cách duy nhất để giải quyết các vấn đề của Afghanistan.”
Mortenson đã có ý định đăng kí hoạt động cho CAI ở Kabul để có thể xin được bất cứ giấy phép cần thiết nào cho việc bắt đầu xây dựng các trường học. Nhưng bộ máy hành chính cũng không hoạt động như hệ thống điện và điện thoại của thành phố. “Abdullah lái xe chở tôi từ bộ này sang bộ khác nhưng không có ai ở đó. Do đó tôi quyết định quay trở lại Pakistan, huy động một số nguyên vật liệu cho trường học và bắt đầu việc giúp đỡ bất cứ khi nào mình có thể.”
Sau một tuần ở Afghanistan, Mortenson được cấp một chỗ ngồi trên chuyến bay đến Peshawar của Hội Chữ Thập Đỏ. Sau Afghanistan, những vấn đề của Pakistan dường như dễ sắp xếp hơn, Mortenson nghĩ khi đến thăm trại tị nạn Shamshatoo để kiểm tra cho chắc chắn rằng các giáo viên nhận được đủ lương từ CAI. Giữa Shamshatoo và biên giới, anh dừng lại và chụp ảnh ba đứa bé trai đang ngồi trên những giỏ khoai. Qua ống ngắm, anh nhìn ra một điều gì đó mà mình chưa nhìn thấy bằng mắt thường. Những cậu bé này đều có một cái nhìn ám ảnh giống hệt nhau, cái nhìn mà anh đã thấy ở Kabul. Mortenson đặt máy ảnh xuống và hỏi chúng bằng tiếng Pashto, xem chúng có cần gì không.
Đứa lớn nhất, chừng mười ba tuổi tên là Ahmed, dường như bớt căng thẳng khi nói chuyện với một người lớn đồng cảm. Cậu bé giải thích rằng mới một tuần trước đây, cha của cậu đang cẩn thận mang khoai tây mua được ở Peshawar về ngôi làng nhỏ của họ ở bên ngoài Jalalabad để bán thì bị giết chết bởi một tên lửa bắn ra từ một chiếc máy bay Mỹ, cùng với mười lăm người buôn bán thực phẩm và nhu yếu phẩm khác.
Với hai đứa em, Ahmed đã quay trở lại Peshawar mang về một mớ khoai tây khác được những người bán hàng thương hại khi biết chuyện của cha chúng đã bán giảm giá, và đang cố thụ xếp để trở về với mẹ và các em gái, vẫn còn đang than khóc ở nhà.
Ahmed nói một cách thẳng thừng về cái chết của cha mình, và điều quan trọng là cậu kể lại câu chuyện đó với một công dân của một quốc gia mà các lực lượng vũ trang đã giết chết cha mình đã không tạo ấn tượng mạnh mẽ đối với cậu, khiến Mortenson biết chắc rằng cậu bé đang đau khổ vì cú sốc đó.
Nếu là anh, anh cũng như thế. Mortenson đã trải qua ba đêm mất ngủ ở Home Sweet Home, sau khi Suleman đưa anh về từ Peshawar, cố để xử lí những gì anh đã thấy ở Afghanistan. Và tiếp sau sự nghèo đói của Kabul và trại tị nạn, Mortenson trông chờ việc đến thăm vùng Skardu quen thuộc. Ít nhất là cho đến khi anh gọi cho Parvi để có thông tin cập nhật về tình trạng của các trường học của CAI.
Parvi nói với Mortenson rằng vài ngày trước đó, lúc nửa đêm, một nhóm côn đồ do Agha Mubarek, một trong những giáo sĩ làng có thế lực nhất ở bắc Pakistan, đã tấn công dự án mới nhất của họ, một trường hỗn hợp nam-nữ mà họ gần hoàn tất ở làng Hemasil, trong thung lũng Shigar. Chúng đã cố phóng hỏa, Parvi báo cáo. Nhưng những dầm mái và khung cửa sổ gỗ chỉ bị nám đen chứ không bắt cháy. Do đó bọn côn đồ của Agha Mubarek đã vung búa tạ và đập đổ tường - những bức tường gạch đá khối đã được xây tô cẩn thận - thành một đống gạch vụn.
Lúc Mortenson đến Skardu để triệu tập một buổi họp khẩn cấp về trường Hemasil, anh được chào đón bằng nhiều tin xấu khác. Agha Mubarek đã ban hành một fatwa, cấm Mortenson hoạt động ởPakistan. Còn rắc rối hơn cho Mortenson là một nhà chính trị có thế lực mà anh quen biết là Imran Nadim đã chiều theo ý phe Shia bảo thủ, và tuyên bố công khai ủng hộ Mubarek.
Ngồi uống trà, ăn bánh ngọt trong phòng ăn dành riêng trên lầu khách sạn Indus, Mortenson triệu tập một jirga những người ủng hộ nòng cốt của mình.
“Mubarek muốn nhận hối lộ.” Parvi thở dài nói. “Giáo sĩ này đã tiếp cận hội đồng làng Hemasil và đòi một khoản hối lộ để cho phép trường được xây dựng. Khi họ từ chối, hắn đã phá hủy trường và ban hành fatwa của hắn.”
Parvi giải thích rằng mình đã nói chuyện với Nadim, một nhà chính trị ủng hộ Mubarek, và ông ta đã gợi ý vấn đề có thể được giải quyết với một khoản tiền. “Thật điên rồ.” Mortenson nói. “Tôi muốn đội vũ trang của những đồng minh của tôi trong quân đội xông vào làng của Mubarek và dọa cho hắn rút lui.” Parvi khuyên một giải pháp lâu dài hơn. “Nếu anh lại gần nhà gã cướp đó với binh lính xung quanh, gã sẽ hứa với anh bất cứ chuyện gì, rồi làm ngược lại ngay khi những tay súng rời đi.” Parvi nói. “Chúng ta cần dàn xếp chuyện này một lần cho xong ở tòa án, Tòa án Shariat.”
Mortenson đã nghe theo lời khuyên của Parvi. Với ông bạn già trưởng làng Mehdi Ali của mình ở Hemasil, là người đi đầu trong việc xây dựng ngôi trường, Parvi sẽ kiện lên Tòa án Hồi giáo Skardul Hồi giáo chống lại Hồi giáo. Parvi khuyên Mortenson phải giữ khoảng cách với cuộc chiến pháp lí này và tiếp tục công việc rất quan trọng của mình ở Afghanistan.
Mortenson gọi điện cho ban giám đốc từ Skardu, báo cáo những gì anh đã thấy ở Afghanistan và yêu cầu được phép mua hàng hóa tiếp tế cho trường học để chuyển sang Kabul. Trong sự ngạc nhiên của anh, Julia Bergman đề nghị bay sang Pakistan để đi cùng trong chuyến đi mà anh đã dự trù bằng đường bộ từ Peshawar đếnKabul. “Đó là một việc rất can đảm.” Mortenson nói. “Vẫn còn có giao tranh dọc theo lộ trình của chúng tôi, nhưng tôi không thể nói Julia đừng đến. Bà biết những phụ nữ Afghanistan đã chịu đau khổ như thế nào dưới thời Taliban và bà hết sức mong muốn giúp đỡ họ.”
Tháng 4 năm 2002, Julia Bergman tóc vàng, mặc một bộ shalwar kamiz mềm mại và đeo một mặt dây chuyền sứ quanh cổ ghi dòng chữ “Tôi muốn sử dụng hết năng lực của mình khi tôi chết.” vượt qua đồn biên giới Landi Khotal với Mortenson và leo lên chiếc xe tải nhỏ mà bạn của anh tài xế taxi Sulivan là Monir đã sắp xếp cho chuyến đi của họ đến Kabul. Băng ghế sau và khoang chở hàng của chiếc xe chất đầy đến mui những món hàng tiếp tế cho trường học mà Bergman và Mortenson đã mua ở Peshawar. Suleman, không có hộ chiếu, đau khổ vì không thể đi cùng để bảo vệ họ. Dưới sự thúc giục của Suleman, Monir, một người Pashtun đã nghiêng người vào trong xe, bóp mạnh vào gáy của người tài xế. “Tôi xin thề, nếu có điều gì xảy ra cho sahib và memsahib này, chính tay tôi sẽ giết chết anh.”
“Tôi ngạc nhiên vì toàn bộ vùng biên giới lại rộng mở.” Mortenson nói. “Tôi không thấy lực lượng an ninh ở đâu cả. Osama và một trăm chiến binh của mình có thể đi ngay vào Pakistan mà không có ai ngăn chặn chúng lại.”
Chuyến đi hai trăm dặm đến Kabul mất mười một giờ. “Dọc đường, chúng tôi có thể thấy những chiếc xe tăng và xe quân sự cháy rụi vì bom.” Bergman nói. “Nó thật tương phản với cảnh quan vốn xinh đẹp. Ở khắp nơi, những cánh đồng đầy hoa anh túc đỏ và trắng, và phía xa xa là những ngọn núi chóp phủ tuyết khiến cho vùng quê trông có vẻ thanh bình so với thực tế.”
“Chúng tôi dừng lại để ăn và uống trà ở khách sạn Spin Ghar ở Jalalabad.” Mortenson nói, “Vốn từng là tổng hành dinh của Taliban. Trông giống như những ảnh chụp thời Chiến tranh Thế giới lần II ở Dresden sau khi bị ném bom cháy mà tôi đã thấy. Từ những người bạn đã chạy đến Shamshatoo, tôi được biết Không lực Mỹ đã ném bom trải thảm dữ dội Jalalabad bằng B52, tôi lo ngại cho sự an toàn của Julia. Tôi thấy những đôi mắt hoàn toàn căm ghét của người dân và tôi tự hỏi có bao nhiêu quả bom của chúng ta đã rơi trúng những người dân như người đàn ông bán khoai.”
Sau khi đến Kabul an toàn, Mortenson đưa Bergman đến khách sạn Intercontinental, trên một đỉnh cao nhìn bao quát cả thành phố bị thương. Intercontinental là nơi gần nhất ở Kabul còn đầy đủ chức năng để mà cho thuê. Chỉ một nửa khách sạn bị sụp đổ. Với năm mươi đôla một đêm, họ được đưa đến một phòng trong dãy nhà còn nguyên vẹn, nơi mà những cửa sổ vỡ tung đã được vá lại bằng những tấm chất dẻo và nhân viên khách sạn mang đến những xô nước nóng mỗi ngày cho họ tắm rửa.
Cùng Hash và Abdullah, hai người Mỹ đã đi tham quan hệ thống giáo dục quá tải của Kabul. Ở Viện Y học Kabul, trung tâm đào tạo bác sĩ đa khoa có uy tín nhất của đất nước, họ dừng lại để tặng sách y khoa mà một người quyên tặng của CAI, Kim Trudell ởMarblehead, Massachusetts đã yêu cầu Mortenson mang sangKabul. Chồng bà là Frederich Rimmele đã mất trên đường đến một hội nghị y khoa ở California vào ngày 11 tháng 9. Chuyến bay của ông, chuyến bay 175 của hãng United Airlines, đã tan biến thành một đám mây nhiên liệu phản lực đâm vào tòa tháp phía nam của Trung tâm Thương mại Thế giới. Trudell đã yêu cầu Mortenson mang những quyển sách y khoa của chồng mình đến Kabul, bà tin rằng giáo dục là chìa khóa để giải quyết cuộc khủng hoảng với các chiến binh Hồi giáo.
Trong giảng đường trông giống như một hang động, không được sưởi ấm, dưới một trần nhà võng xuống, Mortenson và Bergman thấy có 500 sinh viên đang chăm chú nghe một bài giảng. Họ biết ơn về những quyển sách được tặng, vì họ chỉ có mười quyển sách giáo khoa cần thiết cho khóa học giải phẫu học nâng cao, Mortenson được biết. Và 500 bác sĩ tương lai, 470 nam và 30 phụ nữ ngoan cường, luân phiên mang sách về nhà để chép lại từng chương và vẽ lại những biểu đồ phác họa bằng tay.
Nhưng ngay cả quá trình cần cù này cũng đã là một sự cải thiện về tình trạng của trường so với vài tháng trước đó. Tiến sĩ Nazir Abdul, một bác sĩ nhi khoa, giải thích rằng trong khi Taliban còn cai quản Kabul, chúng đã cấm tất cả các sách có hình ảnh minh họa và đốt công khai bất cứ quyển nào mà chúng tìm thấy. Những kẻ áp đặt có vũ trang từ Bộ Cải thiện Đức hạnh và Ngăn ngừa Tội ác đáng ghét đã đứng ở cuối giảng đường, để đảm bảo là các giáo sư của trường không vẽ những sơ đồ giải phẫu học trên bảng đen.
“Chúng tôi chỉ là những bác sĩ sách vở.” bác sĩ Abdul nói. “Chúng tôi không có những công cụ cơ bản nhất cho nghề nghiệp của mình. Chúng tôi không có tiền mua dụng cụ đo huyết áp hay ống nghe. Và tôi, một bác sĩ, trong đời mình chưa bao giờ được nhìn qua một kính hiển vi.”
Đôi tay sẹo của Abdullah lái xe đưa họ qua những hố bom. Mortenson và Bergman tham quan một cụm tám mươi làng ở phía tây Kabul gọi là Maidan Shah. Mortenson biết rằng phần lớn viện trợ nước ngoài hiện đang nhỏ giọt vào Afghanistan sẽ không bao giờ ra khỏi Kabul, và cũng như chiến lược của mình ở Pakistan, anh nóng lòng được phục vụ vùng nông thôn nghèo của Afghanistan. Ba trăm học sinh ở trường trung học Shahabudeen có nhu cầu nhiều hơn những cây viết và quyển tập mà Hash đã giúp Mortenson dỡ xuống từ chiếc taxi của Abdullah.
Các giáo viên Shahabudeen tổ chức lớp cho các em trai trong một container cũ gỉ sét. Những học sinh lớn tuổi nhất trong trường, chín cậu bé lớp chín, học trong một xe bọc thép chở người cháy sém đã bị súng chống tăng bắn bay hết các lốp xe. Thận trọng chen chúc nhau trong nắp hầm xạ thủ, mà chúng sử dụng như một cửa sổ, cả lớp bày ra vật sở hữu quý báu của mình - một quả bóng chuyền mà một nhân viên viện trợ Thụy Điển đã tặng chúng. “Người Thụy Điển có mái tóc dài màu vàng, như một con dê núi.” một cậu bé mắt sáng, tóc đầy chấy nói với Mortenson, khoe sự tiến bộ của mình trong việc học tiếng Anh.
Nhưng chính việc thiếu phòng cho các nữ sinh đặc biệt làm Mortenson đau lòng. “Tám mươi bé gái phải học ngoài trời.” Mortenson nói. “Các em đang cố duy trì lớp học, nhưng gió thổi cát quật vào mắt và đập vào bảng đen.” Các em vui sướng với những quyển vở cùng bút chì mới và giữ chặt tập vở để không bị gió thổi bay.
Khi Mortenson quay về taxi, bốn chiếc trực thăng tấn công Cobra của quân đội Mỹ bay vù vù qua trường với vận tốc cao vụt qua, cao mười lăm mét bên trên những học sinh hoảng sợ với đầy đủ những tên lửa Helfire lởm chởm nhô ra từ những ống phóng. Tấm bảng đen của các em gái bị thổi bay trong luồng gió của cánh quạt trực thăng, vỡ vụn trên nền đá.
“Ở bất cứ nơi nào mà chúng tôi đến, chúng tôi cũng thấy máy bay và trực thăng Mỹ. Và tôi chỉ có thể tưởng tượng số tiền mà chúng ta đang chi tiêu cho quân đội.” Julia Bergman nói. “Nhưng viện trợ thì ở đâu? Tôi đã nghe quá nhiều về điều mà nước Mỹ hứa hẹn với người dân Afghanistan khi tôi còn ở quê nhà - như việc tái thiết đất nước này là một trong những ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Nhưng khi ở đây, và thấy quá ít bằng chứng về sự giúp đỡ cho những trẻ em Afghanistan, đặc biệt là từ Mỹ, điều đó thực sự làm tôi thấy xấu hổ và nản lòng.”
Ngày hôm sau, Mortenson đưa Bergman đến gặp hiệu trưởng trường Durkhani, và để giao hàng tiếp tế cho năm nghìn năm trăm học sinh của Urza Faizad. Anh đã thấy các học sinh của Faizad phải leo lên những chiếc thang gỗ thô sơ để lên các lớp học tầng hai còn sót lại từ bom đạn, vì cầu thang đã bị thổi văng mất và chưa được xây dựng lại, nhưng ngôi trường vẫn đang hoạt động vượt quá công suất, dạy học ba ca mỗi ngày. Vui sướng được gặp lại Mortenson, Urza đã mời hai người Mỹ uống trà ở nhà bà.