Chương 21 Đài thượng chư ma hiện-Lâm trung kiến thê nhi
Sáng hôm sau, đến tận cuối giờ Thìn, quần hùng mới tề tựu đông đủ. Trừ những kẻ đã đăng ký thượng đài, kỳ dư đều chưa tỉnh rượu. Chiều hôm qua, họ đã tham gia 1 bữa yến tiệc vĩ đại nhất đời mình. Bàn ăn bày cả ra đường phố chính, vui vẻ, náo nhiệt đến tận nửa đêm. Rượu tuôn ra như suối, hơn vạn hào kiệt đã nhậu xả giàn, say khướt nhưng không hề xảy ra cuộc xô xát nào. Phó hội chủ Phi Đao Bảo An Hội đã khôn khéo mời Hoài Âm Vương làm chủ tọa đại yến, khiến quần hùng phải cẩn ngôn, cẩn hành. 300 giáp sĩ Vương phủ và ngàn quân lính Đăng Phong cũng tham gia giữ gìn trật tự bằng cách chia nhau ngồi rải rác khắp các bàn. Họ vừa ăn uống vừa nhắc nhở những chàng hảo hán ngông cuồng quá chén. Chính bản thân Hoài Âm Vương cũng dậy trễ nên chẳng thể trách móc ai. Giờ đây, gã uể oải ra lệnh cho Hội đồng Võ lâm khai cuộc. Trương Thiên Sư hắng giọng đọc bản danh sách ứng viên hợp lệ. Nhóm cao niên có 32 người, còn nhóm trẻ đông gấp đôi, tức 64 người. Kính lão đắc thọ, 2 cao thủ thuộc băng người già sẽ đấu trận khai mạc. Để giữ đạo công bằng, Hội đồng Võ lâm đã bốc thăm. Tấu xảo thay, họ đã bốc trúng phóc tên của Lôi Đình Cung chủ Trác Ngạn Chi và Xoa Lạp Bang chủ Nhạc Tự Chương. Sau khi Nam Thiên Tôn chết, Tự Chương ung dung chiếm lấy cơ nghiệp Nam Bắc Bang, đổi tên thành Xoa Lạp Bang. Dương Tố Vy, đệ tử Bắc Thiên Tôn được phong làm phó Bang chủ. Giới giang hồ kháo với nhau rằng nàng ta sắp trở thành kế mẫu của Nhạc Cuồng Loan. Hai đấu thủ thượng đài nét mặt rất khó coi vì họ là 2 anh em kết nghĩa. Nhạc Tự Chương vái dài, giọng hòa nhã nói với Trác Ngạn Chi : -Đại ca tuổi hạc đã cao, tội gì đưa thân già ra gánh võ lâm ? Xin đại ca nhường cho tiểu đệ gánh nặng này. Trác Ngạn Chi thản nhiên cười đáp : -Hiền đệ sai rồi ! Lão phu nhờ « Hắc ngọc tiên đào » mà cường tráng rất lâu, xem ra còn trẻ trung hơn ngươi. Nay lão phu không thể có con trai để nối dõi tông đường làm vẻ vang họ Trác nên đành phải đặt mình đóng góp chút công lao với võ lâm. Tâm nguyện của lão phu chỉ bấy nhiêu, mong hiển đệ hoàn thành cho. Biết đối phương đã quyết, Tự Chương vái sâu 8 vái, rồi vung kiếm cắt đứt vạt trước của tấm trường bào màu chàm. Lôi Đình Cung chủ cũng làm thủ tục đoạn bào tuyệt giao ấy. Giờ đã là người dưng, Xoa Lạp Bang chủ thản nhiên xông tới, tấn công ngay bằng « Phong Đô thần chưởng ». Lần này, chưởng kình của lão mãnh liệt chứ không nhẹ nhàng như trận đấu với Bắc Thiên Tôn. Tất nhiên, đôi môi lão mấp máy liên hồi, niệm thần chú chiêu hồn kẻ địch. Ma quỷ, yêu tinh ít khi được nói đến trong sử võ lâm, nhưng lại rất phổ biến trong nền văn hoá Trung hoa cổ. Cũng như những dân tộc khác trên thế giới, người Trung hoa tin rằng sau khi chết, linh hồn con người sẽ biến thành ma. Sách Thuyết Văn nói : « Chỗ quay về của con người là ma … Ma là âm khí gây hại ». Người thiện hóa ma lành, kẻ dữ hóa quỷ ác. Ngay cả động vật, thực vật, đến 1 thời kỳ nhất định có thể biến thành tinh, quái, có phép biến hóa dị thường. Cho nên chúng ta chớ nên lấy làm lạ khi Nhạc Tự Chương thi triển tà công chiêu hồn. Ma quái cũng đáng tin chẳng kém « Cách không chưởng lực ». Nhắc lại, Xoa Lạp Bang chủ xuất chiêu « Hồn hề qui lai », vỗ liền 6 chưởng uy hiếp toàn thân kẻ địch. Lôi Đình Cung chủ ung dung trụ tấn, song thủ chập chờn xạ ra những đạo kình phong vũ bão. Chưởng chạm chưởng nổ vang như sấm, và Nhạc Tự Chương bị đẩy lùi. Lão nghe khí huyết nhộn nhạo, cổ tay tê chồn, chột dạ hiểu rằng công lực Trác Ngạn Chi thâm hậu hơn mình nhiều. Trác Đế Quân lại rất xảo quyệt, dùng phép « Dĩ động chế động », và tầm sát thương rộng của « Lôi Đình thần chưởng », giữ không cho Tự Chương đến gần mình. « Chiêu hồn đại pháp » phát huy tác dụng trong phạm vi 1 trượng mà thôi. Thì ra Trác Ngạn Chi đã sớm biết rõ bí mật của nghĩa đệ, và có cách đối phó hữu hiệu.Nhạc Tự Chương bướng bỉnh tiếp tục tấn công, phối hợp với thân pháp quỷ dị, tìm đủ mọi cách áp sát. Lão như cánh bướm vờn hoa, lượn quanh đối phương, và liên tiếp đánh những đòn sấm sét. Chưởng phong va chạm liên hồi, phát ra những âm thanh vang dội, khiến lòng người xem sôi sục. Cử tọa ngất ngây thưởng lãm cuộc so tài giữa 2 tay cự phách trong nghề « Phách không chưởng », miệng trầm trồ tán dương. Trận đấu này không những quyết liệt mà còn rất sinh động, vì Nhạc Tự Chương di chuyển không ngừng, thân pháp linh hoạt và đẹp mắt. Nhưng Lôi Đình Cung chủ vẫn vững vàng như núi Thái, điềm nhiên đối phó. Lão ung dung xoay trở, song thủ nhịp nhàng đẩy ra những đạo chưởng kình hung hãn và chuẩn xác, chẳng những chặn đứng được thế công của kẻ địch, mà còn uy hiếp trở lại. Phép đánh liên hoàn chưởng này đòi hỏi 1 nguồn chân khí cực kỳ dồi dào, sung mãnh. Tuy ở thế phòng ngự song Trác Ngạn Chi lại chiếm thượng phong. Nhạc Tự Chương không sao tiếp cận được mục tiêu và còn thọ thương bởi lực phản chấn, máu rỉ ra khóe miệng. Lão vô cùng thất vọng, hiểu rằng mộng làm Minh chủ đã tan tành. Thật uổng công 20 năm khổ hạnh, trai giới, làm bạn với bùa chú và những thây ma hôi hám. Nhạc Tự Chương chợt nghe lòng nguội lạnh, nghĩ đến việc từ bỏ giang hồ, mang Dương Tố Vy về Sơn Tây ẩn dật, hưởng lạc thú thanh nhàn. Nhưng Lôi Đình Đế Quân lại không hiểu được tâm trạng ấy, quyết ra tay diệt trừ kình địch, đề phòng hậu họa. Lão bất ngờ bốc lên cao, bủa lưới chưởng chụp xuống đối thủ. Nhạc Tự Chương phát hiện 9 đốm chưởng ảnh vây chặt lấy mình, mang theo những âm thanh cuồng nộ, thì biết rằng Ngạn Chi đã động sát cơ. Lão nghiến răng hạ tấn, dồn hết nội lực vào song thủ đẩy lên 4 chưởng, chủ yếu là đối phó với những ảnh chưởng đang uy hiếp trực diện. Lão không di chuyển nên không sợ những đòn đánh đón đầu, ngăn chặn. Thực ra, Nhạc Tự Chương là kẻ gian hùng nên đã lén nghiên cứu tuyệt học Lôi Đình thông qua Nhạc Cuồng Loan. Do đó, giờ đây lão nhận ra Trác Ngạn Chi đánh chiêu « Lôi thanh cửu lạc » (sấm rơi 9 tiếng), và sớm có cách hóa giải như trên. Tiếc thay, Lôi Đình Đế Quân lại là người thâm hiểm, lo xa, nên đã không dạy hết nghề cho Nhạc Cuồng Loan. Sau 4 tiếng nổ ì ầm là tiếng rên thảm khốc của Xoa Lạp Bang chủ. 14 đốm chưởng ảnh đã bất ngờ đổi hướng, giáng thẳng vào vùng bụng mé hữu của Tự Chương. Gan và 1 phần lá phổi bên phải bị tổn thương nặng, nạn nhân phun máu, người run lẩy bẩy, và từ từ quỵ xuống. Nhạc Cuồng Loan thấy vậy tung mình bay vút lên lôi đài, xem xét thương thế của phụ thân. Biết cha mình khó thoát chết, gã bồng Tự Chương và lạnh lùng bảo Trác Đế Quân : -Lão thừa sức dồn cho gia phụ rơi đài, đâu cần phải hạ độc thủ. Lôi Đình Cung chủ hơi ngượng, thở dài biện bạch : -Loan nhi trách cứ lão phu cũng là phải. Nhưng thực ra phụ thân ngươi đã sa vào tà đạo, dại dột luyện phép chiêu hồn, sớm muộn gì cũng hóa điên biến thành kẻ khát máu đồng loại. Lúc ấy, chính ngươi cũng phải xa lánh cha mình, và họ Nhạc ô nhục ngàn đời. Lão phu vì mối giao tình giữa 2 dòng họ mà phải dùng đến hạ sách, mong Loan nhi hiểu cho. Cuồng Loan không tin song Trương Thiên Sư đã lên tiếng : -Trác Cung chủ đã nói thực lòng đấy. Bần đạo cũng biết rõ những hậu quả của kẻ luyện « Chiêu hồn đại pháp ». Gương mặt anh tuấn của Cuồng Loan tái đi, ánh mắt đầy vẻ phân vân đau khổ. Gã buồn rầu bảo : -Nhưng thù giết cha chẳng thể không báo. Sau này sẽ có lần Nhạc mỗ đến xin lãnh giáo Cung chủ. Dẫu lúc ấy tôn giá đã trở thành Minh chủ thì cũng đừng từ chối. Trác Ngạn Chi khẳng khái nhận lời. Cuồng Loan hạ đài, ra lệnh cho bọn bang chúng theo mình đưa xác Bang chủ về Lĩnh Sơn. Lạ thay, có độ 60 gã thủ hạ người Thổ biến mất tăm, tìm mãi chẳng thấy đâu. Cuồng Loan rất tức giận song đành phải khởi hành ngay với mấy chục gã còn lại. Trương Thiên Sư tuyên bố Lôi Đình Cung chủ thắng trận, và mời 2 thí sinh thuộc tốp trẻ thượng đài. Đó là Võ Đương Thần Kiếm Mộ Duy Lộ và Tịnh Châu Nhất Đao Hồ Hướng, cao thủ tuổi độ 45 ở đất Sơn Tây. Cách chia bảng theo độ tuổi của Hội đồng Võ lâm thực ra không hợp lý. Từ 20 đến 50, cách nhau những ba chục năm tu vi. Nhưng nhờ vậy mà nếu có kẻ trẻ tuổi nào thắng nổi các bậc huynh trưởng, trở thành Phó Minh chủ thì đấy chính là nhân tài kiệt xuất. Hôm nay Mộ Dung Lộ oai phong trong bộ võ phục gấm màu nguyệt bạch, và anh tuấn như cây ngọc trước gió. Gã trang nghiêm hơn xưa nên bội phần quyến rũ khiến đám nữ hiệp ở bên dưới lôi đài mê tít, xuýt xoa khen ngợi, ước ao. Văn Thiên Tử thầm hãnh diện, đặt hết hy vọng vào gã đồ đệ biết phục thiện kia. Tuy đã được ông trả lại chất nam nhi, song Mộ Dung Lộ vẫn tỏ ra nghiêm cẩn, không màng đến sắc dục. Gã xa Võ Đương đã mấy tháng sau khi xin phép sư phụ về Nghi Xương thăm nhà. Dù đánh mất cương vị thủ lĩnh Hội đồng Võ lâm là vì sự nghiệp chung, nhưng Văn Thiên Tử cũng rất xót xa. Người giang hồ không hiểu đã buông lời ong tiếng ve khiến thanh danh phái Võ Đương sa sút. Do đó, Văn Thiên Tử mong Mộ Dung Lộ trở thành Phó Minh chủ Võ lâm, cứu vãn những thất bại của ông. Quả nhiên, Mộ Dung Lộ không uổng công thày, chẳng hề lép vế trước 1 đối thủ dày công rèn luyện hơn. Đường gươm của gã điêu luyện và dũng mãnh, bộ pháp nhanh nhẹn, phong thái ung dung đạo mạo, đáng mặt cao đồ núi Võ Đương. Nhưng Trịnh Châu Nhất Đao là kẻ có thực tài, gầy dựng thanh danh, sự nghiệp bằng xương máu, trải qua hàng trăm trận sinh tử, nên kinh nghiệm giao đấu rất dồi dào. Cao nguyên Sơn Tây có nhiều mục trường nuôi ngựa, nhiều đến nỗi việc tranh giành đồng cỏ là việc thường ngày, và sự tranh chấp luôn được giải quyết bằng võ lực. Hồ Hướng cũng làm chủ 1 mục trường. Gã tồn tại được là nhờ tài đánh đao cự phách. Đao pháp của họ Hồ ảo diệu, trầm ổn, kín đáo. Đấu pháp của gã là phòng thủ chặt chẽ và phản kích khi đối phương sơ hở. Hồ Hướng bền bỉ, cố phi kỵ mã theo nước kiệu, bình thản chống đỡ, hòa giải những chiêu công kích của Mộ Duy Lộ khiến đối thủ có cảm giác rằng đang đánh nhau 1 cách vô vọng. Thật khó chịu khi mọi nỗ lực của mình đều trở nên vô ích. 2 khắc sau, Võ Đương Thần Kiếm toát mồ hôi hột, còn Trịnh Châu Nhất Đao thì chưa. Hồ Hướng chẳng khác gì tảng đá núi lì lợm, bướng bỉnh, rắn chắc, và không biết mệt mỏi. Chỉ có những đại cao thủ mới hiểu được rằng Hồ Hướng đã đạt tới trình độ thượng thừa của đao thuật. Tuy bề ngoài có vẻ như ở thế bình thủ, song kỳ thực gã đã hoá giải được toàn pho « Thái cực kiếm » của núi Võ Đương. Và đến lúc họ Hồ phản công thì Mộ Duy Lộ phải thua. Quả đúng như thế, đường đao của Hồ Hướng đã mãnh liệt hơn trước, đao quang xanh biếc đảo lộn tựa dải lục mềm, áp đảo trường kiếm của Mộ Dung Lộ, và đẩy gã lùi dài. Võ Đương Thần Kiếm cắn răng chống trả bằng hết sức mình, tiếng thép chạm thép chát chúa ghê người. Quần hùng vỗ tay hoan hô Trịnh Châu Nhất Đao quá cỡ. Là nam nhân, họ chẳng ưa gì cái gã Mộ Duy Lộ đẹp trai, giàu có, đàng điếm và kiêu ngạo. Nhưng dẫu Võ Đương Thần Kiếm dễ thân cận hơn thì cũng chẳng ai dại gì làm bạn với gã. Gần gũi Mộ Duy Lộ sẽ mất vợ như chơi vì đàn bà vốn yếu lòng. Nếu họ không ngủ với gã thì cũng tơ tưởng, nhớ nhung, chẳng màng đến người chồng vừa xấu vừa già đang nằm bên cạnh. Mộ Duy Lộ cứ lùi mãi và chỉ còn cách mép lôi đài hướng đông nửa trượng. Tiếng hò reo cổ vũ Trịnh Châu Nhất Đao càng cuồng nhiệt hơn bởi đối thủ của gã sắp rơi xuống đài. Nhưng cũng chính lúc ấy, bảo kiếm trong tay Mộ Duy Lộ loang nhanh vun vút, điểm chém hàng trăm thức vào lưới đao của kẻ địch. Sau đó, 1 tiếng rú thê lương cất lên. Cử tọa bàng hoàng, sửng sốt khi thấy Hồ Hướng buông đao, đưa 2 tay lên ôm mặt, miệng gào thét rên la. Gã loạng choạng bước đi, máu hồng từ khóe mắt rỉ chảy qua kẽ bàn tay. 1 hảo hán tinh ý nào đó rú lên : -Hồ Hướng bị mù rồi ! Thân nhân của Trịnh Châu Nhất Đao đã nhảy lên lôi đài, gồm 1 nam 2 nữ. Phụ nhân tóc bạc lập tức điểm huyệt mê, đặt Hồ Hướng nằm xuống sàn gỗ rồi xem xét thương thế. Khi thấy song nhãn nạn nhân đều bị đâm thủng, bà đứng phắt dậy, chỉ mặt Vân Thiên Tử mà mắng vốn : -Không ngờ sở học của phái Võ Đương lại có 1 chiêu kiếm tàn nhẫn, bất nhân đến thế. Lão thân sẽ nguyền rủa, thóa mạ Trương Tam Phong cho đến chết mới thôi ! Quần hùng cũng lên tiếng chê bai, chửi bới phái Võ Đương ồn ào như chợ vỡ. Vân Thanh Tử vô cùng hổ thẹn và nhục nhã, vội đứng lên cao cất giọng thanh minh : -Kính cáo Hồ lão thái và chư vị anh hùng ! Bần đạo thề rằng chiêu kiếm độc ác kia không phải của phái Võ Đương. Rồi ông rời bàn giám khảo đến trước mặt Mộ Duy Lộ, hỏi với vẻ cực kỳ giận dữ : -Lộ nhi ! Chiêu kiếm lúc nãy ngươi học ở đâu ? Lúc này, mặt Mộ Duy Lộ vẫn còn đỏ hay, hơi thở hổn hển, ra chiều rất mệt mỏi. Gã kính cẩn đáp : -Bẩm sư phụ, mấy tháng trước, đồ nhi về thăm nhà, có đi du ngoạn Nam Nhạc Hành sơn. Lúc ghé qua động Đích Thủy dưới chân đỉnh Thiếu Sơn, thì tình cờ gặp 1 ẩn sĩ vô danh. Ông ta bảo đồ nhi là kẻ hữu duyên nên lưu lại động, dạy cho vài chiêu kiếm. Đồ nhi bị ép buộc phải học, mong ân sư lượng thứ cho. Vân Thiên Ttử mơ hồ hiểu rằng Mộ Duy Lộ không nói thật lòng, song chẳng tiện tra hỏi tại chốn. Ông chỉ nghiêm nghị dặn dò : -Thứ kiếm pháp tà ác ấy sẽ hủy hoại thanh danh bổn phái. Từ nay ngươi không được dùng đến nữa. Mộ Duy Lộ ngoan ngoãn vâng dạ. Vân Thiên Tử quay sang phân bua với Hồ lão thái và cử tọa : -Hồ lão thí chủ và chư vị chắc đã rõ nguồn cơn. Nhưng dẫu sao, bần đạo cũng có lỗi dạy học trò không nghiêm, xin tạ lỗi cùng Hồ gia ! Hồ lão thái hậm hực nhìn Mộ Duy Lộ với ánh mắt oán hận rồi cùng con dâu và cháu nội đưa Trịnh Châu Nhất Đao hạ đài. Ngày hôm ấy còn diễn ra vài trận so tài nữa, song không có gì đặc sắc. Tối đến, Hội đồng Võ lâm họp khẩn cấp trong tăng xá của phương trượng Thiếu Lâm Tự. Chủ đề mà họ quan tâm nhất chính là chiêu kiếm của Mộ Duy Lộ. Lạc Mạo Chân Nhân cũng được mời tham dự. Ông nghiêm nghị nói : -Bần đạo đã đến quan sát rất kỹ cả lúc Lộ nhi ra tay. Tuy không biết lai lịch của chiêu kiếm ấy, nhưng bần đạo hiểu được rằng nó cực kỳ ảo diệu và độc ác vô song. Điều đáng sợ nhất chính là việc công lực của Mộ Duy Lộ đột ngột tăng gấp đôi khi thi triển chiêu kiếm nọ. Lúc ấy, mặt gã đỏ rực lên 1 cách quái dị. Và sau khi dứt chiêu kiếm, gã biểu hiện vẻ vô cùng mệt mỏi, hầu như kiệt lực. Nói đến đây, Chân Nhân bỗng buông tiếng thở dài, rầu rĩ bảo Vân Thiên Tử : -Bần đạo e rằng lệnh đồ đã sa vào tròng của tà ma, luyện công phu « Thái Bổ Đốn Bội tâm pháp » của Nguyệt Hoa Môn. Vân Thiên Tử biến sắc, run giọng : -Lẽ nào lại như thế ! Nguyệt Hoa Môn đã bị võ lâm tiêu diệt từ 30 năm trước rồi mà ? Lạc Mạo lắc đầu tư lự : -Bần đạo có đi Hà Bắc tham gia cuộc tiễu trừ tà hội ấy, và biết rằng 2 người con của Nguyệt Hoa Môn chủ Phùng Bá Ngọc đã chạy thoát sang Liêu Đông. Có lẽ giờ đây họ quay lại Trung Nguyên để trả thù các phái Bạch đạo. Và Mộ Duy Lộ là 1 trong những người bị họ lợi dụng. Tùng Xuân Tử, chưởng môn phái Toàn Chân, hắng giọng bàn : -Nhưng theo bần đạo được biết thì võ nghệ của Nguyệt Hoa Môn không cao, trong khi chiêu kiếm kia lại linh diệu phi phàm. Điều này khiến bần đạo phải phân vân ! Lạc Mạo gật gù đáp : -Bần đạo cũng đang hoang mang lo ngại về việc ấy. Có thể là hậu nhân họ Phùng đã may mắn học được kiếm pháp nọ của 1 bậc kỳ nhân đất Liêu Đông. Hai là do trí tuệ, căn cơ sáng láng hơn cha nên họ đã sáng tạo ra. Nhưng điều ấy không quan trọng bằng việc họ sẽ phục hận như thế nào ? Và đã có bao nhiêu đệ tử lục phái bị dụ dỗ, khống chế giống như Mộ Duy Lộ ? Các chưởng môn tái mặt nhìn nhau, thầm lo lắng cho hậu vận môn phái mình. Đại Giác Thiền Sư ngượng ngập nói : -Bần tăng dốt nát, không hiểu « Thái Bổ Đốn Bội tâm pháp » là chi ? Và liệu có cách nào để phát hiện ra kẻ luyện nó ? Mong bậc trưởng bối chỉ giáo cho ! Lạc Mạo bật cười khanh khách : -Thì ra sư phụ ngươi không dám hé môi nhắc đến Nguyệt Hoa Môn, bởi ngày ấy lão ta đến Bách Hoa Sơn đánh nhau với bọn nữ nhân không mảnh vải ! Mẹ kiếp ! Lúc đầu, Nhất Kính đỏ mặt, tía tai, mắt nhắm tít lại, đứng yên niệm Phật. Các tăng lữ La Hán Đường thấy vậy cũng chẳng tham chiến. Do thiếu họ mà phe Bạch đạo yếu thế, không sao tiến được, và thọ thương rất nhiều. Bần đạo tức quá đến đá vào mông lão, và nhắc đến cái chết của 62 đệ tử trẻ Thiếu Lâm. Khi đó, Nhất Kính mới tỉnh ngộ, ra tay diệt ác. Đại Giác Thiền Sư nghe Lạc Mạo giễu cợt ân sư mình thì không vui, ngắt lời đối phương : -Bần tăng chỉ hỏi về « Thái Bổ Đốn Bội tâm pháp », sai Chân Nhân lại nói toàn chuyện bâng quơ ? Lạc Mạo cười xòa : -Ừ phải ! Bần đạo lạc đề mất rồi ! Và lão mỉm cười, giải thích : -Tà công kia ác độc ở chỗ thông qua giao phối mà hút tinh khí, nguyên thần của nạn nhân. Kẻ luyện « Đốn Bội tâm pháp » có tốc độ tăng tiến công lực khá nhanh gấp đôi lệ thường. Đặc biệt là trong lúc giao đấu, kẻ ấy có thể tức thời nhân đôi sức mạnh, bất ngờ hạ sát đối thủ. Còn vẻ bên ngoài của người luyện công « Thái Bổ » thì không rõ ràng lắm, chỉ thể hiện ở sắc mặt hồng hào, tươi nhuận, cái mà những người khỏe mạnh đều có. Do đó, nếu muốn phát hiện nội gián của Nguyệt Hoa Môn, thi chỉ còn cách theo dõi, điều tra sinh hoạt thường nhật. Kẻ luyện phép « Thái Bổ » không thể giới sắc, luôn phải gần gũi nữ nhân. Thấy gương mặt Đại Giác đầy nét băn khoăn, Thất Bổng Cái cười khà khà bảo : -Lão hòa thượng ngươi chớ lo ! Lão phu sẽ cho đệ tử Cái Bang canh chừng mấy ổ điếm ở Đăng Phong, cứ gặp gã trọc đầu nào vào là tóm lấy ngay.
Trong khi Hội đồng Võ lâm bàn bạc việc chung thì có 1 người miên man với nỗi sầu riêng. Tử Khuê đã quay lại chân núi Thiếu Thất hồi sẫm tối, sau khi đưa tiễn bào đệ một đoạn đường vài trăm dặm. Chàng đã đến gặp Tổng binh Đăng Phong là Trịnh Trường Hoài để hỏi han tình hình đại hội. Họ Trịnh có xem 2 trận đầu nên kể lại các chi tiết rất sống động. Nghe nói Lôi Đình Cung chủ giết được Nhạc Tự Chương, Tử Khuê tự nhủ Trác Ngạn Chi sẽ trở thành Minh chủ, vì Long Vân Tu Sĩ sẽ vắng mặt. Song điều ấy không đáng để chàng qua tâm bằng việc Mộ Duy Lộ đâm mù mắt Trịnh Châu Nhất Đao. Tuy trên thế gian vẫn có hàng vạn người khiếm thị cam tâm kéo lê cuộc sống, nhưng đối với người võ sĩ thì cảnh mù lòa còn đáng sợ hơn cái chết. Cho nên giới giang hồ có 1 luật lệ bất thành văn là không được tấn công cả 2 mắt đối phương cùng một lúc. Hầu hết các phái võ học ở Trung hoa đều tự giác tuân thủ điều luật này, trừ những kẻ cùng hung cực ác, phi nhân tính. Nay chiêu kiếm kia chỉ nhằm mục đích đâm mù 2 mắt đối thủ thì rõ ràng là Mộ Duy Lộ đã sa vào tà đạo. Tử Khuê bỗng chạnh lòng thương tiếc cho 1 bậc anh tài, và thầm lo cho cơ đồ phái Võ Đương. Nhưng rồi cảm giác ấy cũng bị lấn át bởi nỗi buồn riêng vời vợi. Trịnh Trường Hoài đã đi đốc thúc việc canh gác, để Tử Khuê ngồi lại 1 mình bên đống lửa cùng vò rượu nhỏ, trước cửa lầu dinh. Tuyết rơi nhẹ, vầng trăng mười sau mùa Đông nhợt nhạt trên cao như khiến nỗi đau trong lòng Tử Khuê thêm da diết. Chàng thẫn thờ nhìn ngọn lửa bập bùng đang xì xèo nung chảy những bông tuyết nhỏ tựa hoa ngâu mà tưởng nhớ đến hình bóng thân thương của Tái Vân, Tiểu Tinh, Tống Thụy, Quan San, … nước mắt len lén tuôn rơi, dẫu chàng đã có thêm hy vọng khi Tử Chiêm thoát chết. Và lửa hận sục sôi khi nghĩ đến Long Vân Tú Sĩ, bất giác Tử Khuê siết chặt chuôi thanh bảo kiếm. Nó chính là « Đảo Nguyên thầm kiếm » đã được chàng thay vỏ bao. Hơi đồng lạnh tanh mang lại sự tự tin, vì hiện nay chàng không còn phải sợ bất cứ đối thủ nào. Nhiệm vụ hằng đêm của quan quân Đăng Phong là giữ gìn trật tự khu lều vải của khách võ lâm, không cho mấy ngàn kẻ ngang ngạnh ấy gây ồn ào, quấy nhiễu giấc ngủ của Hoài Âm Vương và Vương phi. Còn việc canh phòng tòa mộc xá thì thuộc về 300 quân giáp sĩ, những chiến binh tinh nhuệ, thân tín mà Chu Kiềm đã mang về từ qua ải. Gã chỉ tin tưởng họ mà thôi. Do đó, nửa canh giờ sau, Trịnh Trường Hoài đã quay lại đối ẩm với Tử Khuê. Gã nốc cạn chung rượu, chỉ về căn mộc xá ấm áp ánh sáng đèn đuốc, cười bảo : -Hoài Âm Vương quả là người diễm phúc nhất thế gian, đêm đông giá lại có bên mình 1 nữ nhân tuyệt thế. Mạt tướng không tin còn ai đẹp bằng Tần Vương phi nữa. Tử Khuê bâng khuâng ném thêm củi khô vào đống lửa rồi chậm rãi hỏi lại : -Vậy Đông Nhạc Tiên Hồ so với Tần Vương phi thì thế nào ? Trịnh Trường Hoài ngẩn người suy nghĩ 1 lúc, gật gù đáp : -Hầu gia nói chí phải. Dịch cô nương có phần kiều diễm hơn. Và khi ngắm nàng, người ta bị mê hoặc song không nổi tà tâm như lúc gặp Tần Vương phi. Hai người trò chuyện thêm đến giữa canh ba thì tuyết đã dày hơn. Trịnh Trường Hoài mời khách vào lều an giấc, còn gã lại phải đi đốc canh. Nhưng đúng lúc ấy, những tiếng quát tháo « Bắt thích khách », tiếng vũ khí va hạm cùng những âm thanh huyên náo khác phát ra từ hướng tòa mộc xá. Cơ ngơi ấy cách lều của Trịnh Trường Hoài độ 30 trượng về hướng Tây. Tuy không có trách nhiệm bảo vệ trực tiếp, song nếu Hoài Âm Vương có mệnh hệ gì thì họ Trịnh mất chức Tổng binh là cái chắc. Gã hốt hoảng lao về phía mộc xá, thân pháp khá nhanh nhẹn. Thấy Võ lâm Đệ nhất cao thủ bám theo mình, Trịnh Trường Hoài rất yên tâm. Có Ngân Diện Hầu chẳng lo gì không bắt được thích khách. Đến cổng mộc xá, nơi bọn giáp sĩ lập vòng vây, Trường Hoài quát hỏi : -Tình hình ra sao ? Một tên lính tuổi trung niên mau mắn đáp : -Bẩm đại nhân, Vương gia chỉ bị thương. Vương phi an toàn. Còn 2 tên thích khách thì đang bị vây chặt. Chúng chính là Long Vân Tú Sĩ Quảng Chiêu Phong và Hắc Diện Thần Ưng Lý Quang Ban. Trịnh Trường Hoài tròn mắt sửng sốt : -Là họ ư ! Nhưng sao các ngươi lại biết được ? Gã lính già đáp : -Bẩm đại nhân, chúng đều bịt mặt, nhưng 1 tên xử dụng « Ưng trảo », tên kia có đôi bàn tay tỏa ánh sáng xanh. Tên ấy xui xẻo tuột mất khăn che mặt để lộ rõ dung mạo của Quảng Chiêu Phong. Sau nhiều phen hoạn nạn, cơ trí Tử Khuê đã trưởng thành hơn trước. Chàng không vội mừng vì gặp được kẻ đại cừu, mà đoán ngay rằng trong việc này có ẩn tình. Long Vân Tú Sĩ chẳng có lý do gì để phải hành thích Hoài Âm Vương. Hai là, nếu lão muốn làm thì không dại gì đưa Hắc Diện Thần Ưng đi theo vì vũ khí của họ Lý rất dễ bị nhận dạng. Tử Khuê vừa định cùng Trịnh tổng binh vào bắt thích khách thì nghe những tiếng nổ lóc bóc, và khói trắng bốc lên mù mịt. Đấy là những trái yêm cầu đặc dị của Long Vân Bảo. Sau đó có tiếng người thét lên cảnh cáo : -Thích khách đã chạy về hướng Tây ! Quả đúng như vậy, yêm cầu nổ bùng bùng bên ngoài bức tường quây bằng ván, cao hơn đầu người, và tiếng sắt thép va chạm liên hồi hòa lẫn tiếng kêu rên đau đớn. Khi Tử Khuê và Trịnh Trường Hoài sang đến mé ấy thì thích khách đã phá được vòng vây, lướt trốn đi như gió. Khu lều vải của bọn hào kiệt giang hồ ở tít bìa cánh rừng mé Đông, nên khi họ chạy tới nơi thì đã muộn. Và lúc nghe nói thích khách chính là Long Vân Tú Sĩ thì chẳng còn ai muốn đuổi theo. Tuy không phải là cấp trên trực tiếp, song Trịnh Trường Hoài vẫn có phẩm trật, quan hàm cao hơn bọn giáp sĩ Vương phủ. Gã liền ra lệnh : -Có truy đuổi cũng chẳng bắt nổi. Hơn nữa, chúng ta đã biết họ là ai. Các ngươi mau chỉnh đốn đội ngũ để đề phòng sự cố khác. Lúc này, các chưởng môn nhân Bạch đạo đã từ trên núi xuống đến, cùng Trịnh Trường Hoài vào vấn an Vương gia và Vương phi. Nhưng thực ra vẫn có 1 người đội tuyết âm thầm bám gót bọn thích khách. Đó là Tử Khuê. Sau khi thụ dụng « Thiên niên Hà thủ ô », cả khinh công lẫn thị lực của chàng đều tăng tiến vượt bậc, nên không mất dấu con mồi dù tuyết rơi mau. Chàng dự định sẽ theo họ đến tận sào huyệt, tìm hiểu cho rõ trắng đen rồi mới xuất thủ. Thiếu Thất là điểm cực Tây của rặng Tung Sơn, tức là hướng Tây của nó không còn núi nữa, mà chỉ toàn đồi, gò rậm rạp tùng bách. Đất sơn cước khô cằn sỏi đá, trồng ngũ cốc không hiệu quả nên bách tính chẳng dại gì đến đây phá rừng làm nương rẫy. Cho nên, những cánh rừng vẫn nguyên vẹn vẻ hoang sơ, vắng bóng dân cư. Người Trung hoa cổ theo đa thần giáo, thờ cả lâm thần nên không phá hoại rừng 1 cách tàn bạo như bọn con cháu sau này. Tất nhiên, do việc tăng dân số, người ta cũng phải phá rừng, lấy đất canh tác, song chẳng phải là bán gỗ để làm giàu như thời nay. Thời xưa, những kẻ phá rừng mạnh tay nhất là bọn vua, quan. Xét ra, Tần Thủy Hoàng xứng đáng được tôn làm ông tổ của nghề lâm tặc. Sau khi thống nhất Trung hoa, Tần Chính cho chặt phá rừng bừa bãi để lấy gỗ xây cung điện. Đến nỗi trong bài « A Phòng cung phú », nhà thơ đời Đường là Đỗ Mục đã viết : « Núi Thục bạt ngọn, A Phòng xuất hiện ». Sau này, những bậc trí giả đã lên tiếng kêu gọi bảo vệ rừng, đề xuất chủ trương : « Chặt rừng theo thời vụ », và khuyến khích nhân dân trồng rừng, khiến tình hình được cải thiện. Cho nên, giờ đây cánh rừng tùng mà Tử Khuê đang đi xuyên qua chưa bị tàn phá. Càng vào sâu, không gian càng tối tăm. Thế mà 2 gã thích khách vẫn chạy như bay, cứ như có đôi mắt của loài chim đêm vậy. Tử Khuê rất ngạc nhiên, thật lâu sau mới phát hiện ẩn tình. Thì ra lối đi được đánh dấu bằng những đốm lân tinh trên các thân cây. Tử Khuê tỉnh ngộ, hiểu rằng lớp ánh sáng xanh nhạt trên mặt và bàn tay gã Long Vân Tú Sỉ giả hiệu kia chính là bột lân tinh. Nhưng họ là ai mà lại muốn tròng cái họa « tru di tam tộc » lên đầu Quảng Chiêu Phong ? Tùng, bách là loài cây xanh, không rụng lá vào mùa Thu. Đông về vẫn xanh um. Tuyết đọng đầy trên cành lá thỉnh thoảng rơi từng mảng xuống thảm rừng, tạo nên những tiếng động hòa với âm thanh não nuột của gió, của côn trùng mà che giấu bước chân khách dạ hành. Sau vài lần ngoái lại chẳng thấy ai, 2 gã thích khách yên tâm chạy tiếp. Độ hơn chục dặm, họ bỗng dừng chân và rồi chậm rãi đi những bước rất kỳ lạ. Tử Khuê đoán rằng quanh sào huyệt đối phương có bày trận kỳ môn. Chàng vội nhẹ nhàng bám theo, chú mục quan sát cách chuyển động của 2 người ấy, cố nắm cho được qui luật nhập trận. Tử Khuê mon men lần vào, lòng thấp thỏm vì đã không còn nhìn thấy kẻ dẫn đường. Giờ đây, trước mắt chàng là những thân cây đen đúa, lấp lánh hàng ngàn ánh lân tinh. Tử Khuê mò mẫm tiến theo cách mà đối phương thực hiện. May thay, chàng đã đoán đúng qui luật của bộ pháp ấy nên đi qua được trận kỳ môn. Phía trước Tử Khuê lờ mờ hiện ra khoảng đất trống, rộng độ vài mẫu, có hơn chục căn nhà nằm vuông vức chung quanh một tòa mộc lâu 2 tầng. Tất cả những kiến trúc nọ đều thấp thoáng ánh đèn, nên Tử Khuê không thể biết 2 con mồi của mình đã chạy vào căn nào. Chàng chỉ còn cách áp sát từng căn để nghe ngóng vì đối phương về đến nhà chắc chắn sẽ phải bàn bạc, chuyện trò. Trước khi rời bìa rừng, Tử Khuê thận trọng đánh dấu vị trí lối vào, sợ ra bằng lối khác sẽ không thoát. Chàng biết qua loa rằng trận kỳ môn có cửa sinh, cửa tử, chẳng phải chỗ nào cũng giống nhau. Tử Khuê dọ thám những căn hướng Đông trước, rồi vòng qua dãy hướng Bắc. Trong 12 tòa nhà gỗ ấy chỉ có tiếng ngáy như sấm, và tiếng than lò sưởi nổ tí tách. Sang đến dãy hướng Tây, ở căn thứ ba, chàng bỗng phát hiện nó được xây bằng gạch đá rất vững chắc chứ không phải bằng gỗ. Căn thạch xá này bề ngang rộng độ 2 trượng rưỡi, mặt sau có đến 3 khung cửa sổ và 1 cửa chính thông ra vườn hoa nhỏ hướng Tây. Tử Khuê áp tai vào vách cửa sổ có ánh đèn sáng nhất, chợt nghe tiếng thở dài não nuột. Chàng liền dùng mũi kiếm nạy cho khe cánh cửa rộng hơn rồi ghé mắt nhìn thử. Tử Khuê phải đưa tay bịt chặt miệng mình lại để ngăn tiếng rú hân hoan ngút trời. Nữ nhân mặc áo lông cừu trắng đang ngồi cạnh chiếc bàn bát tiên kia chính là Đông Nhạc Tiên Hồ Dịch Tái Vân. Nàng gầy gò, hốc hác hơn xưa, mặt nặng trĩu muộn phiền, song vẫn đẹp lạ lùng. Khóc, cười là ân sủng của tạo hóa, và là hành vi có tình người nhất. Cho nên chỉ những gã dở hơi mới tâm đắc câu châm ngôn rỗng tuếch : « Trượng phu lưu huyết, bất lưu lệ ». Người không biết khóc luôn là kẻ bất nhân, vì cuộc đời quá nhiều nỗi thương tâm. Nước mắt Tử Khuê ứa ra dàn dụa, lòng tràn ngập cảm xúc vừa mừng vừa thương xót người vợ bất hạnh của mình. Khi chàng định thần lại thì phát hiện quái sự. Té ra Tái Vân không ngồi 1 mình mà đang cho con bú sữa. Đứa bé đỏ hỏn kia ọ ẹ tỏ ý chẳng hài lòng vì núm vú Tái Vân quá nhỏ, cứ trật khỏi miệng nó. Hơn nữa, bầu vú lại không có sữa. Người mẹ bất đắc dĩ ấy phải liên tục dùng cọng lông gà chấm sữa trong bát sứ trên bàn, nhỏ từng giọt vào chỗ tiếp xúc giữa khóe môi của hài nhi và nhũ phong mình. Miệng nàng khe khẽ dỗ dành : -Huy nhi, bé ngoan nhé ! Phụ thân ngươi sắp đến cứu chúng ta rồi. Và lệ nàng tuôn dài trên gương mặt xanh xao. Cảnh tượng này thật não lòng, và thê lương biết mấy. Tử Khuê bàng hoàng hiểu ra rằng đứa bé kia là con của chàng với Tống Tiểu Tình. Nó sinh thiếu tháng và không còn mẹ nên Tái Vân mới phải vất vả đóng vai từ mẫu. Trước khi chia tay, Tử Khuê đã dặn dò Tiểu Tình đặt tên con trai là Quách Huyền Huy. Nhược bằng, con gái thì mang tên Quách Ngọc Khê. Tử Khuê cắn răng run rẩy bởi những phỏng đoán đau lòng. Chàng đang định gọi Tái Vân thì có tiếng khóa khua cách cách ở cửa trước. Người đến thạch xá lúc khuya khoắt này là 1 lão nhân tuổi lục tuần, tráng kiện, râu tóc đen nhánh. Gương mặt lão khá thanh tú, ngũ quan đoan chính nhưng nhãn cầu rất kỳ lạ khiển Tử Khuê phải cảnh giác.Trước khi lão nhân vào tới bàn, Tái Vân đã sớm kéo vạt áo cừu cho che phần ngực bị hở lại, và tiếp tục cho Huy nhi bú sữa. Nàng chẳng hề ngước lên chào hỏi dù người đó là bậc cao niên. Tái Vân cũng đã hơi xoay người về hướng cửa sổ nên Tử Khuê nhận ra vẻ sợ hãi, chán ngán trong ánh mắt nàng. Lão nhân kia ngồi xuống ghế đối diện, nhếch mép cười nhạt: - Hà tất nàng phải vì con của kẻ khác mà vất vả suốt đêm như thế. Biết vậy, lão phu đã sớm để nó chết quách cho xong, đỡ tốn nửa hạt “Thiên sơn Tuyết liên tử”. Đông Nhạc Tiên Hồ thản nhiên mai mỉa: - Nửa hạt sen chết tiệt ấy đã được bán với giá ngàn lượng vàng, sao giờ sư thúc lại còn tiếc nuối. Tử Khuê thoáng giật mình, nhớ lại Dịch Quan San tâm sự, và đoán rằng lão nhân râu ba chòm kia là Bạch Điển thư sinh Đinh Trọng Khế, sư thúc gã. Đinh Trọng Khế từng là bậc anh tài trẻ đẹp, võ nghệ cao cường, hai mươi tuổi đã nổi danh Ngọc Diện kiếm khách. Khổ thay, cái mỹ hiệu nọ chỉ thọ được có ba năm. Chẳng hiểu sao da dẻ họ Đinh đột nhiên nổi lên những đốm lang ben rất tệ hại. Chúng dày cộm, sần sùi, biến gương mặt anh tuấn của Trọng Khế thành một mảng da beo loang lổ, khó coi. Lang ben tức là bạch điển phong, là một bệnh ngoài da rất thông thường, dễ chữa trị. Nhưng trường hợp Trọng Khế thì lại đặc biệt trầm kha, không thuốc nào chữa khỏi. Có lẽ do gã ăn nhằm cái thứ quỷ quái nào đấy, độc tính nằm trong máu huyết chẳng trục ra được. Thế là giới giang hồ mau mắn đã tặng cho họ Đinh danh hiệu mới: Bạch Điển thư sinh. Trọng Khế vô cùng nhục nhã, gác kiếm đi học nghề y, đã mấy chục năm không xuất đầu lộ diện. Phải chăng Đinh Trọng Khê đã thành công nên giờ đây Tử Khuê chẳng còn nhìn thấy những đốm lang ben oan nghiệt trên mặt lão nữa? Còn việc lão cứu mạng Huy nhi với giá ngàn lượng vàng thì chàng không quan tâm đắt rẻ và vẫn tri ân. Trẻ sinh non rất khó sống, nhất là khi không được bú sữa mẹ, cũng may là có nửa hạt Tuyết liên tử. Nhưng lòng biết ơn của Tử Khuê đã sớm bị sứt mẻ vì câu nói của vị ân nhân. - Tối nay, Bành mỗ đã thi hành kế “Di họa giang đông” loại được Long Vân Tú Sĩ ra khỏi chốn giang hồ và cảm thấy ngàn lượng vàng kia không đủ cho sự nghiệp tranh bá đồ vương. Lão quyết định bán thằng bé này cho Ngân Diện Hầu phủ và bán con nha đầu họ Tống cho lão Quách Thiên Tường, mỗi đứa giá năm vạn lượng vàng. Trinh sát của lão phu đã báo về rằng Quách trang chủ đang nương náu ở nhà con rể Mã Đông Cao. Tử Khuê thêm một lần mừng như chết đi sống lại khi nghe nói Tống Thụy vẫn toàn mạng và đang có mặt nơi này. Trong kia, Đông Nhạc Tiên Hồ cau mày hỏi lại họ Đinh: - Vì sao sư thúc không bán luôn tiện nữ mà kiếm thêm vài vạn lượng. Bạch Điển thư sinh lắc đầu, nhìn hau háu gương mặt kiều diễm của Tái Vân và chậm rãi đáp: - Anh hùng phải có mỹ nhân. Lão phu đã chọn nàng làm người phối ngẫu. Tái Vân biến sắc, run rẩy đặt cọng lông gà vào chén sữa vì Huy nhi đã ngủ ngon. Rồi nàng rầu rĩ thở dài: - Lão tinh thông “Nhiếp hồn ma thuật” mê hoặc được đại ca ta, nhưng việc chiếm đoạt Vân này chẳng dễ đâu. Ta thà tự sát chứ không lỗi đạo với trượng phu. Dứt lời, nàng rút trong áo ra một con dao nhỏ. Tuy đây chỉ là dụng cụ rọc giấy song cũng cũng thừa sức đưa nàng về chốn suối vàng. Đinh Trọng Khế không ngờ Tái Vân lại quyết liệt đến thế và thủ sẵn phương tiện quyên sinh. Lão bực bội cười gằn: - Té ra một ả hồ ly khét tiếng phong lưu như ngươi lại học đòi làm tiết phụ! Để xem người nhịn đói, nhịn khát được mấy hôm. Nói xong, lão đứng phắt dậy, giận dữ bỏ đi. Ở đây, Tái Vân bật khóc, cúi xuống hôn Huy nhi và than trách: - Huy nhi ơi! Chắc mẫu thân không còn cơ hội chăm sóc con nữa rồi. Cha ngươi quả là kẻ hồ đồ, cương nhu, thiện ác, tiến thoái chẳng rạch ròi nên thê tử mới khốn khổ thế này. Tử Khuê choáng váng trước lời phê phán của ái thê, tự hỏi phải chăng mình đúng là người như vậy? Mấy năm qua, chàng háo hức dấn thân vào chốn giang hồ song lại không lo lắng hậu quả, rốt cuộc cũng tan nhà nát cửa. Và chàng luôn thụ động, chưa bao giờ dám tự vượt qua hoàn cảnh. Chàng đã trở thành kẻ dối lòng khi tay nhuốm máu mà cứ tự cho mình là nhân nghĩa. Ngay như lúc này, chàng vẫn phân vân không dám giết Bạch Điển thư sinh do lão có ơn cứu mạng Huy nhi trong khi lão bức hiếp vợ chàng và nuôi dã tâm khuynh đảo võ lâm, gây nhiều cảnh máu xương. Nghe tiếng khóa cửa, đoán rằng Trọng Khế đã rời thạch xá, chàng lập tức chạy vòng ra phía trước mà đuổi theo. Lão ta đã đi được vài trượng, cách tòa mộc lầu không xa. Tử Khuê lạnh lùng trầm giọng gọi: - Bạch Điển thư sinh! Quách mỗ đã đến đây. Đinh Trọng Khế kinh hãi quay phắt lại, rút kiếm thủ thế và quát vang: - Có kẻ địch! Tử Khuê bình thản đứng đợi, trong lúc họ Đinh hoang mang dò hỏi: - Phải chăng người là Quách Tử Khuê? Khi chàng gật đầu, Trọng Khế giả lả nói: - Thế thì hay quá! Thê tử của hiền điệt đều ở cả nơi này. Sau biến cố hồi tháng sáu, Dịch sư điệt đã đưa họ đến đây nương náu. Lúc này, Dịch Quan San và đám kiếm thủ người Thổ đã ùa đến, đuốc dầu tỏa sáng rực trời. Tử Khuê đưa tay lột mặt nạ và quát bằng tiếng Thổ: - Ta là Quách thiếu gia đây! Các ngươi mau cầm chân Dịch Quan San để ta khống chế lão họ Đinh. Tuy có tới 60 gã kiếm thuẫn là bọn người mới vừa được chiêu dụ từ hàng ngũ Xoa Lạp bang, nhưng chúng cũng đã nghe đám lính cũ kể về vị thiếu chủ nhân từ, rộng rãi, cho nên mệnh lệnh của Tử Khuê được chúng răm rắp chấp hành. Càng may mắn hơn cho chàng là khi gã răng hô Tang Đông Dã đã bất ngờ điểm huyệt Dịch Quan San. Sau đó, gã cao giọng điều động một toán kiếm thủ đi giải thoát Tái Vân, Tống Thụy. Ở đây, Tử Khuê nghiêm nghị bảo bảo Trọng Khế: - Lúc nãy, ta đã nghe hết những lời lão nói với Vân muội. Và ta cho rằng lão không đáng sống nữa. Bạch Điển thư sinh thẹn quá hóa giận, quắc mắt nạt: - Người tưởng có thể dọa được lão phu hay sao? Tử Khuê chẳng nói chẳng rằng rút gươm đánh chiêu “Hiểu Xuân Lôi Xướng” (Sấm hát đầu xuân). Kiếm kình ì ầm nhỏ nhẹ, có vẻ như hiền hòa không chút gay gắt, nhưng kỳ thực đây là một trong những chiêu tấn công ảo diệu và mãnh liệt nhất của pho “Lôi Đình kiếm pháp”. Nó có khá nhiều thức chém như chẻ núi nên sẽ phát huy hết diệu dụng của thanh “Đảo Nguyên thần kiếm”. Dù tin tưởng rẳng Dịch Quan San đã là nô lệ của mình, song Trọng Khế vốn thận trọng kè kè bảo kiếm bên mình. Hơn nữa, lão là kiếm sĩ, mê thanh thép lạnh hơn cả vợ con, nên chẳng thể rời, cả những lúc ăn cơm, tắm gội hay đại, tiểu tiện. Nhờ vậy mà lúc này Trọng Khế có vũ khí để chống đỡ đường gươm lợi hại của đối phương. Tất nhiên kiếm của họ Đinh cũng là loại kiếm rất tốt, dẫu gặp gỡ Thần binh thượng cổ cũng chẳng gãy ngay. Và bản thân Trọng Khế cũng phải có thành tựu võ học rất cao mới dám nghĩ đến việc tái xuất giang hồ, tranh phong cùng những đại cao thủ như Long Vân Tú Sĩ, Lôi Đình cung chủ. Bạch Điển thư sinh vung gươm hóa giải chiêu kiếm của đối thủ, sắc mặt an nhiên, nhãn thần rực rỡ hào hứng. Quách Tử Khuê được xem là kiếm thủ cừ khôi nhất võ lâm đương đại, nên việc so gươm với chàng là một cơ hội ngàn vàng để Trọng Khế đánh giá sở học của mình. Sau nhiều năm phiêu bạt tìm thầy chữa bệnh, Trọng Khế đã lưu lạc sang tận dãy Thiên Sơn hùng vĩ và giá lạnh. Chính tại nơi này, họ Đinh đã may mắn hội ngộ với bậc kỳ nhân, tuy không hết bệnh song lại học được y thuật lẫn võ nghệ Thiên Sơn Phái. Và thành tựu về kiếm thuật còn cao hơn cả. Bạch Điển thư sinh đến Tây Vực năm 36 tuổi, khi quay về Trung Thổ thì đã ngoài ngũ thập. Do bệnh cũ vẫn còn nên Trọng Khế ẩn cư trong cánh rừng hoang vu này, chỉ liên lạc với hai người. Mãi tận mùa Thu năm ngoái, lão mới tìm ra được phương pháp tiêu diệt được “Căn bệnh quái ác”, phục hồi dung mạo anh tuấn, đường hoàng. Đồng thời, họ Đinh cũng đạt đến cảnh giới thượng thừa của sở học Thiên Sơn. Tựa như người đàn bà có nữ trang đẹp luôn khao khát trưng ra, khoe với thiên hạ, Trọng Khế bắt đầu nghĩ đến việc tái xuất dương danh. Nên khi Dịch Quan San đưa người họ Quách tới nương náu, nhờ giúp đỡ, một kế hoạch xưng hùng xưng bá đã hình thành trong đầu Trọng Khế. Lão bèn khống chế tâm thức Quan San, sử dụng gã cùng đám dũng sĩ người Thổ như đội quân tiên phong, cốt cán. Còn với bọn Tái Vân, Tống Thụy, Huy nhi thì lão có những tính toán thâm độc khác. Nhưng không ngờ rằng Quách Tử Khuê lại tìm ra chốn này và tình cờ phát hiện dã tâm của lão. Trọng Khế chỉ hơi ngán tài phóng phi đao của Ngân Diện Hầu, chứ chẳng ngại đường gươm của Cầu Nhiêm đại hiệp. Lão vẫn tự nhủ rằng mình là tay kiếm vô địch. Lão không biết hai người ấy là một. Tống Tiểu Tinh đã chết trong đêm đầu tháng mười một, sau khi sinh non. Thật xấu hổ khi nói cho người ngoài biết việc chồng mình lấy vợ lẽ và có con, nên bọn Tái Vân đã giấu biệt, bảo Trọng Khế rằng Huy nhi là con của Ngân Diện Hầu. Đinh lão nại cớ người dưng mà đòi cái giá ngàn lượng vàng mới chịu đem kỳ trân ra cứu đứa bé. Ẩn tình là thế, kể ra thì dài dòng, chán ngắt, song không kể cũng không được. Giờ chúng ta quay lại trận so gươm để tìm chút hào hứng, sôi động. Bạch Điển thư sinh nhờ nuốt 9 hạt “Thiên Sơn Tuyết Liên tử” mà hiện có đến hơn hoa giáp công lực. Trong truyện kiếm hiệp, yếu tố kỳ duyên rất phổ biến và được ưa chuộng. Lão già họ Đinh may mắn ấy dồn nguồn chân khí hùng hậu ra tay hữu loang kiếm nhanh như chớp giật, trong khoảnh khắc đã đâm chém, đỡ gạt hàng trăm thế thức, hóa giải chiêu “Hiển Xuân Lỗi Xướng”. Chàng trai họ Quách chỉ chiếm được chút ưu thế là đã chém mẻ lưỡi gươm của đối phương. Và chàng cũng đã thức ngộ ra rằng mình kém sức hơn, chẳng nên sử dụng lối đánh cương mãnh. Hơn nữa, phong thái và phương thức chiết chiêu của Bạch Điển thư sinh đã chứng tỏ trình độ kiếm thuật thượng thừa. Tử Khuê liền bỏ ý định tốc chiến tốc thắng, xuất chiêu “Thu Vũ Phiêu Phiêu”, kiếm ý hòa dịu, nhẹ nhàng, chủ về tốc độ hơn là lực đạo. Song chẳng phải vì vậy mà chiêu kiếm Huyền môn này kém lợi hại, kiếm ảnh giăng mắc tựa mưa Thu, áp đến bủa vây địch thủ. Trọng Khế thầm tán thưởng tài khoái kiếm kỳ tuyệt của kẻ hậu sinh, song cũng đau lòng khi thấy thanh gươm thân thiết mấy chục năm bị sứt mẻ. Lão tự an ủi rằng mình sẽ được bồi thường thỏa đáng khi hạ sát Tử Khuê và đoạt lấy kiếm báu của chàng. Lão có chứng kiến canh bạc giữa Trình Thiên Kim và Đỗ Hầu, nên đoán đây chính là thanh “Đảo Nguyên thần kiếm”. Những ý nghĩ ấy thoáng qua trong chớp măt. Trọng Khế xuất chiêu “Tuyết Lạc Thiên Sơn” chặn đứng đường gươm thần tốc của đối thủ và phản kích bằng chiêu “Sơn Mạch Cửu Bàn” (Hướng núi quanh co chín khúc). Trường kiếm và cánh tay phải lão uyển chuyển lạ thường, quỹ đạo của mũi gươm cực kỳ phức tạp, rối rắm khiến Từ Khuê không sao xác định được những vị trí bị uy hiếp. Nhưng là người sở đắc đạo biến hoá, Từ Khuê chẳng chút bối rối, thi triển “Thất Tinh Tranh Huy” đâm liền bảy thức theo gần đúng phương vị chòm sao Bắc Đẩu. Chiêu này rất đơn giản vì chỉ có đúng bảy thế kiếm. Diệu dụng của nó nằm trong yếu tố tốc độ và dũng khí. Từ Khuê dường như không hề đếm xỉa đến thanh kiếm quỷ dị của đối phương, thản nhiên sấn tới để đổi mạng. Từ ý nghĩ đến hành động có một khoảng cách nhất định, bao gồm vận tốc truyền dẫn của dây thần kinh và phản ứng nhanh nhạy của cơ bắp. Con người bị lão hóa theo thời gian, nên người già luôn chậm chạp hơn kẻ trẻ trung. Trong kiếm thuật cũng vậy, cánh tay đầy những bắp thịt thanh xuân, nhạy cảm của Tử Khuê đã thực hiện của tâm ý một cách gần như đồng thời. Vả lại, đường thẳng ngắn hơn đường cong, những thế kiếm rất giản dị của chàng đã nhanh hơn đường gươm hoa mỹ, phức tạp của đối phương. Vì nhanh hơn nên bắt kịp, mũi kiếm “Đảo Nguyên” chạm vào thân kiếm của Trọng Khế và đẩy nó lệch đi. Sau đó, hai thức đâm còn lại hướng tới mặt và ngực nạn nhân. Bạch Điển thư sinh hồn phi phách tán, nghiêng dầu tránh né và xòe tả thủ che kín huyệt Đản Trung để đỡ nhát kiếm chết người. Lý ra, mũi kiếm “Đảo Nguyên” phải xuyên thủng cả lòng bàn tay lẫn ngực họ Đinh. Nhưng một âm thanh khô khốc của kim loại chạm nhau đã vang lên, và Trọng Khế chỉ bị đẩy lùi. Nghĩa là bàn tay của lão che chở bởi một lớp thép vô cùng chắc chắn. Bọn dũng sĩ ngưòi Thổ đứng vòng bên ngoài “ồ” lên tiếc rẻ. Và có tiếng nữ nhân run rẩy cảnh báo: - Tướng công! Tả thủ của Đinh lão quỷ có mang chiếc bao tay đan bằng thép. Đấy chính là giọng nói của Dịch Tái Vân. Tử Khuê gật đầu tỏ ý đã hiểu, trong lúc vẫn tấn công như vũ bão. Tuy đối phương có bảo vật hộ thân song chàng chẳng hề ngán ngại, thi triển bộ pháp “Tiên nữ túy phong” và tài khoái kiếm kỳ tuyệt áp đảo kẻ địch. Ngoài hai ưu thế ấy, Tử Khuê còn có một thứ mà họ Đinh không có, đó là kinh nghiệm giao đấu. Mấy chục năm qua, Trọng Khế như kẻ chơi cờ với chính mình, chẳng thể biết các nước cờ ảo diệu của thiên hạ. Lòng tự tôn bị tổn thương, Trọng Khế dồn hết chân khí ra thanh kiếm thi thố « Thiên Sơn kiếm pháp » đến tốc độ chót, hóa giải đường gươm ác liệt của Tử Khuê và phản kích lại. Với tu vi hơn hẳn hoa giáp, thanh kiếm trong tay lão vun vút, xé nát không gian. Kiếm phong cuồn cuộn quyện lấy ngàn vạn bông tuyết trắng, hung hãn vây bủa lấy đối thủ. Thép chạm thép vang rền, Tử Khuê điềm nhiên cự địch, ăn miếng trả miếng chẳng hề chịu sút kém. Bạch Điển thư sinh mỗi lúc càng điên tiết khi thấy tên hậu bối kia luôn tránh được những đòn trí mạng bằng một thân pháp huyền ảo tuyệt luân. Gã chết giẫm ấy cứ như hồn ma bóng quế, lão chẳng thể nào chạm đến được. Và đã đến lúc “Đảo Nguyên thần kiếm” phát huy uy lực. Sau hàng ngàn lần va chạm lưỡi kiếm Trọng Khế bị mẻ không còn chừa chỗ nào và thậm chí có những chỗ bị tổn thương đến bốn năm lần, hằn rất sâu làm giảm độ bền chắc. Tử Khuê hiểu rõ điều ấy, bất ngờ xuất chiêu “Lôi Môn Trảm Quái” trong “Lôi Đình kiếm pháp”. Chiêu này lấy ý từ đao pháp có những thế chém cực mạnh. Dẫu biết rằng bất lợi, song Đinh Trọng Khế vẫn phải vung gươm chống trả chứ không thể né tránh. Lão đã lùi khá sát vòng vây của bọn dũng sĩ người Thổ, chẳng còn đất lui nữa. Vả lại, Tử Khuê tràn đến quá nhanh. Nếu nói về kiếm thuật thì tuyệt học “Lôi Đình” oai trấn võ lâm đứng đầu vũ nội. Nó còn lợi hại hơn cả “Thanh Long kiếm pháp” của Huyền Hư phái. Năm xưa, Trung Thiên Tôn đả bại được Lôi Đình Đế Quân là nhờ Trác Ngạn Chi đã mất sức sau khi đấu với Nam - Bắc Thiên Tôn. Sau này, tuy đã bước qua cửa Kiếm Đạo song Trần lão vẫn luôn tán thưởng “Lôi Đình kiếm pháp” và dặn dò Tử Khuê không được xem thường. Ngờ đâu chàng may mắn học được chính nó, trở thành kiếm thủ bậc nhất trong thiên hạ. Chiêu “Lôi Môn Trảm Quái”cũng nằm trong số vốn thủ mạng của Trác Ngạn Chi. Lão không dạy cho bất cứ ai, cả Tiêu Lập Dân lẫn Nhạc Cuồng Loan. Nhưng Hoành Sơn Tiên Nữ trí nhớ tuyệt luân, chỉ lén đọc qua một lượt là chép lại không sai nửa chữ. Ngạc Chi hắt hủi Tiên Nữ vì Trác Thanh Châu là gái, bỏ đi chẳng ngờ rằng lại lỗ vốn to. Giờ đây, “Đảo Nguyên thần kiếm” giáng những đòn sấm sét, chém đứt thanh gươm đầy thương tích và tiện đứt cánh tay của Bạch Điển thư sinh. Tử Khuê không có ý định giết lão, nhưng Tang Đông Dã đã bất ngờ lướt đến đâm thủng cổ họng Đinh Trọng Khế.