← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X CHÍNH THỂ VÀ LỊCH SỬ

Thi sĩ Anh Alexander Pope (1688-1744) bảo chỉ có hạng ngốc mới thảo luận về các chính thể. Vì lịch sử cho ta thấy chính thể nào cũng có cái hay và xét chung thì sự “thống trị” nào cũng có lợi. Con người vốn yêu tự do mà muốn được tự do thì các phần tử trong một xã hội phải theo một số phép tắc cư xử nào đó, cho nên điều kiện đầu tiên để được tự do là sự tự do phải bị hạn chế; để cho tuyệt đối tự do thì sẽ sinh ra hỗn loạn mà tự do sẽ chết nghẹt. Vậy nhiệm vụ đầu tiên của một chính quyền là thiết lập trật tự; nếu người ta muốn ngăn sức phá hoại mạnh vô cùng của tư nhân thì chỉ có mỗi một cách là lập một chính quyền trung ương có tổ chức. Quyền hành tự nhiên phải tập trung vào một trung tâm vì nó sẽ bất lực nếu có bị phân tán, loãng ra, phổ cập, như xứ Ba Lan dưới chế độ Liberum Veto[1]; cho nên các sử gia vẫn hoan nghênh sự tập trung quyền hành có lợi cho chế độ quân chủ, như Richelieu hoặc Bismark đã thực hiện ở Pháp và Phổ, bất chấp sự phản kháng của bọn phong kiến. Đó cũng chính là lí do khiến dân chúng Hoa Kì đã giao hết cả quyền hành cho chính phủ liên bang; nói tới “quyền của các tiểu bang” làm gì khi mà kinh tế đâu biết tới ranh giới của mỗi tiểu bang, mà việc điều khiển kinh tế chỉ có một cơ quan trung ương mới làm nổi. Ngày nay, kĩ nghệ, thương mại, tài chính, đương vượt khỏi biên giới các quốc gia mà lần lần có hình thức quốc tế.

Chế độ quân chủ có vẻ là chính thể tự nhiên nhất, vì nó áp dụng vào dân chúng qui tắc này: quyền hành thuộc về gia trưởng hoặc thủ lãnh một đoàn chiến sĩ. Và nếu dùng hai tiêu chuẩn: Đa số và trường cửu để thẩm định các chính thể, thì nhất định chúng ta phải tặng giải nhất cho chế độ quân chủ; đem ra so sánh thì các chế độ dân chủ chỉ là những lớp tuồng phụ cuồng loạn thôi.

Khi chế độ quân chủ La Mã sụp đổ vì các cuộc đấu tranh giai cấp (anh em Gracchus, Marius, César) thì Auguste[2] lập lại trật tự, dưới chế độ quân chủ, thực hiện được một việc lớn lao nhất trong lịch sử chính trị, tức tạo nên được cảnh Thăng bình La Mã (Pax Romana), suốt từ năm -30 đến năm 180 trên toàn cõi một đế quốc từ Đại Tây dương tới sông Euphrate và từ xứ Ecosse tới Hắc hải. Sau ông, các hoàng đế Caligula, Néron và Domitien làm cho chế độ quân chủ mất thanh thế, nhưng họ được những người kế vị: Nerva, Trajan, Hadrien, Antonin và Marc Aurèle, mà Renan phải khen là “thế giới chưa bao giờ được một loạt minh quân tài giỏi như vậy”. Sử gia Gibbon bảo: “Nếu phải chỉ ra một thời đại mà nhân loại được sung sướng nhất, thịnh vượng nhất, thì người ta nghĩ ngay tới thời từ khi Nerva lên ngôi tới khi Marc Aurèle chết”. Mấy triều đại đó gom lại thành một thời đại duy nhất trong lịch sử mà nhà cầm quyền chỉ chuyên lo tới hạnh phúc một đại dân tộc[3]. Trong thời rực rỡ đó các dân tộc qui phục La Mã, lấy làm sung sướng về thân phận của họ, chế độ quân chủ không có tính cách thế tập mà có tính cách lập tự, nghĩa là ngôi vua không truyền tử mà truyền hiền; nhà vua lựa người nào có tài năng nhất mà nhận làm con nuôi, chỉ bảo cho việc trị nước rồi tuần tự giao phó quyền hành cho. Chính sách đó không gặp trở ngại, một phần vì cả Trajan lẫn Hadrien đều không có con trai, còn các con trai của Antonin thì lại chết sớm. Marc Aurèle có một người con trai tên là Commode, nối ngôi ông vì vị hoàng đế hiền triết đó quên không chỉ định một người kế vị; tức thì cảnh hỗn loạn phát ra liền[4].

Xét toàn thể thì chế độ quân chủ đã thành công một cách trung bình chứ không hơn. Tính cách liên tục - cũng gọi là “chính thống” - của nó có lợi bao nhiêu thì những chiến tranh kế vị do nó gây ra cũng có hại cho nhân loại bấy nhiêu. Khi ngôi vua mà cha truyền con nối thì hạng vua ngu độn, vô trách nhiệm, cuồng bạo, lạm dụng quyền hành để cất nhắc người thân thích nhiều hơn hạng minh quân tâm hồn cao thượng hoặc có tài chính trị. Người ta thường đưa vua Louis XIV làm gương cho các ông vua cận đại, nhưng khi ông băng thì dân Pháp mừng rỡ. Còn các quốc gia hiện đại thì việc nước phức tạp quá, không một người nào dám một mình đảm đương lấy hết được.

Vì vậy hầu hết các chính quyền đều là những chính thể thiểu số, thiểu số cai trị này được tuyển hoặc do dòng dõi (như trong chế độ quí tộc), hoặc do giáo hội (như trong chế độ thần quyền), hoặc theo tài sản (chế độ dân chủ). Đa số mà cầm quyền thì không phải là điều tự nhiên; ngay Rousseau cũng đã nhận thấy vậy. Vì rất hiếm thấy một đa số có thể tổ chức được để đồng tâm nhất trí trong một hoạt động đặc biệt, còn một thiểu số thì có thể như vậy được. Nếu quả thực là một thiểu số có gần hết các tài năng, thì thiểu số đó cầm quyền là điều không thể tránh được cũng như sự tập trung của cải vào tay một nhóm người; đa số chỉ còn có mỗi một cách là lâu lâu lại lật đổ thiểu số khác lên cầm quyền. Bọn quí tộc cho rằng cách tuyển lựa chính trị gia theo huyết thống có phần sáng suốt hơn cách tuyển lựa theo của cải, theo thần học hoặc bằng bạo động.

Chế độ quí tộc lựa một số ít người, tránh cho họ sự tranh đua về kinh tế nó làm kiệt lực con người, khiến con người hóa ra thô lỗ, và chuẩn bị cho họ từ hồi nhỏ - bằng cách nêu gương cho họ, đặt họ vào những hoàn cảnh thuận tiện, tập cho họ làm những chức vụ phụ thuộc - để lớn lên họ đảm nhiệm việc trị nước được; công việc trị nước này cần một sự chuẩn bị đặc biệt, không phải một gia đình, một giới tầm thường nào cũng thực hiện được. Chế độ quí tộc không phải chỉ là một trường đào tạo chính trị gia, mà còn duy trì, truyền bá văn hóa, phép tắc lịch sự, phép phán đoán và giám thức nữa; nó ngăn chặn bớt những mốt mới điên khùng trong xã hội hoặc nghệ thuật, những thay đổi quá thường của luân lí. Giới quí tộc bảo: “Luân lí, phép lịch sự, bút pháp, kiểu thức và nghệ thuật từ thời Cách mạng Pháp đã suy đồi ra sao, các ông thấy không?”.

Giới quí tộc đã gợi hứng, nâng đỡ và hướng dẫn nghệ thuật nhưng rất ít khi sản xuất nghệ phẩm. Họ coi các nghệ sĩ, như hạng lao động tay chân; họ thích nghệ thuật sống hơn là đời sống nghệ sĩ, và không bao giờ có cái ý tự hạ mình xuống sống một cuộc đời cần cù cực nhọc để thành một thiên tài. Họ không làm văn thơ vì cho rằng viết để xuất bản là một hình thức phô trương có tính cách thương mại. Cho nên bọn quí tộc cận đại thường theo chủ nghĩa hưởng lạc, sống một cách tài tử; họ coi cuộc đời như những kì nghỉ lâu dài, cứ hưởng cho thật nhiều đặc quyền do địa vị của mình, mà nhiều khi chẳng cần biết tới trách nhiệm. Vì vậy một số quí tộc đã suy đồi. Đời ông nói: “Quốc gia là trẫm” thì đời cháu đã nói: “Trẫm chết rồi, đời sau thế nào thì mặc”[5]. Thành thử công lao của giới quí tộc không đủ miễn tội cho họ khi họ nắm hết quyền hành và đặc quyền, áp bức, bóc lột dân chúng, chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không nghĩ tới cái lợi dài hạn, khi họ đui mù ương ngạnh cố giữ những thủ tục của tổ tiên, làm cho sự tiến hóa của quốc gia chậm lại, khi họ hi sinh biết bao nhân mạng tài sản vào cái trò chơi của các “ông lớn”, tức cái trò chiến tranh vương thống hoặc chiến tranh chiếm đất. Lúc đó, những kẻ bị hi sinh đoàn kết nhau lại, nổi loạn; bọn tân phú gia liên kết với bần dân để lật đổ bọn cầm quyền ích kỉ làm cho quốc gia ngưng trệ; máy chém làm rơi hàng ngàn đầu quí tộc, và chế độ dân chủ lên thay thế, cũng lại tỏ ra bất lực trong việc trị nước.

Lịch sử có chứng minh rằng các cuộc cách mạng thật là cần thiết không? Không phải ngày nay người ta mới đặt câu hỏi đó. Luther đã cả gan đoạn tuyệt với Giáo hội Thiên chúa, trong khi Erasme chỉ muốn kiên nhẫn tuần tự cải cách tôn giáo thôi; Charles James Burke[6] muốn bảo vệ sự liên tục của truyền thống chứ không muốn tạo ra những thuyết mới, chế độ mới. Trong vài trường hợp, có những chế độ vừa lỗi thời vừa cứng nhắc, bất di bất dịch, cơ hồ phải dùng tới bạo động để lật đổ, như trường hợp của Nga năm 1917. Nhưng thường thì sự phát triển về kinh tế có một áp lực mỗi ngày mỗi mạnh đủ thay đổi một chế độ mà chẳng cần phải nhờ tới cách mạng. Hoa Kì có một cuộc cách mạng nào đâu mà cũng thành quốc gia chủ yếu trong phần thế giới nói tiếng Anh. Cuộc Cách mạng Pháp đưa giai cấp tư sản kinh doanh lên thay giai cấp quí tộc chủ điền; nhưng nước Anh ở thế kỉ XIX cũng đạt được kết quả đó mà không phải đổ máu, xã hội không phải xáo trộn. Đột nhiên đoạn tuyệt với quá khứ tức là khêu gợi sự cuồng loạn, nó thường xảy ra sau một cuộc khích động chém giết đột phát. Sức khỏe tinh thần của cá nhân nhờ sự liên tục của kí ức, thì sức khỏe tinh thần của một tập thể cũng vậy, phải nhờ vào sự liên tục của truyền thống; trong cả hai trường hợp đó, sự gián đoạn mất liên tục sẽ gây một phản ứng về thần kinh, như thành phố Paris trong các cuộc tàn sát tháng chín năm 1792.[7]

Một nước giàu có là nhờ sản xuất nhiều, khéo giao hoán, chứ không nhờ sự tích lũy (của cải nào, tích lũy lâu thì cũng hư hại, mất mát); nhờ sự tin cậy ở người và chế độ, (chế độ tín dụng) chứ không nhờ cái giá trị cố hữu của các chi phiếu và của giấy bạc, vì vậy các cuộc cách mạng tàn bạo chỉ hủy diệt tài sản chứ không phân phối lại tài sản. Có thể chia đất lại đấy, nhưng do sự bất bình đẳng tự nhiên giữa con người mà chẳng bao lâu sau, sự bất bình đẳng về tài sản và đặc quyền sẽ phục hồi, và một thiểu số lại lên cầm quyền, cũng có những bản năng căn bản của bọn cầm quyền trước [cũng ích kỉ, ham quyền, ham lợi]. Chỉ có mỗi một cuộc cách mạng thực sự là mở mang trí tuệ, cải thiện tư cách; chỉ có mỗi một sự giải phóng thực sự là sự giải phóng con người, và các nhà cách mạng chân chính là các triết gia và các vị thánh.

Nếu ta theo cái nghĩa hẹp của danh từ “dân chủ” thì chỉ thời hiện đại, gần như là chỉ từ cuộc Cách mạng Pháp, nhân loại mới có chế độ dân chủ.

Nếu ta lấy sự phổ thông đầu phiếu của riêng phái nam làm tiêu chuẩn thì ở Hoa Kì bắt đầu có chế độ dân chủ từ thời tổng thống Andrew Jackson[8]; nhưng nếu ta lấy sự phổ thông đầu phiếu đích thực [cho cả nam lẫn nữ] làm tiêu chuẩn thì chế độ dân chủ mới có từ khi thế hệ tôi còn trẻ.[9]

Ở Attique[10] toàn thể dân số là 315.000 người, mà 115.000 người là nô lệ, chỉ có 43.000 người được quyền bầu cử, có tư cách công dân. Đàn bà, hầu hết các thợ thuyền, hầu hết các tiểu thương gia và thợ thủ công, với tất cả các ngoại kiều, đều không được quyền bầu cử. Còn thiểu số công dân kia thì chia làm hai phe: một phe nhỏ cầm quyền gồm hầu hết là giới quí tộc chủ đất và giới đại tư sản, một phe bình dân gồm những tiểu điền chủ, tiểu thương gia và những công dân phải làm việc để kiếm ăn nhưng vẫn giữ được quyền công dân. Dưới trào Périclès (từ -460 đến -430), bọn quí tộc cầm quyền và Athènes cực thịnh về phương diện văn học, kịch và các nghệ thuật khác. Sau khi Périclès mất, và Athènes bị thất bại trong chiến tranh Péloponnèse (từ -430 đến

-404), làm cho giới quí tộc mất uy tín, thì bọn Démos (bình dân) tức bọn công dân hạ cấp lên cầm quyền, khiến cho Socrate và Platon rất thất vọng. Từ thời Solon[11] tới khi Hi Lạp bị La Mã chiếm (-146) hai phe quí tộc và bình dân đả kích nhau bằng sách, kịch, diễn thuyết, khuynh loát nhau bằng lá phiếu, lưu đày nhau, ám sát nhau, gây ra nội chiến liên miên. Ở Coreyre (nay là Corfou), năm 427, bọn thiểu số quí tộc lên cầm quyền ám sát sáu chục nhà lãnh đạo đảng bình dân; phe dân chủ lật họ, đưa năm chục người trong bọn họ ra trước một ủy ban tựa như ủy ban cứu quốc, hành hình họ, không tha một người, rồi bắt giam mấy trăm quí tộc, để họ chết đói trong khám. Thucydide chép lại vụ đó, làm cho ta nhớ tới không khí ở Paris trong những năm 1792 - 1793:

“Trong bảy ngày, dân chúng Corcyre chỉ lo giết những công dân mà họ coi là kẻ thù… Sự chết chóc dưới mọi hình thức, lan tràn một cách dữ dội, và như vẫn thường xảy ra trong những thời như vậy, sự tàn bạo chẳng bao lâu đạt tới cực độ; con bị cha giết; những kẻ đương cầu nguyện cũng bị lôi ra khỏi chỗ làm lễ hoặc bị cứa cổ ngay ở dưới chân bàn thờ… Thế là cuộc cách mạng lan từ thị trấn này qua thị trấn khác, và tại những nơi cách mạng tới sau cùng, người ta học được kinh nghiệm của các nơi trước, càng trả thù nhau một cách tàn khốc hơn nữa… Corcyre nêu gương tội ác đầu tiên… bọn bị trị trước kia bị đối xử luôn luôn bất công và tàn nhẫn bây giờ trả thù lại… Con người bị lòng căm thù, oán ghét kích thích, hóa ra tàn nhẫn, man rợ… Các phần tử ôn hòa đều bị cả hai nhóm [chiến đấu] kia thủ tiêu… Toàn thể xã hội Hi Lạp giãy giụa, lên cơn động kinh”.

Trong cuốn Cộng hòa, Platon cho Socrate diễn những ý của chính ông, mạt sát nền dân chủ Athènes thành công: Ông bảo nó là cảnh hỗn loạn vì nạn giai cấp đấu tranh, cảnh suy đồi về văn hóa, thoái hóa về đạo đức. Bọn dân chủ khinh miệt đức điều độ mà chúng cho là thiếu hùng dũng… Chúng gọi là sự xấc láo là có giáo dục, sự vô trật tự là tự do, sự phung phí là tráng lệ, sự vô liêm sỉ là can đảm… Cha quen tự hạ mình xuống ngang hàng với con và sợ con, còn con thì tự đặt mình ngang hàng với cha, chẳng sợ sệt gì, có thái độ vô liêm sỉ đối với cha mẹ… Thầy sợ và nịnh trò, trò khinh thầy… Bọn già bắt chước bọn trẻ, sợ bị chúng chê là hay càu nhàu, hách dịch… Chúng ta cũng đừng quên ghi thêm điều này: Nam nữ tự do và bình đẳng trong sự giao thiệp với nhau… Nhà cầm quyền hơi muốn dùng quyền hành là các công dân đã bất bình rồi và rốt cuộc… họ khinh miệt cả luật pháp thành văn cũng như bất thành văn… Sự độc tài phát sinh từ tình trạng đẹp đẽ vẻ vang ấy… Trong mọi việc, sự quá khích luôn luôn gây một phản ứng ngược lại… Chế độ dân chủ tự nhiên gây ra sự độc tài, và những hình thức tự do quá mức luôn luôn gây ra những hình thức áp chế, nô lệ trầm trọng nhất.

Khi Platon mất (-347) thì lịch sử gần như xác nhận một cách hiển nhiên lời ông chỉ trích chế độ dân chủ Athènes, Athènes lại khôi phục được sự phong phú nhưng nhờ thương mại chứ không nhờ đất đai; ở trên chóp cái xã hội đã được cải tổ lại ấy, là bọn kĩ nghệ gia, thương gia và chủ ngân hàng. Hoàn cảnh mới đó gây ra một cuộc tranh đấu cuồng nhiệt vì tiền, một sự thèm khát, tham lam vô độ mà người Hi Lạp gọi là pleonexia. Bọn tân phú gia - neoploutoi - sai xây cất những dinh thự lộng lẫy, sắm cho vợ quần áo và châu báu để đeo đầy người, tặng họ hằng tá nô lệ, và ganh đua nhau đãi đằng khách khứa. Cái hố phân cách kẻ giàu người nghèo càng ngày càng lớn rộng ra; như Platon nói, Athènes chia thành “hai khu: khu giàu và khu nghèo, hai khu chiến đấu với nhau”. Người nghèo lập kế hoạch tước đoạt kẻ giàu bằng luật pháp, thuế khóa, cả bằng một cuộc cách mạng nữa; kẻ giàu đoàn kết nhau để tự bảo vệ, chống cự lại với người nghèo. Theo Aristote, hội viên của vài đoàn thể quí tộc long trọng thề rằng: “Tôi sẽ là kẻ thù của bọn bình dân (tức của bọn không phải là quí tộc) và ở Quốc hội, tôi sẽ làm hại họ càng nhiều càng tốt”. Isocrate viết vào khoảng năm -366: “Bọn giàu đã mất hết ý thức nhân quần tới nỗi những kẻ có dư thà liệng của xuống biển[12] chứ không chịu giúp đỡ kẻ túng thiếu, còn bọn nghèo giá tìm được một kho vàng thì cũng không thích bằng tước đoạt của cải của bọn giàu”. Hạng công dân nghèo chiếm được đa số ở Quốc hội và dùng luật pháp bắt bọn giàu phải nộp hết tiền bạc vào quốc khố, để chính phủ phân phát cho dân nghèo bằng cách tạo công việc cho họ làm và trợ cấp cho họ. Các chính khách khôn lanh dùng mọi cách để phát giác những nguồn lợi mới của quốc gia. Trong vài thị trấn, sự phân tán kinh tế[13] được thực hiện một cách trực tiếp hơn: Ở Mytilène bọn con nợ giết hết bọn chủ nợ, ở Argos, bọn dân chủ thình lình tấn công bọn giàu có, giết hằng mấy trăm mạng và tịch thu tài sản của họ. Trong các tiểu bang Hi Lạp vốn kình địch nhau, các gia đình giàu có liên kết ngầm với nhau để giúp đỡ lẫn nhau mà đương đầu với các cuộc nổi loạn của bọn bình dân. Giai cấp trung lưu cũng như giai cấp phú hào bắt đầu nghi kị chế độ dân chủ, cho nó là chế độ của bọn nghèo ghen ghét bọn giàu; rồi chính bọn nghèo cũng hết tin chế độ dân chủ vì quyền bầu cử bề ngoài có vẻ cho mọi người bình đẳng, nhưng thực ra không che đậy được sự bất bình đẳng rất tàn nhẫn về tài sản. Càng ngày càng mất tinh thần vì cuộc giai cấp đấu tranh đó, khi bị vua Philippe ở Macédoine[14] xâm lăng năm 338, dân tộc Hi Lạp hoàn toàn chia rẽ cả về nội bộ lẫn trên phương diện quốc tế; nhiều người Hi Lạp phong lưu cho rằng bị xâm lăng như vậy còn hơn là bị một cuộc cách mạng. Vì vậy mà chế độ dân chủ Athènes bị chế độ độc tài của Macédoine thay thế.

Theo Platon, các chính thể diễn tiến từ chế độ quân chủ qua chế độ quí tộc, rồi dân chủ, sau cùng là độc tài; luật đó cũng được lịch sử La Mã minh chứng. Trong hai thế kỉ thứ ba và thứ hai trước tây lịch, một chế độ quí tộc La Mã thi hành một chính sách ngoại giao và tạo một đạo quân có kỉ luật để xâm chiếm và bóc lột các nước chung quanh Địa Trung hải. Bọn quí tộc chia nhau của cải chiếm được, còn bọn đại tư sản làm giàu quá độ nhờ thương mại phát triển. Dân các nước bị chiếm: Hi Lạp, các nước Cận đông và Ả Rập bị bắt đưa về Ý để làm nô lệ trong các điền địa (Latifundia) mênh mông của La Mã; những người Ý trước kia làm ruộng, [bây giờ thất nghiệp vì có bọn nô lệ đó] ùa ra các thị trấn, do giai cấp vô sản tăng lên, sinh sản mau, hóa ra bướng bỉnh, gây gổ, và Caius Gracchus năm -123 phải xin chính phủ mỗi tháng phát chẩn lúa cho họ. Tướng lĩnh và tổng trấn ở tỉnh về[15], rương đầy nhóc của cải họ cướp bóc của dân để tiêu dùng và tặng giai cấp thống trị; số người triệu phú rất đông; trước kia chỉ bọn có nhiều đất mới có quyền hành chính trị, nay bọn có nhiều tiền thay thế họ; các đảng phái kình địch nhau, tranh nhau bỏ tiền ra mua chuộc ứng cứ viên và cử tri; năm -53, chỉ một nhóm cử tri được đút lót 10.000.000 sesterce[16]. Và tới khi thiếu tiền thì vẫn còn cách khác là giết: Có những công dân bỏ phiếu bậy bị đánh đập tới chết, còn nhà cửa thì bị đốt. Chưa bao giờ thời Thượng cổ có một chính quyền giàu như vậy, mạnh như vậy mà thối nát như vậy. Bọn quí tộc dựa vào Pompée để giữ quyền thống trị; bọn bần dân đứng về phía César, lần này thắng bại không do tiền nhiều hay ít nữa mà do may rủi của chiến tranh; César thắng và thành lập chế độ độc tài nhân dân. Bọn quí tộc ám sát ông ta, nhưng rốt cuộc cũng phải nhận sự độc tài của Auguste, vừa là cháu [gọi César bằng ông chú hay ông bác], vừa là con rể của César. (-27). Thế là chế độ dân chủ sụp đổ, chế độ quân chủ được phục hưng. Cái vòng kể trên của Platon đã khép lại.

Mấy thí dụ cổ điển đó cho phép ta suy luận rằng chế độ dân chủ thời thượng cổ bị chế độ nô lệ, thói tham tiền vụ lợi, và chiến tranh làm cho bại hoại từ căn bản, nên không đáng mang cái danh dân chủ; nó không cho ta dược một ý niệm đúng về một chính quyền nhân dân. Ở Hoa Kì, chế độ dân chủ có nền móng rộng hơn. Nó đã được hưởng hai di sản của Anh: Luật anglo-saxon từ hồi Đại Hiến chương[17] đã bênh vực công dân chống với Chính phủ; và đạo Thệ phản (Tin Lành) đã mở đường cho tự do tín ngưỡng và tư tưởng. Cuộc Cách mạng Hoa Kì không phải chỉ là một cuộc nổi loạn của dân thuộc địa chống mẫu quốc ở xa, mà còn là cuộc nổi dậy của giới tư sản bản xứ chống lại giới quí tộc ở Anh qua. Nhờ nhiều đất còn trống và nhờ một pháp chế rất sơ sài, cuộc nổi loạn hóa dễ dàng và mau thành công. Những người làm chủ khu đất họ trồng trọt đó, và chỉ bị thiên nhiên hạn chế thôi, tự tạo lấy hoàn cảnh sinh hoạt cho mình, nên có được cái căn bản kinh tế cho sự tự do và chính trị; tư cách, tính khí của họ đâm rễ trong lòng đất. Chính những người như vậy đã bầu Jefferson làm tổng thống, ông này cũng hoài nghi ngang Voltaire và cách mạng không kém Rousseau. Một chính quyền can thiệp rất ít vào việc dân, làm cho sinh lực cá nhân được giải phóng để biến đổi hẳn Hoa Kì: từ một miền hoang vu thành một cõi thiên đường cho hạng theo chủ nghĩa duy vật; từ thân phận một đứa con bị bảo hộ của châu Âu thành ra kình địch và giám hộ cho châu Âu. Sự cô lập ở thôn quê[18] khiến cho cá nhân được tự do, và sự cô lập của quốc gia, hai bên có hai đại dương che chở, bảo đảm cho sự tự do và sự an ninh của Hoa Kì. Đó là vài trong vô số yếu tố khiến Hoa Kì có một nền dân chủ có căn bản hơn, phổ biến hơn tất cả những nền dân chủ từ trước tới thời đó.

Đa số những yếu tố ấy ngày nay không còn nữa. Sự bành trướng của các thị trấn lớn đã làm cho cá nhân không còn cô lập nữa. Sự độc lập của cá nhân cũng mất: Người lao động phải lệ thuộc các dụng cụ và một tư bản không phải của họ, lệ thuộc những điều kiện làm việc họ không thay đổi được. Chiến tranh càng ngày càng có tính cách tàn phá và cá nhân không làm sao hiểu được nguyên nhân, hoặc tránh được hậu quả. Không còn đất trống nữa, tuy nhiên tư sản đã được phổ biến (với tối thiểu thổ địa). Xưa kia thợ thủ công tự làm chủ mình, ngày nay thành một khí cụ trong tay các nhà đại phân phối, và có thể tán thành lời phản kháng của Marx khi ông bảo rằng cái gì cũng bị lung lạc hết. Cả trong giai cấp trung lưu, cũng càng ngày càng hiếm thấy những người được tự do về kinh tế và người ta tự an ủi rằng còn được chút bề ngoài tự do về chính trị. Mà trái với điều chúng ta nghĩ khi còn đương ở tuổi thanh xuân bồng bột, tất cả tình trạng đó không do bọn giàu có bại hoại gây ra đâu, mà do hậu quả không tránh được của sự phát triển kinh tế và do chính bản tính con người. Mọi sự tấn bộ trong guồng máy phức tạp của kinh tế đều làm cho hạng người tài giỏi có thêm cơ hội thành công, làm gia tăng tốc độ tập trung tài sản, trách nhiệm và quyền hành chính trị.

Trong mọi chế độ chính trị, chế độ dân chủ khó thực hiện nhất vì nó cần một điều kiện là sự thông minh càng được phổ biến càng tốt; mà khi chúng ta tự đặt mình lên địa vị lãnh đạo thì chúng ta quên đi, không muốn thành người thông minh. Giáo dục được phổ biến đấy, nhưng sự thông minh luôn luôn thua sự ngây ngô, nó sinh sản rất mạnh[19]. Một người cực nửa đời đã nói: “Không phải vì lẽ sự ngu xuẩn rất phổ thông mà phải đặt nó lên ngai vàng”. Thực ra, sự ngu xuẩn không giữ được ngôi lâu vì nó bị những sức mạnh gây nên dư luận lung lạc. Có lẽ đúng như Lincoln nói, “người ta không thể lừa gạt tất cả mọi người hoài được”, nhưng người ta có thể gạt được một số người đủ để thống trị một nước lớn.

Chế độ dân chủ có chịu trách nhiệm về tình trạng sa đọa hiện tại của nghệ thuật không? Dĩ nhiên, không phải ai cũng cho rằng nghệ thuật ngày nay sa đọa; đó là vấn đề phê phán chủ quan. Người nào thấy ghê tởm trước những thái quá của nghệ thuật đó (những vết sơn vô nghĩa, những mảnh vụn dán bậy với nhau, những cái chuông mắt hỗn độn), thì nhất định là còn lệ thuộc quá khứ, không có can đảm thí nghiệm cái mới. Những người sáng tác các nghệ phẩm vô lí ấy đâu có nhắm đại chúng (đại chúng khinh họ là bất thường, sa đọa, lừa gạt) mà cốt để bán cho bọn giàu có dễ bị phỉnh, dễ chóa mắt vì lời rao hàng của người bán đấu giá, và phục sát đất tất cả những cái gì mới mẻ, dù dị dạng tới đâu. Chế độ dân chủ có chịu trách nhiệm về sự sa đọa đó thì chỉ ở điểm này: nó không biết đưa ra những giá trị, những giám thức có thể thay thế những cái mà giới quí tộc thời trước đã dùng để ngăn chặn bớt óc tưởng tượng và tinh thần cá nhân của các nghệ sĩ mà giữ cho nghệ phẩm của họ dễ hiểu đối với người thưởng ngoạn, diễn được đời sống và sự điều hòa của các bộ phận theo một thứ tự hợp lí, một toàn thể có mạch lạc chặt chẽ. Sở dĩ nghệ thuật này nay có vẻ “kì cục”, không phải chỉ vì nó được đại chúng gợi ý, chi phối, phổ biến[20], mà còn vì nó đã tận dụng những khả năng của các môn phái và các hình thức thời trước rồi; thành thử nó lúng túng trong một giai đoạn chuyển tiếp, đương tìm những hình thức, phong thể, qui tắc và khuôn phép mới.

Trừ mấy điểm kể trên ra, chế độ dân chủ đã ít hại mà lại nhiều lợi hơn tất cả các chế độ khác. Nó làm cho đời sống xã hội thêm hứng thú, nó tạo nên tinh thần bạn bè, những cái đó đủ bù những bước vụng về cùng nhược điểm của nó rồi. Nó đã cho ta sự tự do cần thiết cho sự phát triển của tư tưởng, khoa học và kinh doanh. Nó đả phá những hàng rào đặc quyền và giai cấp, và trong mỗi thế hệ nó đã cho hạng người tài giỏi xuất đầu lộ diện bất kì ở trong giai cấp nào. Nhờ nó kích thích mà Athènes và La Mã đã thành những thị trấn có tài sáng tạo nhất trong lịch sử; nhờ nó mà Hoa Kì trong hai thế kỉ đã làm cho tỉ số dân phong lưu tăng lên rất cao, trong lịch sử chưa từng thấy. Từ nay trở đi, chế độ dân chủ cương quyết tận lực phổ biến giáo dục, kéo dài thời gian đi học, đồng thời lo bảo vệ sức khỏe của dân chúng. Nếu nó làm cho mọi người đều có cơ hội ngang nhau để học hành, thì nó thực sự là “dân chủ”, và sự tồn tại của nó thực là chính đáng. Vì đây là phần đúng trong những khẩu hiệu của nó: Không phải mọi người có thể bình đẳng với nhau, nhưng có thể làm cho càng ngày người ta càng bình đẳng hơn trong cơ hội được giáo dục. Quyền của con người không phải là quyền được giữ chức vụ này, nắm quyền hành nọ, mà là cái quyền được thử mọi cách để phát triển khả năng lãnh một nhiệm vụ hoặc một quyền hành. Quyền lợi không phải là của Thượng Đế, hoặc của Thiên nhiên ban cho, mà phải là một đặc quyền [do xã hội ban] mà cá nhân phải dùng vào việc ích cho xã hội.

Ngày nay ở Anh, Hoa Kì, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Gia Nã Đại, chế độ dân chủ mạnh mẽ, vững vàng hơn bao giờ hết. Nó đã can đảm, cương quyết chống lại sự tấn công của các chế độ độc tài ngoại lai, và nó vẫn chưa chịu nhường bước cho các mưu mô độc tài nội tại. Nhưng nếu chiến tranh tiếp tục nuốt nó, chi phối nó, hoặc nếu cái tham vọng xấu xa muốn chiếm cả thế giới làm cho nó quân đội hóa hơn nữa, thì rất có thể các tự do dân chủ lần lượt mất hết. Nếu các chiến tranh chủng tộc, giai cấp chia rẽ chúng ta thành những phe đảng thù nghịch nhau, không còn tranh luận về chính trị với nhau nữa mà mù quáng căm hận nhau, thì rất có thể một trong những phe đảng sẽ thay chế độ tuyển cử bằng uy lực của lưỡi gươm. Và nếu chế độ kinh tế tự do của chúng ta không phân phối tài sản một cách cũng thông minh như khi sản xuất tài sản, thì con đường độc tài sẽ mở rộng cho kẻ nào khéo thuyết phục quần chúng rằng mình có thể bảo đảm sự an toàn cho mọi người; mà một chính phủ quân nhân, dù có tự che đậy, tô điểm bằng những lời hấp dẫn ra sao đi nữa, thì cũng vẫn có nghĩa là chế độ dân chủ đã cáo chung.

Chú thích:

[1] Nghĩa là tự do phủ nhận: chế độ này áp dụng ở Ba Lan từ năm 1652, làm cho Ba Lan hỗn loạn, suy nhược, vì cho phép mỗi vị trong Quốc hội có quyền xin ngưng các cuộc thảo luận về một vấn đề nào đó, cả quyền hủy bỏ các quyết định trong buổi họp nữa. Mãi đến năm 1791 chế độ đó mới bãi bỏ.

[2] Sinh năm 63, mất năm 14.

[3] Trong cuốn “Lịch sử sự suy vi và sụp đổ của đế quốc La Mã”.

[4] Chúng ta nên nói thêm rằng theo một số sử gia, trong thế kỉ của dòng Antonin, các hoàng đế cố lập lại trật tự trong cảnh suy vi của La Mã, nhưng không thành công. Coi cuốn Khảo luận về Sử của Arnold Toynbee. [Theo chú thích của tác giả. (Goldfish)]

[5] Câu: “Quốc gia là trẫm” là của Louis XIV, một ông vua Pháp chuyên chế nhưng siêng năng, nắm hết cả việc nước. Câu sau, dịch cho đúng từng chữ là: “Sau trẫm là cơn hồng thủy”, tương truyền của Louis XV, cháu nội Louis XIV, thốt ra trong khi ông ta đương ham vui, bực mình vì có người lại nhắc ông những việc rắc rối trong nước. Ý ông muốn nói rằng: “Tình trạng khó khăn ra sao thì cũng duy trì được suốt đời ta. Ta chết rồi, kẻ kế vị ta xoay sở ra sao thì xoay sở”. Nghĩa là ông ta chẳng quan tâm gì tới việc nước cả. Nhưng có sử gia cho rằng câu đó chính là: “Sau chúng mình là cơn hồng thủy” không phải của Louis XV, mà của bà De Pompadour tình nhân của Louis XV, nói với Louis XV.

[6] Burke (1728 hay 1730-1797) là một văn sĩ và chính trị gia Anh, vừa là bạn vừa là thầy của Charles James Fox. Ông là tác giả cuốn “Suy tư về cuộc cách mạng Pháp” xuất bản năm 1790. Chê cách mạng Pháp phá hoại các giá trị cổ truyền.

[7] Trong cuốn “Cuộc cách mạng Pháp”, Taine đã ghi chép lại giai đoạn đó, đọc rồi không sao quên được. [Theo chú thích của tác giả. (Goldfish)].

[8] Tổng thống thứ bảy của Hoa Kì từ 1828 đến 1836 (hai khóa).

[9] Nghĩa là vào khoảng đầu thế kỉ XX vì tác giả sinh năm 1885.

[10] Một miền của cổ Hi Lạp mà thị trấn chính là Athènes.

[11] Chính trị gia đại tài của Hi Lạp sinh năm -640, mất năm -548 (phỏng chừng).

[12] Y như Hoa Kì trong cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929.

[13] Nghĩa là không cho tài sản tập trung vào một thiểu số nữa.

[14] Macédoine là một xứ ở phía Bắc Hi Lạp. Vua Philippe là cha vua Alexandre, nhà xâm lăng bậc nhất thời thượng cổ đã tiến quân tới Ấn Độ.

[15] Tức thuộc địa.

[16] Đồng tiền cổ La Mã.

[17] Do vua Anh Jean sans terre ban hành năm 1215. [Vua Anh Jean sans terre: tức vua Anh John (1199-1216) có biệt hiệu là Lackland (không có ruộng đất). (Goldfish)].

[18] Vì đất đai rất rộng, trại ruộng nọ cách trại ruộng kia rất xa.

[19] Nghĩa là người chất phác sinh sản mạnh hơn hạng người thông minh.

[20] Tác giả muốn nói tới báo chí, màn ánh, truyền thanh, truyền hình chăng, chứ đại chúng đâu có ưa nghệ thuật mới đó, như tác giả đã nhận định ở trên.