- 8 - Thứ Tư, ngày 20 tháng 11
Gió đông mạnh, không khí nặng hơi muối & ngột ngạt. Henry đã khám & có tin xấu, dù chưa phải là xấu nhất. Bệnh của tôi là do một loài kí sinh trùng, Gusano Coco Cervello. Loài giun này gây dịch bệnh ở cả Melanesia & Polynesia, nhưng chỉ mới được khoa học phát hiện trong mười năm trở lại đây. Nó sinh sôi trong những con kênh bốc mùi hôi thối ở Batavia, chắc chắn là nơi mà tôi bị nhiễm bệnh. Sau khi thâm nhập, nó bò qua mạch máu của vật chủ đến tiểu não trước. (Vì thế tôi bị đau nửa đầu & chóng mặt.) Sau khi chui vào não, nó chuyển sang giai đoạn đẻ trứng. “Ông là người duy thực, Adam à,” Henry nói với tôi, “vì thế thuốc dành cho ông sẽ không bọc đường. Một khi ấu trùng của loài giun này nở thì não của bệnh nhân trở thành một bông cải súp lơ đầy giun. Khí thối rữa sẽ làm cho màng nhĩ & cầu mắt phình ra đến khi nổ tung, thải ra một đám bào tử Gusano Coco.”
Bản án tử hình của tôi đã được tuyên, nhưng giờ là lúc tôi đợi thi hành án & kháng cáo. Một hỗn hợp kiềm urussium & mangan orinoco sẽ làm vôi hóa kí sinh trùng & nhựa thơm laphrydictic sẽ vô hiệu hóa nó. Các “túi bào chế” của Henry có những hỗn hợp này, nhưng một liều chính xác là rất quan trọng. Chỉ chưa đến nửa drachm đã đủ để tẩy Gusano Coco, nhưng nhiều hơn thì sẽ giết chết cả bệnh nhân. Bác sĩ cảnh báo tôi rằng khi kí sinh trùng chết, những túi độc tố của nó sẽ nứt ra & tiết chất độc, vì vậy tôi sẽ cảm thấy khó chịu hơn rồi mới bình phục hẳn.
Henry dặn tôi không nên hé môi về bệnh tình của mình, vì những kẻ độc ác như Boerhaave săn mồi trên những người yếu đuối & các thủy thủ ngu dốt có thể tỏ thái độ chống đối trước các chứng bệnh mà họ không biết. (“Tôi từng nghe nói một thủy thủ có triệu chứng bị phong cùi sau khi đến Macao một tuần trên hành trình dài trở về Lisbon,” Henry kể, “và toàn bộ thủy thủ đoàn đã ném gã khốn khổ ấy xuống biển mà chẳng cần tra hỏi lôi thôi.”) Trong thời gian tôi dưỡng bệnh, Henry sẽ báo với đám “ưa loan tin” trên tàu rằng ông Ewing bị sốt nhẹ do thời tiết & đang nằm trong buồng nghỉ ngơi. Henry phẩy tay khi tôi hỏi phí chữa bệnh. “Phí phiếc gì? Ông có phải là kiểu trưởng giả ngã bệnh nhét đầy tiền trong gối đâu! Thượng đế đã dẫn dắt ông đến sự chăm sóc của tôi, vì tôi đồ rằng trên Thái Bình Dương này số người chữa được bệnh cho ông chỉ đếm được trên đầu ngón tay! Vậy nên đừng bận tâm gì đến chuyện tiền nong cả! Tôi chỉ có một yêu cầu thôi, ông bạn Adam thân mến, đó là ông hãy ngoan ngoãn nghe lời! Hãy uống thuốc bột của tôi & lui về buồng tịnh dưỡng. Tôi sẽ ghé thăm khi mọi người đi ngủ cả.”
Bác sĩ của tôi quả thật là một viên kim cương thô sơ chưa qua mài giũa. Ngay cả khi viết những dòng này, tôi vẫn không cầm được nước mắt vì biết ơn.
Thứ Bảy, ngày 30 tháng 11
Thuốc bột của Henry quả thực rất hiệu nghiệm. Tôi hít những hạt quý giá đó vào mũi từ một chiếc thìa bằng ngà & ngay lập tức một cảm giác sảng khoái chói lọi khiến toàn thân tôi nóng bừng. Các giác quan của tôi trở nên bén nhạy hơn, nhưng tay chân lại ngày một yếu đi. Con kí sinh trùng vẫn ngọ nguậy vào buổi đêm, như ngón tay của một em bé sơ sinh, gây ra những cơn đau quằn quại & ác mộng kinh hoàng. “Một dấu hiệu chắc chắn,” Henry động viên tôi, “con giun trong người ông đang phản ứng với thuốc xổ giun của chúng ta & đang tìm chỗ nấp vào những chốn kín kẽ trong các đường ống trong não của ông, nơi thị giác sinh ra. Gusano Coco đang ẩn nấp trong tuyệt vọng, Adam ạ, vô cùng tuyệt vọng. Chúng ta sẽ lôi nó ra!”
Thứ Hai, ngày 2 tháng 12
Ban ngày, buồng của tôi nóng như lò lửa & mồ hôi làm ướt đẫm những trang nhật ký. Mặt trời miền nhiệt đới tẩm mỡ & rán chín bầu trời trưa. Các thủy thủ cởi trần & đội mũ rơm làm việc, làn da bị nắng ăn đen bóng. Ván tàu ứa ra hắc ín nóng rẫy dính vào lòng bàn chân. Những cơn gió mạnh báo chuyển mưa nổi lên từ xa xăm & biến mất nhanh như khi xuất hiện & boong tàu rít lên khô khốc. Những con sứa độc có tên “Chiến thuyền Tây Ban Nha” náo nhiệt trên mặt biển thủy ngân, những con cá bay làm mê hoặc người nhìn & những bóng cá mập đầu búa màu hoàng thổ lượn tròn quanh tàuProphetess. Trước đó, tôi giẫm lên một con mực tự nhảy lên qua thành tàu! (Cặp mắt & cái mỏ của nó khiến tôi nhớ đến ông nhạc phụ.) Nước ngọt đem theo từ đảo Chatham giờ đây đã có vị lợ &, nếu không pha thêm một chút rượu mạnh vào thì dạ dày tôi lại nổi loạn. Khi không chơi cờ trong buồng của Henry hoặc phòng ăn tập thể, tôi lại nghỉ ngơi trong buồng của mình cho đến khi Homer ru tôi vào mộng mị với những cánh buồm xứ Athen.
Autua gõ cửa buồng của tôi hôm qua để cám ơn tôi đã cứu mạng hắn. Hắn nói hắn hãy còn mắc nợ tôi (đúng là vậy) cho đến ngày hắn có dịp cứu mạng tôi (mong là ngày đó không bao giờ tới!). Tôi hỏi hắn thấy công việc mới thế nào. “Tốt hơn làm nô lệ cho Kapuka, thưa ông Ewing.” Tuy nhiên, ý thức được nỗi sợ của tôi là có ai đó sẽ nhìn thấy cuộc nói chuyện & báo với thuyền trưởng Molyneux, gã người Moriori trở về phòng chung của thủy thủ & kể từ đó không còn đến tìm tôi nữa. Như Henry đã cảnh báo, “Ném cho tên da màu khúc xương là một chuyện, nhưng duy trì mối quan hệ với hắn lại là một chuyện khác! Tình bạn giữa các chủng tộc không thể nào vượt qua được mức tình cảm giữa một con chó trung thành & chủ của nó, ông Ewing ạ.”
Hằng đêm, bác sĩ & tôi cùng tản bộ trên boong tàu trước khi nghỉ ngơi. Chỉ hít thở không khí trong lành cũng đã thật dễ chịu làm sao. Cho đôi mắt chìm trong những dải lân tinh trên biển & hằng hà sa số sao trời. Tối hôm qua, đám thủy thủ tập hợp trên boong trước, ngả lưng lên những cuộn dây thừng dưới ánh đèn măng sông & quy định cấm “người không phân sự” lên boong trước có vẻ như không có tác dụng. (Kể từ sau “sự cố Autua”, thái độ coi thường nhắm vào “Gà Chọi” đã giảm đi, và biệt danh đó cũng được dùng ít hẳn.) Bentnail ngâm mười bài thơ về những nhà chứa trên thế giới, tục tĩu đến nỗi những gã cuồng dâm nhất cũng phải bỏ chạy. Henry xung phong đọc bài thứ mười một (về Mary O’Hairy ở Inverary) càng khiến không khí đêm hôm ấy trở nên tục tĩu hơn. Rafael là người kế tiếp bị ép phải ngâm thơ. Cậu ta ngồi vắt vẻo & xướng lên những dòng sau đây bằng một giọng chưa qua trường lớp nhưng chân thành & thật thà:
Ôi Shenandoah, tôi mong chờ gặp người,
Ới ơi, dòng sông trôi mãi.
Ôi Shenandoah, tôi sẽ không phụ người,
Mối thâm tình bền sâu ở hai bờ dòng Missouri rộng lớn.
Ôi Shenandoah, tôi yêu con gái người, tôi yêu bờ kia sông.
Thuyền giong buồm ra khơi, gió thổi muôn chiều.
Dây đã căng, buồm đã vẫy.
Missouri, nàng là dòng sông nhân từ,
Chúng tôi sẽ ôm lấy nàng đến khi những cánh buồm run rẩy.
Ôi Shenandoah, mãi không rời xa người,
Đến ngày tôi chết, mãi luôn yêu người[9]
Im lặng từ những thủy thủ thô lậu là một sự tán thưởng lớn hơn bất kì lời khen tặng uyên bác nào. Tại sao Rafael, một anh chàng sinh trưởng ở Úc, lại thuộc nằm lòng một bài ca Mỹ? “Tôi không biết đó là dân ca Mỹ,” cậu trả lời lóng ngóng. “Mẹ tôi dạy tôi bài đó trước khi bà qua đời. Đó là thứ duy nhất của bà mà tôi còn nhớ. Nó nằm mãi trong tôi.” Cậu lại làm tiếp việc của mình, với vẻ cộc cằn ngượng nghịu. Henry & tôi một lần nữa cảm nhận được thái độ kém thân thiện mà những thợ lao động tỏ ra với kẻ ăn không ngồi rồi bên cạnh & vì thế chúng tôi bỏ đi. Đọc lại những dòng nhật kí viết ngày 15 tháng 10, khi tôi lần đầu gặp Rafael.