← Quay lại trang sách

- 2 - Gần ngày cuối cùng – xi – 1931.-Sixsmith,

Thức trắng nhiều đêm cho bản Lục tấu Vân đồ đến khi kiệt sức, về nghĩa đen, không còn cách nào khác để rời ra đi ngủ. Đầu tôi là một Ngọn nến La Mã của sáng tạo. Âm nhạc của cuộc đời, tất cả kéo đến cùng một lúc. Những biên giới giữa tiếng động và âm thanh đều là quy ước, bây giờ tôi mới nhận ra. Mọi biên giới đều là quy ước, kể cả biên giới quốc gia. Con người có thể vượt qua bất kỳ quy ước nào, nếu trước tiên ta có thể nhận thức mình làm điều đó. Ví dụ như hòn đảo này, nằm giữa âm sắc và giai điệu, không có trong bất kỳ quyển sách lý thuyết nào, nhưng nó ở đây! Nghe các nhạc cụ trong đầu, rõ hoàn hảo, bất cứ thứ gì tôi muốn. Khi tác phẩm hoàn thành, trong tôi sẽ chẳng còn gì nữa, tôi biết, nhưng đồng tiền tòng quân tôi nắm trong bàn tay ướt mồ hôi của mình chính là hòn đá phù thủy! Một người như Ayrs dành ra phần đời của lão cho những điều tẻ nhạt chán ngắt trong một đời người lê thê. Tôi thì không. Không nghe gì từ V.A. hay bà vợ ngoại tình, dai nhách, nhạt nhẽo của lão. Cho rằng họ nghĩ tôi đã bỏ về nhà ở nước Anh. Tối hôm qua nằm mơ thấy tôi ngã xuống từ khách sạn Imperial Western, bám chặt ống thoát nước. Nốt nhạc violin, lạc nhịp, khủng khiếp – đó là nốt cuối cùng trong bản lục tấu của tôi.

Tôi khá ổn. Ước gì tôi có thể cho anh thấy được sự tươi sáng này. Những nhà tiên tri trở nên mù lòa nếu họ nhìn thấy Jehovah. Không phải điếc, mà là mù, anh biết điểm mấu chốt mà. Vẫn có thể nghe thấy ông ta. Tôi độc thoại suốt ngày. Lúc đầu không nhận ra, tiếng người xoa dịu tôi quá đỗi, nhưng đến lúc này thì phải nỗ lực hết sức mới dừng lại được, nên tôi cứ kệ nó tuôn ra không ngừng. Đi dạo những khi không sáng tác. Có thể viết một quyển sách Michelin hướng dẫn du lịch về Bruges được rồi, nếu tôi có đủ không gian, và thời gian. Đi qua khu nghèo hơn, chứ không chỉ những khu giàu. Sau một khung cửa sổ bẩn thỉu, một người bà đang cắm hoa St Paulia trong một cái bát. Gõ lên khung cửa để hỏi bà có chịu yêu tôi không. Bà bặm môi, không nghĩ bà biết tiếng Pháp, nhưng tôi vẫn hỏi lại. Một người có cái đầu tròn như đạn đại bác và hoàn toàn không có cằm xuất hiện ở cửa sổ, khạc ra những câu chửi rất khắm lên tôi và nhà tôi.

Eva. Ngày nào tôi cũng vừa leo lên tháp chuông vừa đọc một câu thần chú mỗi từ một nhịp, “Hôm – nay – hôm – nay – cho - nàng - ở - đây – hôm – nay.” Chưa đến, dù tôi đợi đến khi trời tối. Những ngày vàng, những ngày đồng, những ngày sắt, những ngày ướt, những ngày sương mù. Hoàng hôn kẹo gôm. Bóng đêm kéo đến, phủ tê buốt lên không khí. Eva được canh gác trong một phòng học dưới mặt đất, cắn đầu bút chì, mơ đến lúc được ở cùng tôi, tôi biết mà, tôi, nhìn xuống từ giữa những tông đồ thay lá, mơ đến lúc được ở cùng nàng. Hai kẻ sinh thành khốn nạn của nàng hẳn đã tìm thấy lời nhắn để trên bàn trang điểm. Ước gì tôi hành động khôn ngoan hơn. Ước gì tôi bắn tên giả tạo đáng chết ấy khi có cơ hội. Arys sẽ không bao giờ tìm được người thay thế cho Frobisher –Eternal Recurrence sẽ chết cùng với lão. Những người nhà van de Velde đó hẳn đã giữ lại lá thư thứ hai tôi gửi cho Eva ở Bruges. Cố tìm cách lẻn vào trường nàng nhưng bị hai con lợn khó tính đuổi ra với còi và gậy. Theo E. về từ trường, nhưng bức màn ban ngày còn hé quá ngắn ngủi, lạnh và tăm tối khi nàng rời trường, co ro trong chiếc áo choàng nâu, vây xung quanh là người nhà v.d.V., những bà bảo mẫu và bạn học. Nhìn ra từ mũ và khăn choàng cổ, chờ đợi con tim nàng cảm nhận được sự hiện diện của tôi. Không vui chút nào.

Hôm nay tôi chạm nhẹ áo choàng của Eva khi đi lướt qua nàng trong mưa phùn, trong đám đông. E. không nhận ra tôi. Khi tôi ở gần nàng một âm chủ trỗi lên to dần, từ háng, dừng lại ở lồng ngực, lên phía sau hai mắt.

Sao lại hồi hộp thế này? Có lẽ là ngày mai, phải, ngày mai, chắc chắn rồi. Không có gì phải sợ cả. Nàng đã nói với tôi rằng nàng yêu tôi. Sắp rồi, sắp rồi.

Thân ái,

R.F.

Khách sạn Royal, Bruges.

25 – xi – 1931.

Sixsmith,

Chảy nước mũi và ho nặng từ Chủ nhật. Hợp với những vết cắt và bầm dập. Hầu như không bước chân ra ngoài, cũng chẳng muốn làm vậy. Sương mù băng giá bò lên từ kênh đào, bóp nghẹt phổi và làm tê cứng mạch máu con người. Gửi cho tôi một bình cao su đựng nước nóng được không? Ở đây toàn là đồ bằng gốm.

Quản lý khách sạn ghé qua sáng nay. Một con chim cánh cụt đúng nghĩa, không hề có phần dưới. Hẳn đôi giày da tinh xảo phát ra tiếng cót két như thế khi ông ta đi, nhưng ở những nước thuộc Vùng Đất Thấp thì liệu có thứ thượng phẩm ấy không. Lý do thực sự của chuyến viếng thăm là để đảm bảo tôi đúng là một sinh viên kiến trúc giàu có, không phải một kẻ đá cá lăn dưa khả nghi có thể bỏ trốn khỏi thành phố mà chưa thanh toán tiền phòng cho ông ta. Dù gì cũng hứa sẽ xùy tiền ra ở bàn tiếp tân vào ngày mai, vì vậy một chuyến ra ngân hàng là không thể tránh khỏi. Điều này khiến ông ta vui lên trông thấy, và ông ta hi vọng việc học hành của tôi đang tiến triển tốt. Tuyệt vời, tôi trấn an ông ta. Tôi không nói mình là một nhà soạn nhạc vì tôi không thể nào đối mặt với màn tra khảo ngu xuẩn: “Anh viết thể loại nhạc gì?”; “Ồ, tôi có nghe đến anh chưa nhỉ?”; “Anh lấy ý tưởng từ đâu?”

Không có tâm trạng viết thư, sau tất cả mọi chuyện, không phải sau lần chạm trán gần đây với E. Người thắp đèn đang làm nhiệm vụ. Nếu tôi có thể quay ngược thời gian, Sixsmith ạ. Tôi sẽ làm thế.

Ngày tiếp theo.

Có tiến triển. Eva. A, tôi sẽ cười, nếu thân thể không quá đau. Không nhớ nổi lần trước viết đến đâu cho anh rồi. Thời gian là một trạng thái mập mờ như điệu allegrissimo kể từ Đêm Hiển linh của tôi. Tình hình là tôi đã bắt đầu nhận ra mình sẽ không thể nào tự gặp mặt E. Nàng không bao giờ xuất hiện ở tháp chuông lúc 4 giờ chiều. Thư từ của tôi đã bị cất giữ là lời giải thích duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra. (Không biết V.A. có giữ lời mà đi đầu độc danh dự tôi ở Anh hay không; có lẽ anh đã nghe nói gì đó? Đừng quan tâm quá đáng, nhưng tôi cần được biết.) ½ hi vọng J. sẽ tìm ra tôi ở khách sạn này – trong lá thư thứ hai tôi có viết về nơi ở của mình. Có thể ngủ với cả bà ta nếu điều đó mở được một kênh đến Eva. Tự nhắc mình sẽ không phạm tội ác gì – va bene, tìm mà xem, không một tội ác nào chống lại Crommelynck-Ayrs – và có vẻ như J. một lần nữa đang mượn gậy của chồng để chỉ huy mọi chuyện. Có lẽ đã luôn luôn là như thế. Vì vậy tôi không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc đến nhà van de Velde.

Băng qua Công viên Minnewater thân thuộc trong cơn mưa tuyết lúc chạng vạng. Lạnh như dãy Urals. Khẩu Luger của Arys muốn đi cùng, vì vậy tôi đã gài nút người bạn thép vào chiếc túi sâu của áo da cừu. Những cô gái điếm mặt mũi bí xị hút thuốc trong đình mát vốn để diễn nhạc. Không thấy hứng thú một chút nào – chỉ là một chuyến mạo hiểm tuyệt vọng ra ngoài trong tiết trời thế này. Sự bôi nhọ của Ayrs đã dập tắt hứng thú họ dành cho tôi, có lẽ là suốt đời. Bên ngoài nhà v.d.V. xe độc mã xếp hàng, bầy ngựa khụt khịt không khí lạnh, mã phu co ro trong áo choàng dài, hút thuốc, giậm chân để giữ ấm. Cửa sổ sáng ánh đèn màu kem, những cô gái mới lớn dập dìu lướt qua, champagne tuôn, đèn chùm lấp lánh. Một sự kiện xã hội lớn đang diễn ra. Hoàn hảo, tôi nghĩ. Ngụy trang, anh thấy đấy. Một đôi tình nhân hạnh phúc cẩn thận bước lên bậc thang, cửa mở ra – Vừng ơi mở ra – một hiệu nhảy gavotte thoát ra không khí đóng băng bên ngoài. Theo họ bước lên bậc tam cấp rắc muối, gõ nhẹ lên miếng nắm cửa bằng vàng, cố gắng giữ bình tĩnh.

Người gác cửa mặc áo đuôi tôm nhận ra tôi – một người quản gia bị bất ngờ không phải là tin tốt. “Je suis desole, Monsieur, mais votre nom ne figure pas sur la liste des invites.” (Tôi xin lỗi, thưa ông, nhưng tên ông không có trong danh sách khách mời). Ủng đã đặt vào trong nhà rồi. Danh sách khách mời, tôi cảnh báo ông ta, không áp dụng với bạn bè thân thiết của gia chủ. Người đàn ông nhoẻn một nụ cười xin lỗi – tôi đang đối đầu với một kẻ chuyên nghiệp. Ngay lúc đó một đàn vịt trời mặc áo choàng không tay lướt qua tôi và người quản gia để cho họ đi qua không đắn đo. Đi được ½ đường vào hành lang sáng choang thì bàn tay đeo găng trắng túm lấy vai tôi.

Chửi bới, phải thừa nhận, bằng thái độ mất mặt nhất – đó là thời khắc vực thẳm, tôi sẽ không phủ nhận điều này – và gào lên tên Eva, hết lần này đến lần khác, như một đứa trẻ quen nuông chiều đang làm mình làm mẩy, cho đến khi tiếng nhạc nín bặt, những người sửng sốt đứng đầy hành lang và cầu thang. Chỉ người thổi kèn trombon tiếp tục chơi. Nhạc công trombon là thế đấy. Một tổ ong kinh hoàng bằng tất cả những ngôn ngữ chính vỡ ra, ào ào bay đến. Qua tiếng huyên náo đáng sợ, Eva bước đến, trong bộ áo dạ hội màu xanh dương, một sợi chuỗi ngọc trai màu xanh ngọc. Nghĩ mình đã hét lên, “Tại sao em tránh mặt tôi?” hay câu gì tử tế tương tự.

E. không lướt qua không khí vào vòng tay tôi, tan chảy vào cái ôm của tôi, và mơn trớn tôi bằng những từ âu yếm. Động thái đầu tiên của nàng là Khinh bỉ: “Chuyện gì xảy ra với anh vậy, Frobisher?” Một tấm gương treo trong lối đi hành lang; nhìn vào đó để xem ý nàng là sao. Tôi đã bỏ bê bản thân, nhưng tôi vốn lười cạo râu khi soạn nhạc, anh biết đấy. Động thái thứ hai, Ngạc nhiên: “Phu nhân Dhondt nói anh đã về Anh rồi.” Mọi chuyện đi từ tồi tệ hơn sang tồi tệ nhất. Động thái thứ ba, Giận dữ: “Sao anh dám chường mặt đến đây, sau... mọi chuyện?” Bố mẹ nàng đã chẳng kể gì cho nàng ngoài những lời nói dối về tôi, tôi trấn an nàng như thế. Nếu không thì tại sao họ giữ lại những lá thư tôi gửi cho nàng? Nàng đã nhận được cả hai lá thư của tôi, nàng đáp, nhưng đã xé nát chúng “vì thương hại”. Lúc này bắt đầu run rẩy. Đòi được nói chuyện với nàng hai mặt một lời. Chúng ta có quá nhiều chuyện cần giải quyết. Một anh chàng điển trai khoác tay qua người nàng, hắn chặn tôi lại và nói với tôi một câu gì đó mang tính sở hữu bằng phương ngữ Flemish. Tôi bảo với hắn bằng tiếng Pháp rằng hắn đang ôm người con gái tôi yêu, nói thêm rằng Chiến tranh hẳn đã phải dạy cho người Bỉ biết khi nào thì nên trốn đi trước thế lực mạnh hơn. Eva nắm cánh tay phải của hắn, lấy hai bàn tay ôm nắm đấm của hắn lại. Một cử chỉ thân mật, tôi nhận ra. Nghe được tên người yêu của nàng, do một người bạn thì thầm khuyên can hắn đừng bận tâm đến tôi: Grigoire. Bong bóng ghen tuông sâu trong ruột gan tôi giờ đây có một cái tên.

Tôi hỏi Eva con chó cưng đáng sợ của nàng là ai. “Hôn phu của tôi,” nàng bình tĩnh đáp, “và anh ấy không phải người Bỉ, anh ấy là người Thụy Sĩ.”

Cái gì của em? Bong bóng vỡ, mạch bị nhiễm độc.

“Tôi đã kể với anh về anh ấy rồi, vào buổi chiều hôm ấy trên tháp chuông! Tại sao tôi quay về từ Thụy Sĩ, hạnh phúc hơn trước nhiều... tôi đã kể với anh, nhưng rồi anh lại gửi cho tôi những... lá thư nhục mạ đó.” Nàng không lỡ lời, ngòi bút của tôi cũng không. Hôn phu Grigoire. Tất cả những kẻ ăn thịt đó, ngấu nghiến trên lòng tự trọng của tôi. Chúng tôi đấy. Tình yêu mãnh liệt của tôi? Không hề có thứ đó. Chưa từng có. Nhạc công Trombon không thấy mặt nọ giờ đây đang nhún nhảy với bài “Ode to Joy”. Gào lên bảo ông ta với thái độ bạo lực rõ rệt – rách cả cổ họng – hãy chơi nó theo âm điệu mà Beethoven đã viết, còn không thì im đi. Hỏi, “Người Thụy Sĩ? Vậy sao hắn cư xử đầy khiêu khích như thế?” Nhạc công trombon bắt đầu bản số 5 của Beethoven, cũng lạc tông. Giọng của E. chỉ nhỉnh hơn 0 độ một chút. “Tôi nghĩ anh ốm rồi, Robert ạ. Anh nên đi đi.” Grigoire gã hôn phu người Thụy Sĩ và tay quản gia mỗi người nắm một bên vai không kháng cự của tôi rồi đưa tôi quay trở ra cửa qua đám đông. Ở trên cao, tôi thoáng thấy hai bé gái v.d.V. mặc áo choàng ngủ hé nhìn xuống cầu thang qua lan can chiếu nghỉ như những miệng máng xối đầu người khoác áo choàng ngủ. Nháy mắt với chúng.

Ánh sáng chiến thắng trong đôi mắt có hàng mi dài đáng yêu của đối thủ tôi và câu “Đi về Anh đi!” lơ lớ kích động Frobisher Vô liêm sỉ trong tôi, rất tiếc phải nói điều này. Vừa bị ném ra khỏi khung cửa, tôi ôm chặt lấy Grigoire như vận động viên bóng bầu dục, quyết tâm cho con vẹt mào đỏm dáng ấy một trận. Bầy thiên điểu trong hành lang ré lên, đám khỉ đầu chó kêu ỏm tỏi. Chúng tôi lăn xuống bậc thang, không, chúng tôi đấm đá, trượt ngã, văng tục, túm tóc, xé áo. Grigoire gào lên kêu cứu, sau đó gào lên đau đớn – loại thuốc mà Bác sĩ Báo thù đã kê đơn! Những bậc thang bằng đá và vỉa hè băng giá làm thân thể tôi bầm tím, hắn cũng thế, đập mạnh vào cùi chỏ và hông tôi, nhưng ít ra tôi không phải là kẻ duy nhất có buổi tối bị phá hỏng ở Bruges và tôi gào thét, mỗi cú đá vào xương sườn hắn kèm theo một từ, trước khi nửa chạy nửa lò cò trên mắt cá chân bị thương, “Tình yêu khiến ta đau đớn!”

Bây giờ tinh thần tôi khá hơn rồi. Chẳng còn nhớ nổi E. trông như thế nào nữa. Có lần, khuôn mặt nàng đã bốc cháy trong đôi mắt ngu ngốc của tôi, nhìn thấy nàng khắp nơi, trong mọi khuôn mặt người. Grigoire có ngón tay thanh tú, dài và mềm mại. Franz Schubert đã làm tổn thương bàn tay mình bằng cách buộc vật nặng vào đó. Ông ta nghĩ nó sẽ làm tăng độ rộng của tay trên bàn phím. Những bản tứ tấu đàn dây xuất sắc nhưng thật là một gã ngốc! Grigoire ngược lại sở hữu đôi tay hoàn hảo thiên phú, nhưng có lẽ không biết thế nào là tinh tế.

Sáu hoặc bảy ngày sau.

Quên mất lá thư dang dở này, thực ra thì, quên ½, nó bị chôn vùi dưới bản ký âm piano của tôi & quá bận rộn soạn nhạc nên không có thời gian tìm lại. Thời tiết băng giá. Một nửa số đồng hồ ở Bruges đã đóng băng. Vậy, bây giờ anh đã biết chuyện Eva rồi. Cuộc tình này đã làm tôi trống rỗng, nhưng cái gì dội lại trong sự trống rỗng? Âm nhạc, Sixsmith ạ, hãy nhường chỗ cho Âm nhạc và hãy chú ý. Suốt sáu giờ trong bồn tắm cạnh lò sưởi tối hôm qua tôi đã ký âm được 102 nhịp của một bản hành khúc tang lễ dựa trên “Ode to Joy” cho nhạc công clarinet của mình.

Một người khách khác sáng nay; chưa từng nổi tiếng thế này kể từ ngày lễ Derby tai tiếng đó. Bị đánh thức vào buổi trưa bởi một tiếng gõ cửa thân thiện nhưng chắc chắn. Hỏi vọng ra, “Ai đấy?”

“Verplancke.”

Không nhớ nổi là tên ai, nhưng khi tôi mở cửa, tay cảnh sát mê âm nhạc đang đứng ở đó, người đã cho tôi mượn chiếc xe đạp trong cuộc đời cũ của tôi. “Tôi vào được không? Je pensais vous rendre une visite de courtoisie. (Tôi nghĩ anh trông chờ một chuyến thăm hữu nghị.)”

“Tất nhiên,” tôi đáp, nói thêm đầy vẻ dí dỏm, “hữu nghị ở chỗ khách thăm là một viên cảnh sát.” Dọn chỗ ngồi trên chiếc ghế bành cho ông ta & mời ông ta gọi trà, nhưng vị khách của tôi từ chối. Không thể giấu vẻ ngạc nhiên của ông ta trước sự bày bừa trong phòng. Giải thích tôi đã cho tiền boa để những người hầu không đến làm phiền. Không chịu nổi nếu họ chạm vào các bản ký âm của tôi. Ông Verplancke gật đầu đồng cảm, rồi thắc mắc tại sao một quý ông lại đăng ký ở khách sạn bằng bí danh? Một thói quen kỳ quặc di truyền từ bố, tôi đáp, một người có tiếng tăm trong xã hội, muốn giữ cho cuộc sống riêng tư của mình được riêng tư. Giữ kín nghề nghiệp của mình để khỏi bị ép chơi đàn piano trong những buổi tiệc. Từ chối thì gây mếch lòng mà. V. có vẻ như hài lòng với lời giải thích của tôi. “Một ngôi nhà sang trọng nơi đất khách quê người, Le Royal.” Ông ta liếc nhìn quanh phòng khách. “Tôi không biết là thư ký được trả hậu hĩnh thế này.” Thừa nhận điều mà ông bạn khéo léo này chắc chắn đã biết: Ayrs và tôi đã đường ai nấy đi, nói thêm rằng tôi có thu nhập độc lập, mà điều này vẫn là sự thật mới 12 tháng trước. “A, một triệu phú đi xe đạp à?” Ông ta mỉm cười. Thật là kiên trì, phải không? Không hẳn là triệu phú đâu, tôi mỉm cười đáp lại, nhưng, may mắn thay, đủ điều kiện để ở Le Royal.

Cuối cùng ông ta cũng đi vào vấn đề. “Anh đã gây thù chuốc oán với một người có ảnh hưởng trong thời gian cư trú ngắn ngủi ở thành phố chúng tôi đấy, anh Frobisher. Một nhà dinh doanh, tôi nghĩ hai chúng ta đều biết đó là ai, đã khiếu nại với cấp trên của tôi về vụ việc xảy ra cách đây vài đêm. Thư ký của ông ta – thực ra là một người chơi đàn clavico rất khá trong nhóm của chúng tôi, – đã nhận ra tên anh, và chuyển đơn khiếu nại đến bàn tôi. Vì vậy tôi đến đây.” Khổ sở trấn an ông ta rằng đó chỉ là một sự hiểu lầm phi lý về tình cảm của một cô gái trẻ. Ông bạn duyên dáng gật đầu. “Tôi biết, tôi biết. Cherchez la femme (Tìm kiếm phái đẹp). Khi còn trẻ, trái tim có lý lẽ mạnh hơn cái đầu. Cái khó của chúng tôi là, bố của chàng trai trẻ là chủ nợ của một số người lớn tuổi trong thành phố này, ông ta đang làm ầm ĩ lên về chuyện kiện anh tội hành hung và tấn công.”

Cám ơn ông Verplancke vì lời cảnh báo và tài xử trí của ông ta, rồi hứa từ giờ trở đi sẽ hết sức giữ mình. Than ôi, không đơn giản thế. “Anh Frobisher, anh không nghĩ rằng thành phố của chúng tôi quá lạnh lẽo vào mùa đông à? Anh không nghĩ rằng xứ Địa Trung Hải có thể đem lại nguồn cảm hứng tốt hơn cho nàng thơ của anh sao?”

Hỏi cơn giận của ông chủ ngân hàng có thể nguôi ngoai không nếu tôi cam kết sẽ rời khỏi Bruges trong vòng bảy ngày tới, sau khi chỉnh sửa lần cuối bản lục tấu của mình. V. nghĩ phải, hiểu như vậy sẽ làm giảm nhiệt tình hình. Thế là tôi đưa ra lời hứa của một đấng quân tử sẽ thu xếp mọi chuyện cần thiết.

Giải quyết xong công việc, V. hỏi ông ta có thể xem trước bản lục tấu của tôi không. Cho ông ta xem đoạn độc tấu clarinet. Thoạt đầu ông ta mất bình tĩnh trước sự kỳ lạ về quãng và cấu trúc của nó, nhưng đã dành thêm một giờ sau đó để đặt nhiều câu hỏi mẫn cảm về bản ký âm mới được tạo ra một nửa của tôi và sự hòa âm của tác phẩm. Khi chúng tôi bắt tay, ông ta đưa cho tôi danh thiếp, hối thúc tôi gửi một bản nhạc sau khi xuất bản cho ban nhạc của ông ta, và lấy làm tiếc vì con người việc công ảnh hưởng đến con người riêng tư của ông. Rất tiếc khi nhìn thấy ông ta ra đi. Viết nhạc thật là một sự cô đơn bệnh hoạn khốn kiếp.

Vậy anh thấy đấy, tôi phải sống những ngày cuối cùng của mình cho thật đáng giá. Đừng lo cho tôi, Sixsmith, tôi khá ổn, và quá bận rộn để mà buồn rầu! Có một quán rượu dành cho thủy thủ ở cuối phố nơi tôi có thể tìm bạn giải sầu nếu muốn (lúc nào cũng thấy mấy cậu trai mùi muối vào ra tấp nập ở đấy) nhưng giờ đây chỉ có âm nhạc có ý nghĩa với tôi thôi. Âm nhạc huyên náo, âm nhạc cương vỡ, âm nhạc trăn trở.

Thân ái,

R.F.