← Quay lại trang sách

Chương 3 BÊN TRONG VÀ BÊN NGOÀI

Không như thymos, vốn là phần vĩnh cửu trong bản chất con người, thứ sau này trở thành quan niệm hiện đại về bản sắc chỉ xuất hiện từ vài trăm năm trước khi xã hội bắt đầu hiện đại hóa. Mặc dù có nguồn gốc từ châu Âu, sau đó nó lan rộng và bén rễ trong hầu hết các xã hội trên toàn cầu.

Nền tảng của bản sắc đi cùng với nhận thức về sự khác biệt giữa phần bên trong và bên ngoài con người. Cá nhân tin rằng họ có bản sắc thực sự hay đích thực ẩn giấu bên trong chính bản thân họ, cách nào đó điều này mâu thuẫn với vai trò mà xã hội xung quanh giao cho họ. Quan niệm hiện đại về bản sắc đặt giá trị tối thượng vào tính đích thực, trong sự xác nhận về nội tính vốn không được phép tự biểu đạt. Nó nằm ở phần nội ngã chứ không phải ngoại ngã (outer self). Thông thường, cá nhân không thể hiểu nội ngã đó thực sự là ai, chỉ có cảm giác mơ hồ rằng mình đang bị buộc phải sống giả dối. Điều này có thể dẫn đến việc thường trực bị ám ảnh bởi câu hỏi “Tôi thực sự là ai?” Đi tìm câu trả lời tạo ra cảm giác lạ lẫm và lo lắng và chỉ có thể dịu đi khi họ chấp nhận nội ngã đó và có được sự thừa nhận từ công chúng. Và nếu xã hội bên ngoài tiến tới hoàn toàn thừa nhận nội ngã, người ta phải nghĩ rằng chính xã hội đó có thể thay đổi theo những cách căn bản.

Ở phương Tây, ý tưởng về bản sắc được khởi phát, theo nghĩa nào đó, trong thời Cải cách Tin Lành, và do tu sĩ dòng Augustinô là Martin Luther đưa ra diễn giải ban đầu. Luther tiếp nhận nền giáo dục thần học truyền thống và trở thành giáo sư tại Wittenberg. Trong mười năm, ông đọc, suy ngẫm và đấu tranh với nội ngã của mình. Theo lời một sử gia, Luther “cảm thấy mình trong trạng thái tuyệt vọng trước Chúa. Ông muốn được bảo đảm rằng Chúa sẽ chấp nhận mình, nhưng ông chỉ có thể tìm thấy trong chính mình sự tồn tại chắc chắn của tội lỗi, và trong Chúa là công lý không lay chuyển, [công lý ấy] vốn phê phán tới cùng những nỗ lực ăn năn và tìm kiếm sự thương xót của thánh thần của mình”1. Luther tìm đến biện pháp khổ chế do Giáo hội Công giáo khuyên răn, trước khi nhận ra ông không thể làm gì để mua chuộc, vỗ về, hoặc cầu xin Chúa. Ông hiểu rằng Giáo hội chỉ hành động ở tầng nấc bên ngoài của con người thông qua xưng tội, đền tội, bố thí, thờ phụng thánh thần - vốn đều là vô nghĩa bởi vì ân sủng chỉ được ban cho như một hành động yêu thương tự nguyện từ Chúa.

Luther là một trong những nhà tư tưởng phương Tây đầu tiên định rõ và giá trị hóa nội ngã trên hữu thể xã hội bên ngoài. Ông lập luận rằng con người mang bản chất hai lớp, phần nội thuộc về tâm linh và phần ngoại thuộc về cơ thể sinh học, do “chẳng có thứ gì ở bên ngoài có thể gây bất kỳ ảnh hưởng nào đến việc tạo ra sự đúng đắn hay tự do của Kitô giáo”, nên chỉ có con người nội tại mới có thể thay mới được.

Chỉ riêng đức tin có thể cai trị con người nội tại đơn nhất, như La Mã 10[:10] từng nói, “với người tin vào những gì trái tim mách bảo thì sẽ được biện minh”, và vì chỉ có đức tin mới biện minh được, rõ ràng con người nội tại không thể được biện minh, giải thoát, hoặc cứu rỗi bởi bất kỳ việc làm hoặc hành động bên ngoài nào, và những việc làm này, bất kể đặc tính của chúng như thế nào, không liên quan gì đến con người nội tại này2.

Sự thừa nhận - trọng tâm của giáo lý Tin Lành về sau - rằng chỉ đức tin và không hoạt động nào khác cùng lúc biện minh được cho con người đã hạ bệ triết lý tồn tại của Giáo hội Công giáo. Giáo hội là cầu nối giữa người và Chúa, nhưng nó chỉ định hình được con người bên ngoài thông qua nghi lễ và hoạt động. Luther kinh sợ trước sự suy đồi và lệch lạc của Giáo hội trung cổ, nhưng cái nhìn sâu sắc hơn chính là bản thân Giáo hội là không cần thiết và thực sự, thật hồ đồ khi cố gắng ép buộc hoặc mua chuộc Chúa. Bản thân Luther sẽ không trở thành một thiếu niên chịu sự phục tùng của xã hội; đúng hơn, chính xã hội sẽ phải điều chỉnh theo nhu cầu từ con người nội tại. Mặc dù đó không phải là ý định của Luther, nhưng cuộc Cải cách mang lại kết quả đúng như vậy: sự suy tàn của La Mã do Giáo hội Phổ quát, sự trỗi dậy của những giáo lý thay thế và một loạt thay đổi xã hội trong đó tín đồ cá nhân được ưu tiên hơn cấu trúc xã hội hiện hữu.

Các nhà lý luận xã hội từ lâu đã tranh luận rằng liệu những thay đổi lớn diễn ra ở châu Âu sau cuộc Cải cách mà chúng ta gọi là hiện đại hóa - là sản phẩm của lực lượng vật chất hay do những ý tưởng như của Luther thúc đẩy. Karl Marx và các nhà kinh tế tân cổ điển đương đại nói rằng ý tưởng của Luther là phái sinh của điều kiện vật chất: nếu không có sự bất mãn và chia rẽ kinh tế rộng khắp giữa các quân vương Đức, quan điểm của ông không bao giờ lan tỏa theo cách trước đây. Mặt khác, nhà xã hội học Max Weber lập luận ủng hộ tính ưu việt của ý tưởng: điều kiện vật chất mà các nhà kinh tế học nghiên cứu chỉ có thể xuất hiện bởi vì chúng được chính danh hóa bởi những thay đổi theo hướng mọi người nghĩ về chúng những điều kiện tương tự trong thời kỳ trước không tạo ra kết quả tương tự vì môi trường tri thức khác nhau.

Theo tôi, cả hai quan điểm này đều nắm bắt được một phần sự thật, vì nhân quả vận động theo cả hai hướng cùng một lúc. Điều kiện vật chất rõ ràng định hình cách thức thụ cảm những ý tưởng nhất định của con người. Những ý tưởng có luân lý nội tại riêng, và nếu không có khung nhận thức mà chúng đề ra, người ta sẽ diễn giải điều kiện vật chất khác nhau. Điều này ảnh hưởng đến cách hiểu về sự tiến hóa của quan niệm bản sắc, vì nó được thúc đẩy bởi cả sự tiến hóa trong tư tưởng và điều kiện thay đổi trong một xã hội rộng lớn hơn khi châu Âu bắt đầu quá trình hiện đại hóa kinh tế xã hội.

Trên bình diện ý tưởng, chúng ta có thể thấy sự phân biệt giữa bên trong và bên ngoài, và giá trị hóa cái trước lên trên cái sau, đã có bước khởi điểm quan trọng cùng Luther3. Giống như nhiều nhà tư tưởng sau này nỗ lực tìm hiểu vấn đề bản sắc, ông bắt đầu với cuộc tìm kiếm khắc khổ để hiểu chính mình, và cách ông có thể được biện minh trước Chúa. Con người nội tại là không tốt, hắn là kẻ có tội nhưng vẫn cần được cứu rỗi thông qua hành động thể hiện đức tin ở bên trong, vốn không thể trở nên hữu hình thông qua bất cứ hành động bên ngoài nào. Do đó Luther chính là người tạo ra ý niệm, là trọng tâm của vấn đề bản sắc, rằng nội ngã vốn sâu kín và sở hữu nhiều tầng lớp mà chỉ có thể được bộc lộ thông qua tự vấn bản thân.

Tuy nhiên, quan điểm của Martin Luther có khoảng cách khá xa với hiểu biết hiện đại hơn về bản sắc. Ông tôn vinh tự do nội ngã, nhưng nội ngã đó chỉ theo một chiều: đức tin và sự chấp nhận ân sủng của Chúa. Đó là lựa chọn nhị phân: họ tự do chọn Chúa, hoặc không. Họ không thể chọn trở thành tín đồ theo đạo Hindu, đạo Phật hay quyết định bản sắc thực sự của họ bằng việc công khai mình là đồng tính nam hay đồng tính nữ. Luther không phải đối mặt với “cuộc khủng hoảng giá trị”, điều mà ông có lẽ sẽ không thể hiểu được, vì dù từ bỏ Giáo hội Hoàn vũ, ông hoàn toàn chấp nhận chân lý căn bản của Kitô giáo4.

Lý do thứ hai giải thích tại sao Luther chưa chạm đến quan điểm hiện đại về bản sắc, đó là nội ngã của ông không tìm kiếm sự thừa nhận của đại chúng về thứ tự do nội ngã mới được tìm ra. Thật vậy, ông thống khổ vì động cơ của chính mình: ông tìm cách lảng tránh vết nhơ của sự tự thỏa mãn, biết rằng “chính ông là ác nhân không thể cải tạo được, không có khả năng thoát khỏi những gì ông gọi là ham muốn trần tục (concupiscence) (tội lỗi của việc làm điều đúng đắn là không chỉ để làm hài lòng Chúa mà còn vì lợi ích bản thân)5. Dù được công nhận rộng rãi trong thời đại của mình và có năng lực kiểm soát các cơn tức giận chính đáng, học thuyết đức tin của Luther được xây dựng dựa trên mối quan hệ riêng của con người với Chúa chứ không phải dưới bất kỳ hình thức đồng thuận đại chúng nào.

Tuy nhiên, sự khác biệt giữa bên trong và bên ngoài đã được thiết lập và có thể bồi đắp bởi những nhà tư tưởng sau này với các hình thức mới của tự do bên trong, những người không chấp nhận thế giới quan Kitô giáo của Martin Luther.

Vào cuối thế kỷ 18, ý tưởng cốt lõi của bản sắc hiện đại phát triển hơn nhiều và xuất hiện một hình thức thế tục. Nhà lý luận chính trị người Canada là Charles Taylor có những mô tả rõ ràng về quá trình này, với triết gia Jean-Jacques Rousseau đóng vai trò trung tâm6. Rousseau là nguồn cảm hứng cơ bản của nhiều ý tưởng mà về sau trở nên rất quan trọng đối với một loạt xu hướng hiện đại: dân chủ, nhân quyền, chủ nghĩa cộng sản, nguyên lý nhân học và chủ nghĩa môi trường. Tuy nhiên, với ông, lòng tốt tự nhiên của nội ngã là chủ đề gắn liền với các tác phẩm đa dạng của ông về chính trị, xã hội và cá nhân7.

Rousseau đảo ngược đánh giá về đạo đức con người nội tại của Kitô giáo. Kitô hữu như Luther tin vào tội tổ tông truyền: con người là sinh vật sa ngã chỉ có thể được cứu rỗi bằng tình yêu của Chúa. Trong Diễn ngôn về nguồn gốc của Bất bình đẳng (Discourse on the Origins of Inequality), Rousseau lập luận con người đầu tiên - con người ở trạng thái tự nhiên - không có tội. Những đặc điểm mà chúng ta liên tưởng đến tội lỗi và điều ác - ghen tị, tham lam, bạo lực, thù hận và những điều tương tự - không phải là đặc điểm của loài người sơ khởi. Trong mô tả của Rousseau, không có xã hội loài người nguyên thủy: những người đầu tiên là sinh vật lo sợ, bị cô lập với nhu cầu hữu hạn, đối với họ, tình dục là bản năng tự nhiên, không phải gia đình mới. Họ không tham lam hay đố kị, cảm xúc tự nhiên duy nhất của họ là thương hại đối với sự đau khổ của người khác.

Theo Rousseau, bất hạnh của con người bắt đầu cùng với sự khám phá ra xã hội. Con người đầu tiên bắt đầu dấn thân vào xã hội bằng cách thuần hóa động vật, điều “tạo ra bước đi đầu tiên về niềm kiêu hãnh bản thân”. Sau đó, họ bắt đầu hợp tác để bảo vệ và tận dụng lợi thế của nhau; mối liên hệ mật thiết hơn “khắc sâu trong tâm trí con người nhận thức về một số mối quan hệ nhất định… điều mà chúng ta diễn tả bằng từ lớn, nhỏ, mạnh, yếu, nhanh, chậm, lo sợ, bạo dạn và những ý tưởng tương tự khác”. Khả năng so sánh và đánh giá người khác là nguồn gốc bất hạnh của con người: “Con người sớm bắt đầu thiết lập giá trị cho nhau, biết lòng tự trọng là gì, và ngay khi từng người tuyên bố sở hữu điều đó, sẽ không an toàn cho bất kỳ ai chối bỏ lòng tự trọng của người khác”. Rousseau phản đối sự dịch chuyển từ amour de soi (tình yêu bản thân) sang amour propre (ái kỷ hay phù phiếm); lợi ích cá nhân giản đơn sẽ chuyển hóa thành cảm giác tự hào và mong muốn được xã hội công nhận8.

Rousseau nói rằng tư hữu xuất hiện cùng với việc khám phá ra ngành luyện kim và nông nghiệp; trong khi khiến con người trở nên giàu có hơn, khả năng tích tụ tài sản cũng làm tăng sự khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân và đẩy sự ghen tị, đố kị, tự hào và xấu hổ lên tầm cao mới. Do đó, lời cảnh tỉnh nổi tiếng của Rousseau trong đầu phần thứ hai của Diễn ngôn (Discourse) là:

Người đầu tiên, sau khi chiếm giữ một phần đất đai, tự đứng lên tuyên bố “Đây là của tôi”, và tìm ra những kẻ suy nghĩ đủ giản đơn để tin tưởng anh ta, là nhà sáng lập thực sự của xã hội dân sự… Biết bao nhiêu tội ác, chiến tranh, sát hại lẫn nhau, khổ đau và điều kinh hãi mà một người khác đã có thể cứu rỗi nhân loại, khi đang kéo cọc hay lấp mương, đáng lẽ phải nên hét lên với những kẻ đồng hành: Đừng nghe theo tên lừa đảo đó, các ngươi sẽ lạc lối nếu quên rằng mọi hoa trái trên địa cầu đều thuộc về tất cả chúng ta một cách bình đẳng, và trái đất này không dành riêng cho bất kỳ ai!9

Rousseau đưa ra hai giải pháp riêng biệt giúp nhân loại bước ra khỏi thảm họa về bất bình đẳng và bạo lực. Giải pháp đầu tiên được phác thảo trong cuốn Khế ước Xã hội (The Social Contract) mang tính chính trị, trong đó công dân trở về trạng thái bình đẳng tự nhiên thông qua sự xuất hiện của một “ý chí tập thể” đoàn kết họ lại trong đức tính cộng hòa. Họ hợp tác với nhau thành liên minh chính trị, nhưng phải theo nghĩa không cho phép có bất đồng hay đa nguyên. Một cách chuẩn xác, giải pháp này bị chỉ trích là mang tính tiền-toàn trị, tước bỏ tính đa dạng và đòi hỏi sự thống nhất nghiêm ngặt về tư tưởng.

Giải pháp thứ hai không mang tính chính trị mà diễn ra ở cấp độ cá nhân. Trong một tác phẩm sau này của mình, Mộng tưởng của Kẻ Lang thang Cô độc (Reveries of a Solitary Walker), Rousseau cố gắng khôi phục lại trạng thái ý thức của con người đầu tiên, đó là con người như trước khi phát hiện ra xã hội. Trong cuốn Diễn ngôn về Bất bình đẳng (Discourse on Inequality), ông nói rằng “cảm giác đầu tiên của con người là sự tồn tại của mình”; cảm giác tồn tại (sentiment de l’existence) trở về trong Mộng tưởng (Reveries) như một cảm giác trọn vẹn và hạnh phúc xuất hiện khi cá nhân tìm cách khám phá ra bản ngã thực sự ẩn giấu bên trong các lớp cảm giác xã hội mà họ tiếp nhận10. Cảm giác tồn tại của Rousseau một ngày nào đó sẽ biến thành kinh nghiệm trải qua (lived experience), một phần gốc rễ của chính trị bản sắc đương đại.

Do đó, Rousseau có quan điểm khác biệt liên quan đến bản chất con người. Ông công kích khẳng định của Thomas Hobbes khi cho rằng con người ở trạng thái tự nhiên là bạo lực, tàn nhẫn và ích kỷ, Rousseau cũng không đồng ý với John Locke khi cho rằng tài sản tư nhân là tự nhiên đối với loài người lúc sơ khởi. Ông cũng không đồng ý với Socrates và Adeimantus rằng thymos là một phần cấu thành tâm hồn con người, vì Rousseau khẳng định rõ ràng rằng cảm xúc kiêu hãnh, và sau đó mong muốn được người khác công nhận, không tồn tại đối với loài người thời kỳ sơ khởi nhất.

Những gì Rousseau khẳng định, vốn trở thành nền tảng cho chính trị thế giới trong các thế kỷ tiếp theo, là thứ được gọi là xã hội tồn tại bên ngoài từng cá nhân, một khối bao gồm các quy tắc, mối quan hệ, chỉ thị và phong tục mà chính nó là trở ngại hàng đầu cho việc hiện thực hóa tiềm năng của con người, và do đó là hạnh phúc của con người. Lối suy nghĩ này mang tính bản năng đến nỗi chúng ta không nhận thức được nó. Điều đó hiển hiện trong trường hợp đứa trẻ vị thành niên bị buộc tội cãi cố rằng “Xã hội ép cháu làm vậy”, hay khi người phụ nữ cảm thấy tiềm năng của mình bị kìm kẹp bởi xã hội định kiến và phân biệt giới tính xung quanh cô. Ở quy mô lớn hơn, điều này hiển hiện trong lời phàn nàn của Vladimir Putin, người cho rằng trật tự quốc tế do Hoa Kỳ lãnh đạo không tôn trọng Nga, và từ đó tìm cách lật đổ nó. Trong khi các nhà tư tưởng trước đó có thể phê phán một số khía cạnh của quy tắc và tập quán xã hội hiện tại, ít người lập luận rằng toàn bộ xã hội hiện tại và quy tắc của nó cần phải được bãi bỏ đồng thời và thay thế bằng một cái gì đó tốt hơn. Đây thực chất là những gì kết nối Rousseau với các hoạt động chính trị mang tính cách mạng ở Pháp năm 1789, hoặc Nga năm 1917, và Trung Quốc năm 1949.

Giống như Luther, Rousseau hình thành nên tính đối lập rõ nét giữa nội ngã và xã hội bên ngoài, đòi hỏi cá nhân tuân thủ với các quy tắc của nó. Tuy nhiên, không giống như Luther, sự tự do của cá nhân nội tại đó không chỉ nằm ở khả năng chấp nhận ân sủng của Thiên Chúa, đúng hơn, nó nằm ở khả năng phổ quát và tự nhiên trong việc trải nghiệm cảm giác tồn tại, không bị trói buộc bởi các tầng nấc quy ước xã hội tích lũy nên. Do đó, Rousseau thế tục hóa và khái quát hóa nội tính do Luther mở ra, và được hoàn thiện thông qua công cuộc khám phá xúc cảm sâu nhất của Rousseau, cũng đau khổ và dai dẳng như của vị tu dòng Augustinô. Theo Charles Taylor, “Đây là một phần trong bước ngoặt lớn về tính chủ thể (subjective) của văn hóa hiện đại, một hình thái mới của đặc tính nội ngã, ở đó chúng ta nghĩ về chính chúng ta như là sinh vật có chiều sâu nội tâm”11.

Do đó, quá trình thế tục hóa nội ngã của Rousseau, và sự ưu tiên ông dành cho nó đặt trên quy ước xã hội, là bước đệm quan trọng cho ý tưởng hiện đại về bản sắc. Nhưng Rousseau, như chúng ta thấy, không tin rằng nhu cầu được thừa nhận có tính tự nhiên đối với loài người. Ông lập luận rằng cảm xúc kiêu hãnh và khuynh hướng so sánh bản thân với người khác không tồn tại ở loài người thời kỳ đầu, và sự xuất hiện của chúng trong lịch sử loài người đặt nền tảng cho bất hạnh của con người sau này. Do đó, khôi phục lại nội ngã đòi hỏi việc tước bỏ nhu cầu được xã hội thừa nhận của chính họ, một kẻ mộng mơ đơn độc không cần sự chấp thuận của bất cứ ai.

Với tri thức hiện tại của chúng ta về xã hội loài người thời kỳ đầu và về sự tiến hóa của loài người, chúng ta có thể lưu ý về mức độ cực kỳ chuẩn xác của Rousseau ở một số điểm nhất định, nhưng lại cực kỳ sai lầm ở một số điểm khác. Ông phần lớn đã đúng khi mô tả về các giai đoạn lớn trong sự tiến hóa của xã hội loài người, theo dấu quá trình chuyển đổi từ những gì ngày nay chúng ta gọi là xã hội săn bắt hái lượm sang nông nghiệp và sau đó đến thương nghiệp. Ông cũng đã đúng khi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khám phá ra nền nông nghiệp: cách thức sự kiện này tạo nên thể chế sở hữu tư nhân và xã hội nông nghiệp có tính bất bình đẳng và phân cấp hơn nhiều so với xã hội săn bắt hái lượm mà chúng thay thế12.

Nhưng Rousseau sai ở một số điểm quan trọng, bắt đầu với lời khẳng định con người thời kỳ đầu mang tính chủ nghĩa cá nhân nguyên thủy. Chúng ta biết ông sai, trước hết bởi chúng ta không tìm được bằng chứng khảo cổ học hay nhân học về loài người thời kỳ tiền xã hội, và thứ hai vì chúng ta có độ tin cậy cao rằng chính tổ tiên linh trưởng của loài người hiện đại có tính xã hội cao. Loài linh trưởng hiện tại rõ ràng có cấu trúc xã hội phức tạp cùng với bản năng cảm xúc cần thiết để duy trì giống loài13. Lời khẳng định của Rousseau rằng niềm kiêu hãnh chỉ xuất hiện ở một giai đoạn tiến hóa xã hội nhất định là bất thường, nó đặt ra câu hỏi làm thế nào cảm xúc bản năng của con người có thể xuất hiện tự phát nhằm đáp lại yếu tố thúc đẩy từ bên ngoài. Nếu niềm kiêu hãnh được tạo dựng từ xã hội, trẻ nhỏ phải được đào tạo theo cách nào đó để trải nghiệm nó, tuy nhiên chúng ta không quan sát thấy điều này diễn ra ở trẻ. Ngày nay, chúng ta biết rằng cảm giác tự hào và lòng tự tôn liên quan đến mức độ chất dẫn truyền thần kinh serotonin trong não, và tinh tinh cho thấy mức serotonin tăng cao khi chúng đạt được vị trí con đực alpha14. Dường như không có thời điểm nào mà, về mặt hành vi, loài người hiện đại không so sánh bản thân mình với người khác hoặc cảm thấy tự hào khi nhận được sự thừa nhận của xã hội. Ở khía cạnh này, Plato có cách kiến giải rõ ràng hơn về bản chất con người so với Rousseau.

Việc xuất hiện sự phân biệt nội ngã và ngoại ngã ở châu Âu trong khoảng giữa Cải cách Tin Lành và Cách mạng Pháp không phải là ngẫu nhiên. Xã hội châu Âu trải qua một loạt thay đổi kinh tế và xã hội sâu sắc, tạo ra điều kiện vật chất mà nhờ đó các ý tưởng kiểu như vậy có thể lan rộng.

Tất cả các xã hội loài người đều xã hội hóa các thành viên để sống theo quy tắc chung, nếu không, sự hợp tác của con người, và sau đó là thành công của con người với tư cách một loài, là bất khả. Tất cả các xã hội đều có thiếu niên nổi loạn và kẻ lập dị, những người không muốn tuân theo những quy tắc đó, nhưng trong cuộc đấu tranh này, xã hội hầu như luôn chiến thắng bằng cách bắt nội ngã phải tuân theo chuẩn mực bên ngoài.

Do đó, quan niệm về bản sắc theo cách hiểu hiện nay thậm chí không phổ biến trong hầu hết xã hội truyền thống của loài người. Trong phần lớn mười nghìn năm lịch sử nhân loại, đại đa số người dân sống trong cộng đồng nông nghiệp ổn định. Trong những xã hội như thế, vai trò xã hội đều bị giới hạn và cố định: hệ thống phân tầng chặt chẽ dựa theo thâm niên và giới tính, tất cả đều có nghề nghiệp giống nhau (làm nông hoặc nuôi con và chăm nom gia đình); toàn bộ cuộc đời một người đều diễn ra trong ngôi làng nhỏ tương tự nhau, với một nhóm giới hạn bạn bè và hàng xóm; tôn giáo và niềm tin được tất cả mọi người cùng chia sẻ; và dịch chuyển xã hội - việc di chuyển ra khỏi làng, chọn một nghề nghiệp khác hoặc kết hôn với một người không phải do cha mẹ lựa chọn - gần như là không thể. Xã hội như vậy vừa không có tính đa nguyên, vừa không có tính đa dạng, cũng không có sự lựa chọn. Thiếu lựa chọn, sẽ không có ý nghĩa gì khi một người ngồi lại và ngẫm nghĩ về câu hỏi “Thực sự tôi là ai?” Tất cả các đặc điểm tạo nên nội ngã đều cố định. Ai đó có thể nổi loạn bằng cách chạy trốn đến ngôi làng khác, nhưng ở đó họ sẽ thấy chính mình tiếp tục bị mắc kẹt trong không gian xã hội hạn hẹp y hệt. Không có quan niệm về “xã hội” nằm ngoài cá nhân, cản trở các lựa chọn của cá nhân, và không có việc giá trị hóa nội ngã được đặt trên xã hội.

Tất cả điều này bắt đầu thay đổi khi quá trình hiện đại hóa diễn ra ở châu Âu trên quy mô rộng. Cuộc cách mạng thương mại cởi trói cho hoạt động thương mại mở rộng trên quy mô vô cùng lớn và bắt đầu đảo lộn hệ thống phân tầng xã hội thiết lập trước đó. Adam Smith lập luận trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations) rằng phân công lao động bị giới hạn bởi quy mô thị trường, khi thị trường phát triển nhờ biến đổi công nghệ, ngành nghề mới mở ra và các tầng lớp xã hội khác nhau xuất hiện. Các thành phố lớn mạnh về quyền lực và tính độc lập, trở thành nơi trú ngụ cho những nông dân tìm cách thoát khỏi sự bạo ngược của lãnh chúa. Cải cách Tin Lành khởi đầu cho một thế kỷ rưỡi chiến tranh tôn giáo, làm xáo trộn bản đồ chính trị châu Âu. Nó mở ra các khả năng lựa chọn tôn giáo theo cách không thể có được dưới thời Giáo hội trung cổ. Việc phát minh ra báo in khiến cho người dân ở khắp nơi đều biết chữ và ý tưởng mới được lan tỏa nhanh chóng.

Biến chuyển về kinh tế và xã hội trên quy mô rộng khiến các cá nhân bỗng có nhiều lựa chọn và cơ hội hơn trong cuộc sống. Trong xã hội cũ, những lựa chọn xã hội hữu hạn sẽ quyết định nội ngã của mỗi người, khi chân trời mới mở ra, câu hỏi “Tôi là ai?” bỗng nhiên trở nên gần gũi hơn, tương tự với nhận thức về hố sâu ngăn cách rộng lớn đang tồn tại giữa con người nội tại và thực tế bên ngoài. Các ý tưởng đã định hình thế giới vật chất, và thế giới vật chất tạo điều kiện cho sự lan tỏa của một số ý tưởng nhất định.

G. R. Elton, Reformation Europe , 1517-1559 (New York: Harper Torchbooks, 1963), 2.↩︎

Martin Luther, Christian Liberty , ed. Harold J. Grimm (Philadelphia: Fortress Press, 1957), 7-8.↩︎

Nhiều thế kỷ trước Martin Luther, Augustinô đã đi theo con đường khổ hạnh tương tự của nội ngã trong Lời thú tội . Tuy nhiên, không giống như Luther, các tác phẩm của ông không làm giảm giá trị của thể chế xã hội hoặc gây ra biến động lớn trong chính trị và xã hội thời đó.↩︎

Charles Taylor, Sources of the Self: The Making of the Modern Identity (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1989), 18.↩︎

Elton, Reformation Europe , 196.↩︎

Xem Taylor’s Sources of the Self and Multiculturalism: Examining the Politics of Recognition (Princeton, NJ: Princeton University Press, 1994).↩︎

Xem Arthur M. Melzer, The Natural Goodness of Man: On the System of Rousseau’s Thought (Chicago: University of Chicago Press, 1990).↩︎

Jean-Jacques Rousseau, Oeuvres complètes de Jean-Jacques Rousseau , vol. 3 (Paris: Éditions de la Pléiade, 1966), 165-66. Author’s translation↩︎

Ibid., 165.↩︎

Jean-Jacques Rousseau, Les rêveries du promeneur solitaire (Paris: Éditions Garnier Frères, 1960), 17. Tác giả dịch.↩︎

Charles Taylor, The Ethics of Authenticity (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1992), 26.↩︎

Niềm tin của Rousseau rằng tình dục là tự nhiên nhưng không phải là gia đình dường như không đúng với con người hiện đại có tính hành vi. Tuy nhiên, điều đó đúng với loài tinh tinh hiện đại và cũng có thể đúng với tổ tiên của người hiện đại được cho là loài giống tinh tinh↩︎

Phân tích sâu hơn về chủ đề này, xem Fukuyama, Origins of Political Order , 26-38.↩︎

Frank, Choosing the Right Pond , 21-25.↩︎